23/- Ngày 06-12-1926 (âl. 02-11-Bính Dần): Ðức Thái
Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ, lập Tân Luật và dạy đạo.
Lundi 06
Décembre 1926 (02-11-Bính Dần)
THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Nhu, chư Tín Nữ,
Tửu.... Ða tạ.... Ða tạ.
Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu nghe. Ngọc Lịch Nguyệt
nghe. Ða tạ.
Nhị vị Hiền Hữu có mặt tại đàn Minh Lý há? Bái tửu.
Cười....
Nhị Hiền Hữu có biết Tề Thiên ngày hôm qua Tề Thiên
nào chăng? Cười.... Ấy là Tề Thiên ngày Ðại Lễ, nhập xác cho Vĩnh của Lão đến
nghe à.
Ta khen cả 4 vị Hiền Hữu chẳng bái lễ, thật rất phải
thật rất hay, khen khen khen....
Tắc ngày ấy không có mặt, đừng vậy nữa.
Lễ chi? Ấy là cách chơi của lũ trẻ.
Từ đây đọc câu kinh nầy lại như vầy:
"Từ bi cứu thế giáng từ thiền".
Thượng Trung Nhựt bạch: Xin Ngài từ bi sửa kinh lại
luôn thể.
- Lão sẽ đặt lại hết. Chỉnh Ðàn cho Thầy ngự.
NGỌC
HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ chư Môn Ðệ, chư Ái Nữ, chư Nhu, chư Tín Nữ,
Trung bạch Thầy xin cho đình lại qua ngày thứ bảy tới
sẽ nạp luật cho Thầy phê chuẩn....
Phải ở luôn luôn nơi Thánh Thất đặng lập luật sẵn.
Nghe Thầy dạy, khởi đầu lập "Luật Tu" gọi là "Tịnh Thất
Luật", kế nữa lập "Luật Trị" gọi là "Ðạo Pháp
Luật", ba là lập "Luật Ðời" gọi là "Thế Luật",
các con hiểu à?....
Hồng, con phải đợi ngày nào Thánh Thất an rồi, Thầy sẽ
liệu định cho chư Huynh con lo liệu nghe à.
Chư Nhu thượng sớ:
Lê Quang Tường:
Tường
quang nhứt khí chiếu minh thiên,
Ðạo thủ khả tri ý diệu huyền.
Nhơn phẩm bất phân Tiên Phật vị,
Ðào trang thỉnh nhập cửu nguyên nhiên.
Thâu
Chư Môn Ðệ biểu cả chúng sanh vào trong, dặn nó đứng
gần cửa cho có hàng ngũ và an tịnh đặng nghe Ðạo.
Võ Văn Bửu:
Bửu
kinh đệ chiếu triệu qui hồi,
Khả tác từ duyên bất cử bôi.
Thiên Ðịa vô công Nam nhập hội,
Thành tùy luật khích nhân dân hồi.
Thâu
Nguyễn Văn Nén:
Nén
hương đưa đủ nguyện lòng đưa,
Thầy khá khen cho tánh dối lừa.
Trời để mắt xem đời thiện ác,
Dữ răn lành thưởng thấy hay chưa?
Khá cải tà qui chánh nghe. Thâu.
Ðặng Văn Viết:
Viết
thành một bổn hiển Thiên Thơ,
Ðã trước muôn năm để tới giờ.
Lành dữ kiếp căn gần ngàn lượt,
Một phen lau sạch nợ thờ ơ.
Thâu
Lê Văn Tiền:
Tiền
duyên hậu vận rất vừa nhau,
Chẳng có một ai gọi khởi đào.
Mình muốn cải Trời là tưởng mộng,
Ðể xem cơ Tạo sẽ làm sao.
Thâu
Ngô Văn Bá: (Thanh Ðiền, Tây
Ninh)
Ðá
bia danh tạch chẳng bền chi,
Cái khó tua lo kịp với thì.
Danh lợi từ nhiên theo đạo đức,
Ðặng hay điều dở có lo chi.
Thâu
Phụ ghi: ...danh tạch... chúng tội nghĩ có thể la?...danh
tạc...
Nguyễn Văn Khách:
Khách
du Tiên đời chẳng mấy người,
Cứ bốn điều tà gấm ghé chơi.
Cuộc rượu mắc hơn trăm kệ tụng,
Ðường oan nẻo tội hiếm người mời.
Thâu
Trung, từ đây sắp Ðàn nghiêm nghị một lần, rồi cứ đứng
chỗ nầy chớ đừng làm có tiếng tăm nghe.
Tái Cầu:
NGỌC
HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Chư Nhu thượng sớ.
Nguyễn Văn Ðức:
Ðức
tánh khen con có chí thành,
Lần đường đạo đức chẳng cầu danh.
