19/- Ngày 27-11-1926 (âl. 23-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy "Trước cầu cơ phải đọc Thánh ngôn cho Thiện Nam, Tín Nữ nghe...".
Samedi 27 Novembre 1926 (23-10-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ Chư Môn Ðệ, hỉ Chư Nhu, Chư
Tín Nữ,
Thầy dặn một lần nầy, từ đây
tuân y theo vậy.
Trước cầu cơ phải đọc Thánh
ngôn cho Thiện Nam, Tín Nữ nghe, chúng nó mới biết Ðạo Thầy là Ðạo gì. Nếu các
con không cho biết trước thì Thiện Nam, Tín Nữ thất lễ đã đành, chớ chúng nó
biết Thầy là ai mà kiêng nễ.... nghe à.
Phải chỉnh Ðàn lại cho nghiêm,
cái biến hôm Rằm các con chưa sợ sao, còn thất lễ nữa?
Tái Cầu:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG
ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Thầy tức cười cho các con, đọc Thánh ngôn cũng là
biếng nhác. Lời tiên tri Thầy, trong sự biến quỉ lộng là cần ích cho chúng sanh
nghe, mà các con lại chẳng đọc... đọc lại.
Tái Cầu:
NGỌC
HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Thầy hỏi các con, bài nào trúng?
Thơ, Ðạo Quang! Một lát nữa cầu Thái Bạch, cho nó nói
chuyện với hai con nghe à....
Chư Nhu cầu Ðạo thượng sớ, kẻ cầu việc chi khác để sau
nghe.
Võ Văn Phẩm:
Nên
hư chịu lắm rủi cùng may,
Thời vận đã nên khiến đến nài.
Thầy dạy một điều lo tích đức,
Ðức kia đầy đủ mới sanh tài.
Thâu
Lâm Văn Lịch:
Sanh
tài thì nghiệp cũng gầy nên,
Toan tính ra sao kế vững bền.
Trăm tuổi chưa ai quen nết Thánh,
Biết toan đem dưới thuận cùng trên.
Thâu
Ngưng:
Cùng
trên với dưới giữ khiêm cung,
Kẻ nghịch con toan kế phục tùng.
Rộng đức tánh quyền hành ắt rộng,
Ðừng quen thói tục mượn oai hùm.
Thâu
Lê Trí Huệ:
Oai
hùm ai ví Hạng Vương xưa,
Hớn đảnh gầy nên thế đón ngừa.
Thời đạt đầu xanh dầu chẳng toại,
Bảy mươi Lữ Vọng chẳng chờ trưa.
Thâu
Trần Văn Chiếu:
Chờ
trưa e nỗi bóng Trời nghiêng,
Lỡ bước e đưa chẳng gặp thuyền.
Thành chẳng chừng năm ba phút chót,
Ðợi mau qua chóng lỡ làng duyên.
Thâu
Trần Văn Lý:
Lỡ
làng duyên phận chớ buồn rầu,
Phải có cực nên mới tước cao.
Nương dưới bá tòng chờ tuyết mãn,
Non già đầu phải nhúng qua đầu.
Thâu
Cao Văn Phu:
Ðầu
xanh chí khí lập danh cao,
Phải ở sao ra mặt khí hào.
Dựng đứng cột đồng ai đã xướng,
Ðảnh Nam sừng sựng vững bền trào.
Thâu
Mai Văn Thành: Con kiếm phương thế nào cho thuận theo
nghề nghiệp con, thì Thầy giúp đỡ cho con lập thành sự nghiệp nghe à.
Còn Mắc thì Thầy sẽ sai Vinh lại hốt thuốc cho nó.
Trung, con nhớ nói với em rằng Thầy cấm nó uống rượu
nghe. Nó cảm nặng là vì rượu đó nghe.
Chiu Ngùy:
Triều
thiên nhứt lộ định phong quang,
Bát nhã trần ai khả quí nhàn.
Thiện tánh tu tâm căn hữu thiện,
Thiên niên gia sự đắc bình an.
Thâu
Nguyễn Văn Chánh:
Bình
an nhà nội mới an thân,
Hữu phước từ gia đã định phần.
