29/- Ngày 13-12-1926 (âl. 09-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Lundi 13 Décembre 1926 (09-11-Bính Dần).
THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội,
chư Nhu, chư Thiện Nam Tín Nữ,
Thánh Thất đã an, chư Hiền Hữu
phải chỉnh nghi cho tinh tấn.
Thầy dạy Thượng Trung Nhựt
Hiền Hữu lo sắp đặt cho ra nghi tiết. Thì sắp đặt sau lưng bàn Hộ Pháp, phải để
một miếng nỉ dài một thước rưỡi, cao ba thước, thêu chữ bùa Lão vẽ đây (chữ Khí).
Làm một cái bàn thờ ba nấc,
giữa cao hai bên bằng cho Thượng Phẩm và Thượng Sanh đứng.
Chư Ðạo Hữu chỉnh đàn cho Thầy
ngự.
Ai chẳng y quan tử tế, xuất
ngoại.
Nghe và tuân mạng.
La T. Hạp:
Hạp theo phong hóa giữ đường tu,
Nước cạn non mòn đạo đức như.
Gió nắng chưa hay ngày vắng dạng,
Muôn đời khoe một nết nên hư.
Thâu
Thị Trước:
Trước
mai chẳng hiệp nghĩa thơ cưu,
Mấy kiếp vì chưa trả hết thù.
Vẹn Ðạo khá lo riêng chút phận,
Cái công nhắn khách gởi đường tu.
Thâu
Thị Biện:
Biện
phân cho hiểu chút thân sau,
Nhơn trước Thiên môn chửa biết vào.
Thấy lối lành đưa qua mặt thế,
Nỗi lưu ly phận chẳng riêng bâu.
Thâu
Thị Nhờ:
Nhờ
ai nay đặng nghiệp nhà an,
Mà lại cưu cưu muốn phụ phàng.
Dưa muối đã cùng nhau cực nhọc,
Phải nhìn lấy mặt buổi vinh sang.
Thâu
Thị Bính:
Bính
niên canh hạn đã gần qua,
Hết buổi lưu linh tới có nhà.
Ðức hạnh một lòng lo trọn Ðạo,
Vì tu nên phận đặng nên bà.
Thâu
Thị Nhân:
Nhân
duyên mấy lúc chẳng như nguyền,
Vì dạ con đương lúc đảo điên.
Phải nợ tiền khiên dầu khó nhọc,
Cũng lo trọn đạo vợ chồng hiền.
Thâu
Thị Nguyên:
Nguyên
tình chớ khá để riêng lòng,
Muốn tát cho cùng nước biển Ðông.
Ðồng chí đồng tâm chồng với vợ,
Dầu toan cởi phụng đến đền Rồng.
Thâu
Thị Trà:
Trà
mi khi đã dựa cung đài,
Căn cứ chi nên phải lạc loài.
Vì đức chẳng giồi lo chút Ðạo,
Mà ra rẻ rúng cái nhơn tài.
Thâu
Thị Xa:
Xa
nơi hiền đức giữ căn xưa,
Cái tánh hung hăng biểu phải chừa.
Lấn lướt đặng đời Trời ghét mặt,
Hình răn nào phải đợi người thưa.
Thâu
Thị Chi:
Chi
nên an mạng gắng tùy thời,
Chẳng cánh buồm trương rán sức hơi.
Ðừng thấy sang hèn toan đổi dạ,
Nên hư khá nhớ tại nơi Trời.
Thâu
Quít:
Quít
cam bồng bưởi vốn như lòng,
Ở thế thì lo một chút công.
Giành giựt cho xong mùi mặn lạt,
Chẳng vì chánh giáo của Thiên công.
Thâu
Tới:
Tới
khi cù đủ gạt vi rồng,
Còn đợi một ngày tiếp sắc phong.
Ðều đặn một lời cần đạo đức,
Ðừng lòng ỷ thế cũng như không.
Thâu
Miêng:
Miêng
trường tánh đức giữ cho bền,
Gia nội phải hòa dưới với trên.