Ghe phen cửa rách hiên nhà lủng,
Chẳng quản lao lung giữ tiếng lành.
Thâu
Phạm Ngọc Mai:
Mai
tuyết đua chen trận gió đông,
Chia hai sắc trắng vẻ màu hồng.
Ðưa duyên đã lắm cơn may mắn,
Trước cửa khoe tươi cợt ả hồng.
Thâu
Trần Văn Gạo:
Gạo
châu củi quế gặp thời hư,
Biết bấy lâu chờ gặp thói dư.
Mãn nguyện chưa xong gia sự biến,
Còn lo một nỗi sắc còn tươi.
Thâu
Nguyễn Văn Nhương:
Nhương
là không nghĩa vốn không người,
Cái tánh dị thường ấy giống ngươi.
Chặt chịa cùng đời chưa rõ ích,
Thân còn lững chững nợ chưa rồi.
Thâu
Mai Văn Xuân:
Xuân
thu biết đã đặng bao rồi,
Nghiệp chẳng nên mà vận chẳng xuôi.
Gặp lúc tai bay hơ hẫng chịu,
Lần theo đường Ðạo nợ đời rồi.
Thâu
Ðoàn Văn Thương:
Thương
ai chẳng chịu lộc nhà Châu,
Ăn thể ăn đi chịu thảm sầu.
Con vốn như người Thầy nói đó,
Biết ai con trả lại đôi câu.
Biểu nó nói.... nhà Thương ai chẳng chịu lộc nhà Châu.
Lũ bây cũng chưa hiểu thơ há? Cho nữa vô ích. Thầy nói
Thương là nhà Thương, các con hiểu thương là thương, ngu ngu ngu....
Cư, con đọc già đời cũng vậy há.
Thằng Thương nó giống như Bá Di, Thúc Tề nó mới chịu
khổ vậy đó các con.
Nguyễn Văn Nở:
Nỡ
đem thân ngọc bỏ đồng không,
Hiu hắt một thân chẳng biết giòng.
Lo liệu chưa qua điều sở vọng,
Nay toan để bước lối nâu sồng.
Thâu
Phạm V. Truyện:
Truyện
tích xưa ghi lẽ khí trung,
Cũng là giòng giống đấng anh hùng.
Bởi chưng chưa biết quyền Trời Ðất,
Lại để cháu con gánh não nùng.
Thâu
Trương Văn Nho:
Nho
truyền đã lắm nhục bề Tiên,
Mặt thế chưa ai biết nét hiền.
Có lợi cho danh thường hiếp chúng,
Vì điều oan nghiệt tổ tiên truyền.
Thâu
Võ Thị Xòn:
Hầu Ðàn nữa, khá trai
giới, cải tà qui chánh.
Trương Văn Chua:
Chua
cay đã chịu lắm mùi đời,
Bán thế gỡ chưa khỏi vận thời.
Kẻ hiếp người khi vì chánh trực,
Gặp Thầy khi trẻ đặng an nơi.
Thâu
Phạm Thị Yến:
Yến
Tử Hà xưa lúc vận cùng,
Còn mang dép rách đến Quang Trung.
Nay con chưa đủ thông đường Ðạo,
Cứ ngóng theo chơn Lão tháp tùng.
Thâu
Nguyễn Văn Bạch:
Bạch
thủ thành gia ít kẻ tài,
Cũng như Huệ Mạng thế không hai.
Việc đời chẳng khác quyền Trời Ðất,
Duy cứ đức đong đến võ đài.
Thâu
Nguyễn Văn Trữ:
Trữ
đức còn hơn muốn trữ vàng,
Giàu sang chẳng chuộng gánh giang san.
Hễ đời càng dữ càng kiên đức,
Võ lực hùng oai cũng chẳng màng.
Thâu
Thầy dặn từ đây, hễ
có cha mẹ các lũ trẻ nào đã làm Môn Ðệ, đừng để chúng nó làm rộn Thầy như vậy
nữa nghe.
Lê Thị Trước:
Trước
lâm chứa đặng bảy ông Hiền,
Vì bỏ tục trần mến cảnh Tiên.
Hồng cấu đã chui thân phải vấy,
Hơn thua cười kẻ biết nơi tiền.
Thâu
Giác:
Giác
đời từ thử một mùi thiền,
Ðã đợi Phật duyên, gặp Phật duyên.
Hé mắt nửa ngờ còn nửa tưởng,
Tính đi tính lúng đặng như nguyền.
Cười.... Thâu.
Trung, con nói với chúng nó nơi Thánh Thất nầy duy để
cho chúng sanh cầu Ðạo mà thôi.
Qua ba tháng, Thầy sai Lý Bạch cho thuốc và gia đạo.
Chẳng lẽ bậc Chí Tôn như Thầy, mà cho hỏi những việc
phi thường dường ấy. Thầy ban ơn cho các con.