22/- Ngày 04-12-1926 (âl. 30-10-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Samedi 4 Décembre 1926 (30-10-Bính Dần)
THÁI BẠCH KIM TINH
Chào chư Ðạo Hữu, chư Ðạo
Muội, chư Nhu, chư Tín Nữ,
Ðạo Quang, Hiền Hữu nghe:
Nơi Thánh Thất nầy chưa ai gọi
mình lớn hơn ai, vậy Hiền Hữu cũng phải thủ lễ như thường nghe.
Thầy dạy Lão sắp đặt cho
nghiêm khi làm lễ, những kẻ quạt xuất ngoại.
Từ đây không cho phép vậy nữa.
Kiệt, Hiền Hữu đặng thọ phong
Giáo Hữu. Chỉnh Ðàn cho nghiêm đặng Thầy giáng.
NGỌC
HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Cười .... Thầy xin không thôi thì Thái Bạch đã mời Như
Nhãn vào đặng nhục mạ rồi. Thầy nói ít các con hiểu nhiều nghe. Trung, Trang, Tương,
Thơ, Hóa, Thanh Hương, các con lo tính như Thầy đã dặn? Chẳng lẽ các con đã
thấy nó khi mạng lịnh Thầy dường ấy ngồi ngó cho đành.
Hương Thanh xin lựa cất Thánh Thất nơi gò đất gần đó
cho xứng đáng.
Không Ái Nữ, chi chi cũng tại đây mà thôi con.
Môn Ðệ Thiên Phong xin hồi tiền lại cho Hòa Thượng
Giác Hải.
Phải vậy rồi.
Các con sẽ thấy Thầy trị chúng nó thể nào.
Lâm Thị Ái Nữ, con đừng rầu buồn lo lắng, để Thầy định
liệu với mấy anh con.
Chư Nhu cầu Ðạo thượng sớ. Chư Môn Ðệ bình thân. Kiệt
lạy Thầy tạ ơn Thiên Phong Giáo Hữu.
Kiệt, con đáng công cho Thái Bạch ban thưởng. Thầy
mừng cho con.
Trịnh Thị Thị, con là Môn Ðệ Thầy rồi....
Tạo:
Tạo
nên sự nghiệp thế ai màng,
Chưa đến đài mây đã đặng sang.
Trau chuốt nền nhơn con gắng vó,
Thầy đây sẽ để một ngôi hàng.
Thâu
Hứa Thị Nhiều:
Nhiều
phen than thở phận côi cùng,
Chẳng biết cùng ai tỏ dạ trong.
Nương bóng liễu chờ nhành bá gặp,
Thương thương chưa biết lẽ nên không.
Thâu
Xúc:
Xúc
lòng nhắm lại cảnh trời Nam,
Một sắc dân xưa chẳng phải phàm.
Cũng bởi Ðạo lầm nên mất nước,
Chịu nhiều khổ não lắm trân cam.
Thâu
Nhị:
Nhị
Châu chẳng hiệp với Bộ Châu,
Như chỗ nghỉ ngơi với điện hầu.
Trước có duyên xưa mong mỏi đến,
Khá lo tu niệm Ðạo cao sâu.
Thâu
Phạm Thị Thành:
Thành
lòng đi đến chốn điện đình,
Lòng thật Phật Trời mới thiệt linh.
Lửng đửng lờ đờ chưa quyết đoán,
Tin Trời tin Phật trước tin mình.
Dương Văn Ngọ:
Ngọ
chưa thấy bóng kế Mùi sang,
Trông đặng vinh huê hưởng chữ nhàn.
Như lúc Tử Nha đưa cán trúc,
Câu thời câu vận cá nào ăn?
Hữu:
Hữu
ái con tua để tấc lòng,
Giúp đời công ấy vốn đầu công.
Nên người mình biết nên mình vậy,
Ðừng cách phàm tâm tánh dự phòng.
Ngô:
Ngô
chưa quét Thục Ngụy tranh phong,
Một dãy non sông chứa bá tòng.
Bền chí để ngươi xem bát địa,
Trời đương un đúc đấng anh hùng.
