Trang

Thứ Bảy, 27 tháng 5, 2023

4617. Bài 32, Đạo Sử Q 2.

 32/- Ngày 18-12-1926 (âl. 14-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo & Ðức Thái Bạch dạy về việc lập Tân Luật.

 Samedi 18 Décembre 1926 (14-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội,

Ô trược lắm, ô trược lắm .....

Sinh Thanh, Hiền Hữu xuất ngoại kẻ ẩm tửu.


Chỉnh đàn lại cho tinh khiết đặng Thầy ngự.


 

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Các con, chư Nhu thượng sớ. Bình thân.

Tiền:

Tiền căn đã có sẵn công tu,
Biết đạo lý cao khá vận trù.
Kế thế xây thêm nền đạo đức,
Xen vào phẩm cũ khá cần cù.

Muôn:

Muôn năm ít kẻ để danh nêu,
Hết chí cứ lo có một điều.
Vợ tốt rượu ngon và thịt béo,
Ham ưa vật chất chẳng hề kiêng.

Nguyễn Quốc Biểu:

Hiến sách cường tranh khổ tụ quần,
Ái ngôi hám vị thị phi quân.
Ðồng tâm hựu chí mưu mô hiệp,
Vô đạo nan tri sự bất phân.

Thâu

 

Thiên địa tối linh sanh Thánh chất,
Quân vương háo nghĩa tác Hiền thần.
Hữu công trì chí Thiên cơ toán,
Mạc nại lao lung trạch hảo nhân.

Thâu

Trần Phát Ðại:

Ðạo tâm phải biết đạo làm người,
Ðời đó là ngươi đó hỡi ngươi.
Niên kỷ chưa qua cơn hoạn đến,
Mà che miệng lén nhẫn cười đời.

Lui.

Võ Văn Sanh:

Sanh nhằm buổi khổ khá lo lường,
Biết phận mình hèn chúng mới thương.
Láo táo đừng không qua kẻ dại,
Phải khinh mình trước kẻ ngoài nhường.

Thâu

Vân:

Vân đài có thuở đặng nêu tên,
Nghèo khổ hiền lương giữ dạ bền.
Chưa phải thời lai con ẩn nhẫn,
Dầu sao làng xóm cũng ngồi trên.

Thâu

Phan Văn Vịnh:

Vịnh theo thời thế ở theo người,
Ðừng tưởng ở đời cứ việc chơi.
Mình ích chi cho nhơn loại đỡ,
Ðừng ngồi toại hưởng lộc nhà Trời.

Lui.

 

Nguyễn Văn Bời:

Bời lời lòng những luống lo toan,
Lo đến Tổ tông chốn suối vàng.
Lo vợ lo con lo sự nghiệp,
Lo đâu lo đó Ðạo không màng.

Thâu

Trần Văn Vẽ:

Vẽ mày khéo đến hỏi xin tu,
Vợ chịu sao kham với vợ ngu.
Hỏi thử ăn chay thì ngán miệng,
Ðeo theo thịt rượu với bôn xu.

Lui.

Hạnh:

Hạnh đức làm gương dắt lũ sau,
Một nhà đạo đức khá thương nhau.
Ðã nên người trước đời trông cậy,
Gắng sửa nhà tranh hóa động đào.

Thâu. Sau Thầy trọng dụng.

Bùi Văn Kinh:

Kinh sách cha ông để lại đâu,
Mà con chữ viết chẳng nên câu.
Một nhà hiền đức ngày mòn mỏi,
Sao chẳng đường tu đến nẻo cầu.

Thâu

Trần Thị Mai:

Mai xưa trổ nhụy đã hai lần,
Tại ái nữ không biết giữ thân.
Có phẩm phải lo trân trọng phẩm,
Quyền xô thành ngã dễ bao lần.

Thâu

Huỳnh Xiếu Chuyên:

Chuyên gìn Tứ đức với Tam tùng,
Làm hiệu dạy lần bọn nữ trung.
Ðạo đức là nền làm phẩm cách,
Mượn nhành dương tịnh lửa sôi lòng.

Thâu

Bùi Thị Sùng:

Sùng tu nên nết ấy là danh,
Cái hạnh trau tria mới đặng thành.
Ðã hiểu lẽ hơn hơn lẽ thiệt,
Thì toan bỏ dữ bỏ cho đành.

Thâu

Xiếu Ngó:

Xiếu Ngó mà nên bởi có người,
Dắt dìu rồi lại dạy thông đời.
Lửa hương ví bẳng ngày sao đượm,
Phải nhớ công ơn của Ðất Trời.

Thâu

Trương Thị Nhờ:

Nhờ âm chất đủ mẹ cha xưa,
Nên hưởng giàu sang cũng đã thừa.
Biết Ðạo con tua gìn tánh đức,
Trong cơn nắng hạn khá là mưa.

Thâu

Khá phổ độ con cái Trung Huê của Thầy nghe.

Sĩ hổ con đừng thẹn với đời,
Thầy đây còn phải chịu mang lời.
Nên hư sang trọng nhờ căn trước,
Dầu phải chi chi cũng có Trời.

Thâu

Hổ thâu, khá phổ độ Nữ phái, Thầy sẽ trọng dụng.

Ðỗ Thị Du:

Du hành là kẻ bỏ đường tu,
Con sáng đừng nghe phỉnh lù mù.
Thiệt thiệt hư hư đời dễ thấu,
Có khi thấy mực gọi là chu.

Thâu