Chẳng khá tranh hơn rồi giận thiệt,
Trên đời nào có cách xa Tiên.
Thâu
Trồng:
Trồng
cau mấy mặt biết lòng cau,
Phải nhớ rằng đời khó chuốt trau.
Nên Thánh nên Hiền chưa thấy mặt,
Gian hùng đầy quận với đầy trào.
Thâu
Bàng:
Bàn
qua thế sự lắm buồn cười,
Nếu cả nhơn sanh phải giống ngươi.
Trời Ðất chẳng cao và chẳng thấp,
Cũng như lỡ cổng với sào bơi.
Thâu
Phẩm:
Phẩm
hàng cũng nhộn với người đời,
Tính đến chen vai với Ðạo chơi.
Thấy mặt Ta cho vào đứng đó,
Chừng mô thiệt dạ sẽ trao lời.
Thâu
Hải:
Hải
hồ đưa bước đã cùng nơi,
Ngặt nỗi chưa hay biết mặt Trời.
Tội lỗi dẫy đầy chưa gỡ đặng,
Vào chi cho nhọc kẻ chào mời.
Thâu
Tương:
Tương
giang mấy lúc gió đưa sầu,
Duyên ở đâu mà phận ở đâu?
Hỏi khách đường xưa ai lấp ngõ,
Nên thân bèo tạt vịnh sông Ngâu.
Thâu
Niên:
Niên
cao chưa đủ trí phen đời,
Nương đỡ nhà tan ngó biển khơi.
Ý quyết non sông lo lập nghiệp,
Thương thay chưa buổi đặng nương thời.
Thâu
Dọn:
Dọn
mình cho sạch bớt phàm tâm,
Lẽ chánh tà kia phải xét thầm.
Ðừng bụng nghi nghi rồi hoặc hoặc,
Tự nhiên rõ thấu Ðạo cao thâm.
Thâu
Sửa:
Sửa
sang cho vẹn đạo cang thường,
Phải giữ cho toàn tánh thiện lương.
Ðưa rước mặt người hay xảo mị,
Lòng con con biết chớ phô trương.
Thâu
Két:
Két
kêu chẳng sánh cú dời thân,
Mấy lúc con không biết kỉnh Thần.
Nạn gởi tai bay vì chẳng hiếu,
Từ đây sám hối tội hoàn lần.
Thâu
Chữ:
Chữ
rằng Thiên Ðịa có tuần hườn,
Thiệt thiệt rồi ra có hơn hơn.
Ðương buổi thành thì suy lại đến,
Suy rồi có lúc thạnh dồi hơn.
Thâu
Dần:
Dần
dà những mảng cuộc đời lo,
Mà chẳng tu tâm lúc dặn dò.
Cha mẹ hiền lương duyên để sẵn,
Ðưa chơn đường Ðạo khá so đo.
Thâu
Kỳ:
Kỳ
khôi bớt tánh thị khi người,
Người ấy là Trời đó hỡi ngươi.
Nếu đặng lòng người Trời chẳng thuận,
Hòa nhơn đâu khá để nên lời.
Thâu
Sáo:
Sáo
sứa việc chi cũng thọc thò,
Chưa hay đặng nhỏ mới gầy to.
Nhỏ nên việc đặng chờ nên lớn,
Ðừng bỏ trôi qua tiếng dặn dò.
Thâu
Nâu:
Nâu
sòng khổ hạnh phép gần Tiên,
Như bước ướt chơn mới đến thuyền.
Gắng chí tập lần thân cực nhọc,
Bền gan tu luyện mới là nên.
Thâu
Kỳ:
Kỳ
ba độ chúng Ðạo hòa khai,
Phải đủ địa linh mới kiệt tài.
Thương đám nhơn sanh Trời trổ mặt,
Trả lời như vậy bất kỳ ai.
Thâu
Xanh:
Xanh
xanh nào có phụ người hiền,
Ðã thấy trọn quyền Ðấng Chí Thiên.
Lo hiệp nghĩa nhơn đồng loại giúp,
Ðừng ham quyền thế một mình riêng.