Miêng:
Miêng
trường có một nẻo là tu,
Thương đám nhơn sanh nhẫn viết mù.
Nếu đặng thật lòng lo cứu chúng,
Thầy đành giao đứt một Tiên chu.
Sau trọng dụng.
Sang:
Sang
hèn trối mặc nhún cùng trề,
Phải biết giá mình mới biết chê.
Ðứa trẻ chưa quen quyền Lão xá,
Ðái đầu rán chịu ướt dầm dề.
Cười ... Thâu.
Tho:
Tho
thơm chi cũng vốn mùi đời,
Chưa kẻ dùng nên của để chơi.
Mua bán chọn lừa như buổi chợ,
Về nhà chưa tối đã qua đời.
Bính:
Bính
niên ngộ đắc vận thời lai,
Tâm diệt phàm trung Ðạo cả hoài.
Tại nội bất tri Thiên sắc tứ,
Năng tu quả nhựt diệu cân đai.
Chạy:
Chạy
Trời trốn nắng ít ai lo,
Còn mảnh phàm tâm khổ nỗi trò.
Muốn cải cho qua căn số định,
Ngừa chừng giận dữ lúc giông to.
Quí:
Quí
cho những kẻ tánh thiên nhiên,
Chẳng phải là ngu thiệt bởi hiền.
Trời Ðất trăm ngôi đà chín chín,
Tánh tình dường ấy vốn là Tiên.
Khiêm:
Khiêm
cung từ thuở tuổi thơ sanh,
Thương mẹ hiếu cha lắm nhọc nhằn.
Công quả ấy Thầy đà chép trước,
Nay xem tạng mặt thấy tu đành.
Nhâm:
Nhâm
huyền nhứt khí nguyệt thanh quang,
Thùy vấn hà môn chỉ thị càng.
Thiên Ðịa vô ngôn thường tại thế,
Bất tri hà xứ kiến tinh quang.
Thiên:
Thiên
thơ dĩ định nhứt danh qui,
Tam Giáo quy nguyên chỉ thị kỳ.
Ðạo thị tối cao vô thế đoán,
Hà nhơn đảm tánh đáo khinh khi.
Ðinh:
Ðinh
ninh Thầy dặn trẻ đôi lời,
Mình biết Ðạo mình giữ đó thôi.
Mặc kẻ thường tình ngu biếm nhẻ,
Phải coi nên chỗ để nên lời.
Hà Văn Ðược:
Ðược
thì mừng tu cực thì lo,
Phải nhớ câu thì lựa cá to.
Ngồi đợi nóng lòng đừng rút nhợ,
Cả ngày buồn giựt chẳng nên trò.
Võ Văn Nam:
Nam
nhi có nợ của song thân,
Biết chút lúa ăn chịu Ðạo phần.
Mình muốn rảnh rang Nhơn đạo xử,
Xong xuôi rồi mới đến Ðài Vân.
Lê Văn Triều:
Triều
thần mang nặng vẻ đai cân,
Lòn cúi chìu theo một Ðạo thần.
Nương bóng hạc cầm vui ít kẻ,
Hay chi quì lạy đứng ngoài sân.
Lê Văn Tài:
Tài
mạng thường hay ghét lẫn nhau,
Hễ là có nhọc mới danh cao.
Chưa người nằm giữa nhà chờ của,
Biển nọ muốn qua mặc sóng nhào.
Phạm Văn Quí:
Quí
là tánh hạnh chẳng khoe khoang,
Cười kẻ trong lân tới cửa làng.
Hay tánh giúp cô đôi lúc chịu,
Nhọc thân chẳng quản cứ bền gan.
Thầy khen.
Lai:
Lai
Châu tiếng hạc gáy reo vang,
Sao chẳng tỉnh mê giấc ngỡ ngàng.
Năm lụng ngày qua thêm chất tuổi,
Những là lỡ lính với lừa quan.
Sánh:
Sánh
vai Sào Phủ ẩn danh xưa,
Vì nẻo lợi danh cũng đã thừa.
