30/- Ngày 15-12-1926 (âl. 11-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo (bằng Pháp ngữ).
Mercredi
15 Décembre 1926 (11-11-Bính Dần).
THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Nhu, chư Tín Hữu,
Chỉnh đàn cho nghiêm đặng Thầy ngự.
Qu'on dire à ces Francaise,
qu'ici est un maison de prières, qu'il ne jaut pas qu'ils la considèrent, comme
une curiosité.
NGỌC
HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
(Marcel martin 135 rue Catinat Sàigòn)
Debout et lis. Toute chose vient à son huere.
Tu as vu et su ce que la
plupart de tes compatriotres cherchent à voir et à savoir. Ce n'est que la
conclusion des recherches spérites que j'enseigne cette nouvelle doctrine.
N'ai je pas prédit que le
spéritisme est une religion d'avenir. Tu as naturellement l'intetion de créer
en ce pays une relation morale des deux races Francaise et Annamite appeleés à
vivre ensemble par ma volonté dans une communauté de vie et d'interêt.
Tu seras satisfait par une vie
d'un homme de bien. Tes voeux seront éxauces. Tu seras plus tard un de mes
fervents disciples pour prêcher au monde la paix et la concorde.
L'equipe Francaise seras
bientôt ereé.
Tu seras forcé de revenir en
France én 1928 pour soutenir cette doctrine au congrès universel.
Tu seras grand et puissant par ma volonté. Au revoir,
c'est assez pour toi.
15 Décembre 1926.
Tiếp theo: 11-11-Bính Dần.
Soạn:
Soạn
sành trong trí lớp lang dò,
Coi thử người làm thế ấm no.
Có thất đức chăng thì biết lấy,
Hết cơn tính lợp tới khi mò.
Thâu
Về:
Về
ai một cái nghiệp nhà tan,
Chẳng chịu làm ăn cứ điếm đàng.
Hai nẻo nên hư thì ắt một,
Hễ không nghèo khó chắc vinh sang.
Thâu
Sĩ:
Sĩ
mê hoạn lộ sĩ lầm đàng,
Cái bóng dáng đời há phải quan.
Ðức hạnh chẳng như đời Hiền triết,
Chưa lo ích chúng tính thân nhàn.
Thâu
Út:
Út
eo một phận chịu người chê,
Chẳng phải nên quan chẳng phải hề.
Trí hóa ở đời thôi trống lỏng,
Mà con lợi muốn với danh mê.
Thâu
Trọng:
Trọng
thân con khá biết trọng người,
Cái giá trị mình phải có nơi.
Thường kỉnh lấy thân thì kỉnh kẻ,
Chẳng ưa nhiều khóc với nhiều cười.
Thâu
Trình:
Trình
ra hai mặt thật hòa ngoan,
Khá nhớ lê quan với phép làng.
Trước mặt luật đời xem rõ thấy,
Thưởng răn phép Phật rõ ngay gian.
Thâu
Thông:
Thông
minh tánh chất đặng ôn hòa,
Nhớ hiểu Phật Trời chẳng ở xa.
Ngó thử đầu hiên xem thấy dạng,
Hung hăng ác nghiệt kệ người ta.
Thâu
Lại:
Lại
đây Ta hỏi hết lòng thờ,
Hay đến cầu xin hỏi bá vơ.
Thấy rõ lòng ngươi Ta phải đuổi,
Về lo sám hối kịp ngày giờ.
Lui.
Tri:
Tri
cơ mầu nhiệm Ðạo không ngươi,
Ham rượu cho ngon miếng thịt tươi.
Nặng nhẹ mặt cân cơ Tạo kéo,
Bần công khóc khóc lại cười cười.
Ðiểu:
Ðiểu
mai mấy lúc đẹp duyên hài,
Chít mát là vì bởi tại ai.
Một cảnh đôi quê thân chẳng thuận,
Làm cho sắc nọ phải xa tài.
Thâu
Hiếu:
Hiếu
hạnh hườn sanh hiếu hạnh nhi,
Không lo cho vẹn Ðạo tương tùy.
Hắt hiu cứ tưởng trăng cùng gió,
Mà để cho ai đến lỡ thì.
Thâu
Phú:
Phú
cho Tạo hóa định thân người,
Oan nghiệt cũng vì bởi tại ngươi.
Nếu quả dữ răn cùng hiền thưởng,
Mới hay minh chánh cái quyền Trời.
Thâu
Cao:
Cao
xanh nào có phụ chi con,
Mà chẳng giữ cho đức vẹn còn.
May mắn một thân đôi thế giúp,
Không thì có thuở phước nhà mòn.
Thâu
Hóa:
Hóa
sanh muôn vật cảnh thiên nhiên,
Ước đặng giành nuôi lấy kẻ hiền.
Hay nỗi cơ cầu cân Tạo hóa,
Phải cho lũ quỉ thử Thần Tiên.
Thâu
Trượng:
Trượng
tài khinh nghĩa đã bao phen,
Làm mất số sang chịu khó hèn.
Ví biết ăn năn đền tội trước,
Sửa răn sửa mạng Lão ban khen.
Thâu
Kế:
Kế
cao âu rõ phép Trời cao,
May đặng đường Tiên cẳng bước vào.
Lợi mượn danh mua tua khá lánh,
Biết thân biết phận tính dường bao.
Thâu
Ðắc:
Ðắc
công đắc quả bởi căn xưa,
Nết dữ từ đây gắng phải chừa.
Ðôi mép kéo kia dầu cắt đứt,
Thì là bên đẩy với bên đưa.
Thâu
Gồng:
Gồng
gánh hai vai nặng nợ trần,
Có thân âu hẳn khổ cho thân.
Chưa lo buổi sớm lo nồi tối,
Cái kiếp oan khiên khá dứt lần.
Thâu
Nam:
Nam
nhi phải gắng chí bền lòng,
Muôn sự dầu nên cậy chút công.
Bao thuở nằm nhà cơm tới miệng,
Của công thường thế phải cân đồng.
Thâu
Trình:
Trình
môn đã muốn ít câu văn,
Chải chuốt mép môi cũng gọi rằng.
Trí thức ít ai đem thế phục,
Từ khi tuổi trẻ biết làm nhân.
Thâu
Ðạt:
Ðạt
đầu công có gã Triệu Vân,
Tá Thục trong khi lớn sức Thần.
Chước thế thiếu văn vùa giúp võ,
Phàm thân chịu nhọc lúc Tam phân.
Thâu
Ngoạt:
Ngoạt
nhựt chi qua khổ chẳng qua,
Phải cam thủ phận cải lòng tà.
Học vui với thú phong trần khách,
Ham mến thế gian ít kẻ hòa.
Thâu
Mười
trăng có lẽ phận không yên,
Năm tới họa may hết lúc phiền.
Cầu biết kỉnh Tiên cùng lễ Phật,
Thì là mạng số đặng hoàn viên.
Nam Nữ Thầy thâu hết. Cần Giuộc hữu sự.