Hết buổi truân chuyên nên buổi sướng,
Ðài mây có lúc cũng đưa chân.
Thâu
Phạm Trung Tín:
Ðưa
chân đến cửa Khổng Trình xưa,
Nét hạnh muốn nên phải gắng ngừa.
Lời nói kẻ khùng cùng đứa ngộ,
Rằng sao trời nắng khó kêu mưa.
Thâu
Nguyễn Văn Tự:
Kêu
mưa Thầy buộc rưới mưa vào,
Ngặt hạnh chưa nên biết tính sao.
Rõ nỗi nhà thung gìn đức cả,
Nên toan tiếp trẻ khỏi ba đào.
Cư, chấp bút nhang đặng Thầy giải tà cho nó.
Trung, con viết thơ cho Ba Thảo - Mỹ Tho đặng nó lên
hốt thuốc cho Tự nghe à.
Tắc! con cũng vì con cầu khẩn nghe.
Hồ Văn Nhứt:
Ba
đào tuổi trẻ nhẫn linh đinh,
Con khá gìn ân kẻ giúp mình.
Rán sức đua chen trong thế sự,
Song thường sợ sệt phép Trời linh.
Thâu
Nguyễn Văn Dệt:
Trời
linh mới có thưởng người lành,
Nếu chẳng thế gian cứ cạnh tranh.
Hột thóc chưa ai khoe biến sẵn,
Của kia xin nhớ phép Trời dành.
Thâu
Trương Văn Hòa:
Trời
dành đến chết chẳng ai tranh,
Tưởng trọn mình thôi nghĩ quá thành.
Hiệp chữ đoàn anh lo giúp thế,
Thì con mới đặng buổi nên mình.
Thâu
Nguyễn Văn Ngọc:
Nên
mình đừng ghét nỗi nên người,
Phải phải phân phân khá thức thời.
Một miếng mồi ngon câu cá lớn,
Mình nên con khá giúp nên người.
Thâu
Nguyễn Công Ân:
Nên
người khá vẹn nợ quân thần,
Nghèo khó tuy vân đã phải phần.
Trung hậu thế thường đời ít có,
Ham chi kết bạc gọi là lân.
Thâu
Ðỗ Văn Nghị:
Lân
ra ắt có Thánh quân ra,
Nhiều gốm vòng Nam hiệp một nhà.
Phải nhớ sang hèn con cái Lão,
Ðừng quen chê nhạo chánh cùng tà.
Thâu
Nguyễn Ngọc Lẳm:
Chánh
tà có thế dễ chi phân,
Hễ có quân vương ắt có thần.
Mượn vẻ cân đai kìa mấy mặt,
Ðua tài cậy sức để an dân.
Thâu
Nguyễn Văn Nhâm:
An
dân ắt cũng đặng lòng Trời,
Phàm thế chưa người đó hỡi ngươi.
Thà núp thú quê nghề phó nghị,
Thà theo Hạng Võ đỡ nâng ngôi.
Thâu
Nguyễn Hữu Ðại:
Ngôi
hiền khó đoạt ví ngôi vua,
Nhà của ông Ngô quá nóc chùa.
Mình biết trọng mình Thần, Thánh trọng,
Ai xua ai đuổi đức ăn đùa.
Thâu
Nguyễn Thành Hoa:
Ăn
đùa rẻ bán Lữ Vi vinh,
Một xảo trước kia sử giữ gìn.
Thà đọc sách xưa hiền bảy Lão,
Tại nơi rừng trước hưởng khương bình.
Thâu
Lê Minh Tuấn:
Khương
bình mình một chẳng chi hay,
Phải kiếm trăm năm kẻ nhắc tài.
An nước an dân toan bủa đức,
Sửa cơn nắng tối lại mưa mai.
Thâu
Lê Tâm Hảo:
Mưa
mai nắng tối biết bao lần,
Lựa lọc chưa rồi nẻo các lân.
Tính lại mấy thu man mác phận,
Còn chi mong mỏi nghiệp hồng trần.
Thâu
Lê Văn Hội:
Hồng
trần là biển khổ con ôi,
Cực nhọc đời kia quá ngán đời.