Mau bước lui lần qua cõi tục,
Cười khan vui khóc thấy hay chưa.
Thờ: (Thời?)
Thời
lai gió đẩy đến Ðằng Vân,
Thường biết mình tuy cũng kép bần.
Như ốc mượn hồn đời há tiếc,
Bỏ qua cho rảnh kiếp phong trần.
Phạm Văn Nghé:
Nghé
nghe thì lóng tiếng hiền lương,
Ðạo đức con tua giữ một đường.
Biển đổi non dời đời phải tuyệt,
Ðức cao bền vững khó cân lường.
Nguyễn Thị Bày:
Bày
đờn ai khéo sắm đờn đây,
Ðể quỉ để ma ở cả bầy.
Lẩn bẩn cứ theo toan cám dỗ,
Làm cho nên nỗi Ðạo xa Thầy.
Thầy khuyên các con
coi Thánh ngôn là quí trọng.
Nguyễn Thị Tỏ:
Tỏ
cùng vì gió nhắn chim Hồng,
Ngán bước đường mây mỏi dạ trông.
Gát nhớ riêng than câu biệt khách,
Phui pha qua lúc thẹn mình hồng.
Thị Kén:
Kén
tài mà lại chẳng nên tài,
Chẳng khác như nhằm rủi ước may.
Ðợi bóng thiều xế ngang cửa sổ,
Thành không thì cũng nội năm nay.
Phạm Thị Tiếng:
Tiếng
đời hằng nói phước do lành,
Con chẳng biết tu cứ cạnh tranh.
Thiếu thốn chi con còn bức xách,
Thương nhau đồng loại cội và nhành.
Võ Thị Tỵ:
Tỵ
hiềm đừng để khí xung thiên,
Danh của Thầy con nhớ liệu nên.
Cầu nguyện Thần linh là thuốc báu,
Trong điều tai nạn bởi không hiền.
Thị Hội:
Hội
xem cho rõ phép Thiên Hoàng,
Cầu lếu những điều của dị đoan.
Biết Ðạo biết tu là kế khéo,
Lựa là nay chọn với mai sang.
Thầy không cho cầu thuốc nghe.
Trì Chia:
Trì
Chia người Thổ thiệt,
Ðạo đức kia còn biết.
An Nam thiệt giống Nam,
Vô Ðạo coi muốn hết.
Hòa Rấu:
Hòa
rấu tại nhà đã đủ đôi,
Không thua ai ngày đủ hai nồi.
Phật Trời chứng chiếu lòng con thảo,
Lễ cúng Thầy đều đặn hưởng xôi ...
Cười ...
Cung:
Cung
kính Phật Trời vốn họ ngươi,
Thầy khen cũng hết tỏ ra lời.
Thờ Thầy nếu đặng lòng thành thật,
Thầy giúp tuổi già đặng thảnh thơi.
Nội khuya bữa ấy có chư Nhu ở Soài Riêng qua xin nhập
môn, giữa đường rủi bị đụng xe nên đến trễ. Bèn chỉnh Ðàn tái cầu.
Tái Cầu:
THÁI BẠCH
Quỉ Vương đại ác.
Chỉnh Ðàn nghiêm trang Thầy ngự.
THẦY
Các con.... Cười....Thượng sớ.
Ðỗ Ðơn Hóa:
Hóa
đức thiên tâm tắc Ðạo khai,
Hà do ngạ loại quỉ đương tài.
Phiêu phong chánh khí thiên thu tạo,
Tân thế minh oan đắc đảnh đài.
Thầy
sẽ lập vị cho con nơi ấy... Thâu.
Lê Văn Nhu:
Nhu
phong chánh pháp nhủ truyền gia,
Ngọc mã kim môn đắc địa hòa.
Thánh chí biến sanh Nam Quốc vượng,
Thần oai hội hiệp tụng âu ca.
Thâu
Ðặng Quang Mão:
Mão
đai đặng thuở hoạn đường dò,
Mảnh thế nhiều phen chịu đắn đo.
Tháng lụn chờ cơn nơi nẻo chánh,
Thầm than chưa mặt đáng vai trò.