Thâu
Bước:
Bước
giao đưa đẩy đạo nhơn luân,
Mà tánh hiền lương chẳng đặng thuần.
Ðã rõ kiếp tu là kiếp sống,
Phải lo sửa nết lại cho nhuần.
Thâu
Thà:
Thà
theo nẻo chánh xách đèn giùm,
Thà lạy quỉ vương nói phách um.
Chưa rõ chánh tà Trời với quỉ,
Cũng như cơm nước gói nên đùm.
Thâu
Chim:
Chim
khôn biết kiếm đậu cây lành,
Người thiện phải ngừa đức háo sanh.
Tôn trọng người như Trời với Phật,
Thương yêu hết cả chúng sanh thành.
Thâu
Ðô:
Ðô
hội thay cửu nhị nguyên nhân,
Muôn kiếp chưa đem hiệp một lần.
Công cả các con là đáng nhứt,
Vì con Bồ Tát hết cư trần.
Thâu
Kiến:
Kiến
cơ thì khá biết dùng cơ,
Tu luyện nay xem đã phải giờ.
Một đổi lao thân mà đắc Ðạo,
Thương giùm người kiếp trước bơ thờ.
Thâu
Lợi:
Lợi
danh đã đọa biết bao người,
Nhiều kẻ nay còn ý dễ ngươi.
Hễ muốn lợi danh mang thất đức,
Thờ chung danh lợi hết gần Trời.
Thâu
Sách:
Sách
truyện xưa ghi đã lắm điều,
Như chuông tỉnh thế gõ nên kêu.
Ðường tu ví bẳng không lo trước,
Ðền điện Lương Vương phải cháy tiêu.
Thâu
Cho:
Cho
hay Trời Phật chí công bình,
Trước mắt ai ngờ thấy phép linh.
Huyền diệu mũi kim qua chẳng lọt,
Ðừng đừng xảo mị gọi tài tình.
Thâu
Ngọc:
Ngọc
lành đáng giá biết bao lăm,
Ðể mẻ thì ai chẳng tiếc thầm.
Ðạo đức mãn đời vùng trở dữ,
Làm cho mất nghiệp mấy muôn năm.
Thâu
Khanh:
Khanh
tể chưa hay bẳng hiếu thân,
Nhơn luân trọn Ðạo đáng nên Thần.
Ví xưa biết trước đường tu niệm,
Thì chắc nay đà ngự các lân.
Thâu
Keo:
Keo
sơn chẳng nhớ một lời thề,
Sau trước chẳng dè để đến chê.
Tánh đức ôn nhu tua tập tánh,
Ngừa cơn xuân mãn kế qua hè.
Thâu
Tâm:
Tâm
thành thì ắt đặng đời thành,
Danh chẳng cầu mà lại có danh.
Ðặng lúc vinh huê tua giữ phận,
Phòng ngừa kẻ nghịch xúm đua tranh.
Thâu
Ngăn:
Ngăn
ngừa cái thói lả lơi tình,
Ðừng động tâm mình thấy sắc xinh.
Ðưa bước vào đường đời ngắn ngủi,
Can chi ràng buộc tội bên mình.
Thâu
Siêng:
Siêng
lo thì ắt đặng no lòng,
Siêng Ðạo thì đời phải lập công.
Ðừng tưởng mờ hồ vô hỏi thử,
Phạt không thành tín bắt lên đồng.
Thâu
Thị:
Thị
thành quen thú ít ưa quê,
Ăn mặn rồi ai cũng muốn chè.
Thế sự những ham sang với trọng,
Quên lo hồn phách chẳng nơi về.
Thâu
Văn:
Văn
chương bạc tóc biến thêm nhiều,
Võ lực nửa đời võ phải tiêu.
Ðức hạnh lớn hơn quyền thế vậy,
Phải toan cho rạng đức đừng kiêu.
Thâu
Trung, con phải viết thơ cho vợ chồng em Thơ hay, nói
rằng Thầy khen nó biết ăn năn, lo trọn Ðạo vậy mới đáng con cái Thầy.
@@@