Những nỗi lợi xin cùng lộc mượn,
Hôm trông có vận buổi trông thời.
Thâu
Trần Văn Tài:
Trông
thời Nghiêu Thuấn dễ chi trông,
Nên mặc ai chưa biết gã Tòng.
Chận kế đốt thơ khêu Mạnh Ðức,
Nghiêng mình ai ví gã Châu Công.
Thâu
Trương Văn Giáo:
Châu
Công đưa nghiệp nối Nho phong,
Thánh đức còn nêu trí hoán phòng.
Thạnh nước câu văn hơn tiếng sấm,
Không trung đố kẻ thấy chim Hồng.
Thâu
Trương Văn Keo:
Chim
Hồng thuận gió mới xa bay,
Thánh đức mới hay Ðạo nhiệm bày.
Thương kẻ nhơn sanh hơn xác thịt,
Chẳng lo cầu cạnh cũng ngồi ngai.
Thâu
Lê Minh Thức:
Ngồi
ngai biết phận ấy ngồi chông,
Giữa tuyết lạnh đông buộc tưởng nồng.
Xác thịt Thầy vì không giáng thế,
Nên nhờ con giúp Ðạo nâng bồng.
Thâu
Lê Văn Nơi:
Nâng
bồng qua khỏi chốn mê tân,
Mượn chiếc thuyền Tiên lánh tục trần.
Lời lẽ tuy Thầy chưa để dặn,
Nhưng tên tuổi trẻ ở Ðài Vân.
Thâu
Lê Văn Mẹo:
Ðài
Vân quan võ để Phong Thần,
Còn của Thầy đây để nhắc cân.
Muôn đức ngàn lành không sót một,
Bao nhiêu công quả bấy nhiêu phần.
Thâu
Ðặng Văn Có:
Phần
Tiên Phật khó hiệp phần đời,
Phải biết diệt trần mới đến nơi.
Tiên cảnh nét đường không rước tục,
Thành không con dại cứ nghe lời.
Thâu
Lê Văn Ða:
Vâng
lời Thánh ắt đặng siêu phàm,
Trần thế là chi để dạ tham.
Mua đức khá tua gieo cửa tục,
Chừng mô đức vẹn mới siêu phàm.
Thâu
Nguyễn Thị Kinh:
Siêu
phàm nết gái để hơn trai,
Mượn nước nhành dương rửa cảnh đài.
Nắm phép Âm Dương đưa bóng lệ,
Thạnh cân bào huyễn đắc Thiên nhai.
Thâu
Võ Thị Giác:
Thiên
thai nào phải tại trần nầy,
Chẳng phải giữa trời chẳng khỏi mây.
Ðưa phép sanh tồn khuyên trẻ ngó,
Theo chơn dõi bước níu sau Thầy.
Thâu
Nguyễn Thị Ðược:
Sau
Thầy hứa chắc đỡ nâng con,
Thiên Ấn Thái Sơn cũng chẳng mòn.
Thành kính khá tua lo đạo đức,
Thêm công phái nữ lập vuông tròn.
Thâu
Thị Duyên:
Vuông
tròn đạo hạnh gái toan lo,
Học giỏi thì chi cũng bởi trò.
Nói ít biết nhiều là trò giỏi,
Hay làm chẳng nạnh ấy là lo.
Thâu
Trần Thị Ni:
Lo
cho con để đức hơn vàng,
May rủi cũng trừ đứa ngỗ ngang.
Trăm kiếp yên nhà vì Ðạo mến,
Thường đem chén ngọc đựng ngao vàng.
Thâu
Võ Thị Hiển:
Ngao
vàng chứa sẵn nước Cam Lồ,
Thánh đức nhớ nguyền cái sắc cô.
Vải trọc hơn trang Hoàng Hậu thế,
Cửa chùa yên tịnh chẳng như đô.
Thâu
Trần Thị Tròn:
Như
đô dời đổi nghiệp vua truyền,
Mình một phong quang mặc ngửa nghiêng. (quan?)
Ðóng cửa tụng kinh xem thế cuộc,
Bên lưng con chớ tưởng mang tiền.