Thâu
Bùi Trừ Phòng:
Phòng
cơn bình địa nổi phong ba,
Con nhớ ngày nay đã có nhà.
Phải mắt phải tai tua cứu chúng,
Khỏi nơi khổ hải chịu mình sa.
Thâu
Nguyễn Văn Nhượng:
Nhượng
cho kẻ trí dắt dìu mình,
Phải biết lóng đời nỗi trọng khinh.
Âm chất lo trau mình vẹn trước,
Trị đời đáng thế đến hòa bình.
Thâu
Lê Văn Giảng:
Giảng
lời đạo đức dạy người hiền,
Chẳng phải là quan ấy mới Tiên.
Lợi lộc chê hơn câu tiết nghĩa,
Ðừng qua nửa bước quá rừng thiền.
Thâu
Ðoàn Văn Trọng:
Trọng
câu phước đức dạ lo nhân,
Phải mặt thanh liêm giữ kiệm cần.
Phú quí ấy là nơi Thiên định,
Bão bùng hết lúc đến hồi an.
Thâu
Nguyễn Văn Ðức:
Ðức
cao thì mới đáng nên người,
Ðức thắng tài kia đã mấy mươi.
Có đức có tài giềng Ðạo trọng,
Không tài không đức hóa không thời.
Thâu
Nguyễn Văn Bộc:
Bộc
thì tu khảo thế huyền linh,
Thành đọa tùy công sở Ðạo hành.
Gia thế kiêm triêu thừa phúc hậu,
Thiên quang chánh đức dĩ khai minh.
Thâu
Trương V. Quãng:
Quãng
trí minh tâm tắc thức thì,
Hành tàng huyền diệu thế nan tri.
Kỳ tâm sở hướng tà hồi chánh,
Ðắc cảnh Thiên ban hóa dạ trì.
Thâu
Trần Văn Ðước:
Ðước
tánh còn lo lắm nợ đời,
Ðường tu chưa đặng bước xa khơi.
Trong Trời miễn trẻ đòi ngày tưởng,
Dạ vọng từ nhiên hóa tiếng mời.
Thâu
Nguyễn Văn Quãng:
Quãng
chi cái số thảm cùng sầu,
Ở thế mà ngờ tưởng ở đâu.
Thương chút tấm lòng thành thật vậy,
Nhiều khi sợ lỗi với trên đầu.
Thâu
Võ Văn Niên:
Niên
ngoạt nhựt thời hữu định phân,
Bất tri thế sự thị phong vân.
Thương tâm hoài cổ lưu linh chí,
Thiện ác tùy công diệt đọa trần.
Thâu
Lê Văn Nhân:
Nhân
là đầu hết các hành tàng,
Cũng bởi vì nhân dân hóa quan.
Dân có trí nhân nhà nước trị,
Nước nhà nhân thiệt một cơ quan.
Thầy khuyên Nhân phải
tu nhân nghe. Thâu.
Nguyễn Ðăng Khoa:
Ðăng
khoa thì có chức thì không,
Nghĩ đến thẹn cho mặt Tử Phòng.
Dưới đích làm ngai Tam Quốc vịnh,
Thầm lo có một tiếp Châu Công.
Thầy khuyên khá kiếm
cao kỳ mà hiểu nghe. Thâu.
Võ Văn Tỵ:
Tỵ
ác thân hiền mới phải trang,
Cũng trong xã hội một quan làng.
Ðưa đời ví biết vì dân dại,
Thì trước con tua dạy một làng.
Thâu
Ðài Văn Lía:
Lía
lịa mà chưa biết niệm đời,
Những lo nắng sớm với mưa mơi.
Cơm ngày hai bữa dư chi uổng,
Mặc thế đua chen thói bốc rời.
Thâu
Nguyễn Văn Truyện:
Truyện
tích từ xưa chỉ dạy rằng,
Mặt đời trung nịnh dễ ai ngăn.
Minh mông Trời Ðất còn không lọt,
Huống lấp tội tình khỏi lưới giăng.
Thâu
@@@