Thâu
Phạm Thị Thành:
Mang
tiền cỡi hạc đến Dương Châu,
Chiếp miệng còn than nỗi buổi đầu.
Thiên định lẽ kia ai cũng chịu,
Hỏi người hỗ mặt giữa vườn dâu.
Thâu
Hồ Thị Diệp:
Vườn
dâu đừng để thẹn thân mai,
Nét Ðạo khuyên con gắng chí mài.
Sửa tánh cũng như toan vá áo,
Gìn tâm như tối cửa then gài.
Thâu
Thơ, con làm Thánh Tượng vậy đặng; con phải tính thế
in cho nhiều một lần thì giá rẻ chút ít nghe.
Ðặng con, Thầy biết một điều là trong hàng em út con đều
là phần nghèo; một đồng nó đỡ một đồng nghe con.
Thầy ban ơn cho các con.
Phải Trung, phải Thầy.
Thái dương tiếp khí quản thiên minh,
Bạch tượng nhiên trung tửu khách tình.
Kim Khuyết đại tranh tông phái hội,
Tinh khôi cộng khởi lập điều đình.
Trần Văn Sô:
Ðoan
chánh khá khen nết chẳng thường,
Người thương Thầy cũng để lòng thương.
Nam kia ví bẵng nhiều hàng mặc,
Ðạo đức chưa ai lạc nẻo đường.
Thâu
Bùi Văn Y:
Nẻo
đường Tây Vức khó đưa chơn,
Phật trước Tiên xưa luống ngậm hờn.
Thanh tịnh ít người toan định tỉnh,
Công danh ràng rực cột chôn chơn.
Thâu
Lê Văn Ðặng:
Chôn
chơn vừa vặn cũng chôn hồn,
Chuông gióng u hồn nhẫn nhắc khôn.
Ví biết trần gian là biển khổ,
Ðạo mầu khá giữ lại cô thôn.
Thâu
Lê Văn Cứng:
Cô
thôn nhắm hướng ngóng trời Tây,
Mới biết đời nay mới thiệt ngày.
Tiên Phật ở chung cùng thế sự,
Chẳng đi mà thấy cảnh Bồng Lai.
Thâu
Lê Văn Tỏi:
Bồng
Lai chưa dễ để chơn phàm,
Của đống vàng kho chuộc chẳng kham.
Tùy tánh tùy tâm lo đức nghiệp,
Ðò xưa đưa rước đậu vào vàm.
Thâu
Lê Văn Thiện:
Vào
vàm thế sự lắm gay go,
Nửa kiếp hằng lo mỏi sức trò.
Nghiệp cũ nhà xưa còn dấu bỏ,
Trông chi lừng lẫy tính nghề to.
Thâu
Phan Văn Tỏ:
Nghề
to thì lại có lo nhiều,
Thà đặng buổi nào tính bấy nhiêu.
Gỗ nhỏ thành nhiều con khá gắng,
Khéo ăn khéo ở đặng nên chìu.
Thâu
Phạm Văn Yên:
Nên
chìu mặt thế mới nên danh,
Ðừng để tà tâm đến dỗ dành.
Phải nghĩa phải nhơn là phải Ðạo,
Thà hư cho sạch rách cho thanh.
Thâu
Phạm Trung Dung:
Cho
thanh tâm mạng mới vững vàng,
Ðến ngó Phật Trời khỏi thắp nhang.
Khuất mắt phàm dễ ai ngó đặng,
Thầy đây đã hãn dạ cao sang.
Thâu
Nguyễn Văn Nho:
Cao
sang chẳng mượn của thường tình,
Bao phủ mình con chút khí linh.
Chánh trực Thần Tiên còn nể mặt,
Huống hồ trần cấu động vào mình.
Thâu
Nguyễn Văn Chính:
Vào
mình Thánh tước há nên mừng,
Thành đặng đôi đường phải đựng cân.
Thấy kẻ đặng vàng mình kiếm đá,
Ðua tranh chưa đủ sức ân cần.
Thâu
Nguyễn Văn Sự:
Ân
cần lo lắng đắp nền nhơn,
Phước trước thừa sau có chút hườn.
Phân định lẽ Trời ra phép nhặt,
Ðức thì phước, ác họa tai phân.
Thâu
Phan Văn Võ:
Tai
phân nạn trả lẽ thường thường,
Chớ tưởng mắt Trời ngó thiếu phương.
Non Thái dầu cao, cao hóa thấp,
Chậu kia dầu kín thấy thông thương.
Thâu
Hồ Văn Cho:
Thông
thương ngó rõ tánh lòng người,
Con chớ tưởng lầm tiếng nói chơi.
Vè thử Thầy cho con đặng phép,
Làm sao cho khuất bóng Thần ngươi.
Thâu
Dương Văn Cử:
Cũng
lúc láo tới lạo xạo,
Ðạo biết gì ham muốn mão.
Thâu cho làm đồng
nhi, rán học giỏi sau Thầy cho đội con nghe.
Tr. Văn Giáo:
Thần
ngươi xem khắp cả Càn Khôn,
Coi khắp nhơn sanh với giữ hồn.
Nếu trẻ biết quyền cầu khẩn thử,
Sang năm đổi số lạnh ra ôn.
Thâu
Ngô Văn Liêng:
Ôn
hòa cứ mực xử cùng đời,
Nương bóng Cao Ðài đủ khắp nơi.
Nên mặt trò kia Thầy có giá,
Chưa khoe dạn nắng chiếu không phơi.
Thâu
Trần Văn Xường:
Phơi
gan xử thế nết anh hùng,
Xấu mặt mà lòng thiệt rất trung.
Thầy để một lời khuyên trẻ nhớ,
Không duyên thôi chịu mạng nghèo cùng.
Thầy dạy con phải nghe, dầu con ham mến sự đời lại
càng khổ cực.
Thầy cho con chức Lễ Sanh ở tại Thánh Thất tu hành
nghe à.
Nguyễn Văn Nhãn:
Nghèo
cùng mà chẳng bợn của ai,
Thân cũng yên thân, tánh chẳng nài.
Một mặt trung lương ai cũng rõ,
Nông trang ngày cũng rõ anh tài.
Thâu
Phan Văn Lực:
Anh
tài chưa biết dựa quyền người,
Còn nói chi chi bổn phận ngươi.
Tranh đấu cuộc đời là huyết chiến,
Nhứt nhân chịu khổ, chịu người cười.
Thâu
Trung, con biểu buồn ngủ há?
Mai Văn Xinh:
Thôi thì thâu.
Mai Bá Hi: Thây nó con Cư,
cười.... Con biết chúng nó là chi của Thầy. Ðừng hiếp đáp, để mặc Thầy dạy dỗ.
Thâu.
Nguyễn Văn Lượng: Thâu nữa.
Nguyễn Văn Hạp: Cũng thâu.
Lê Văn Tao: Thâu.
Nguyễn Văn Tỏ: Thâu.
Mắc, Thầy dặn con cứ nghe lời
Thầy. Con nghe: Thầy giúp con làm công quả đặng chuộc tội cho cha con và cứu
Cửu Huyền Thất Tổ con, song tùy theo con chứ Thầy cũng phải giữ lẽ công. Chừng
nào con làm đủ âm chất, Thầy sẽ cho cha con nhập cơ mà hội diện với con nghe
à.... Cười.
Còn sắc phục con phải mặc nịt một sợi dây lưng ba màu:
vàng, xanh, đỏ; có chữ ngay giữa: Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ và một cây trương, trên
có lá cờ cũng đề như vậy.
Bộ y phục như của Tạ, nghe à ....
Sanh, con đừng lo lắng quá
nghe.
Thầy muốn gìn giữ lại đôi lát,
chờ ngày nào Thầy định sẽ hay. Con nói lại với vợ con nghe, Thầy sẽ nói với nó,
vì của ấy còn cao giá nữa hiểu à?
Trần Văn Hên: Thâu, Thầy cho con
ở chùa tu hành, cũng đặng chức Lễ Sanh vậy.
Mỗi Nữ phái đều thâu con. Cư
xem mau mau xuống giải tà cho một người phụ nữ nghe. Ngày mai Thầy sẽ cho Nữ
phái thi.
@@@