Ts. Nguyễn Đình Thắng
Ngày 9 tháng 9, 2016
LTS: Ngày 1 tháng 5, 2010, Ts.
Nguyễn Đình Thắng ra mắt sách “Thông Điệp Hy Vọng và Trách Nhiệm: Mười năm
chuyển biến cộng đồng và thay đổi đất nước”. Sách trình bày chiến lược dài lâu,
khởi đầu năm 1997, mà Ông theo đuổi để đem dân chủ lại cho Việt Nam. Trong 13 năm từ 1997 đến 2010, Ts. Thắng xây dựng BPSOS thành một
tổ chức của người Việt với hoạt động ở nhiều tiểu bang và có tiếng nói ảnh
hưởng tầm vóc quốc gia Hoa Kỳ.
Đấy là nỗ lực phát triển cộng đồng thành nền móng cho công cuộc
thay đổi đất nước trong 10 năm tiếp theo. Sau ngày ra mắt sách năm 2010, Ông du
thuyết ở nhiều thành phố để tìm người cùng chí hướng. Tháng 7 năm 2011, 250 người thuộc nhiều thành phần tuổi tác và từ
nhiều thành phố cùng nhau về thủ đô Hoa Kỳ để hoạch định chương trình hành động
cho 10 năm dân chủ hoá Việt Nam. Một nhóm chủ lực, mệnh danh
nhóm “tinh thần hào kiệt”, được hình thành để triển khai chương trình hành động
này, gồm 2 giai đoạn mỗi giai đoạn 5 năm. Tổ chức BPSOS cung cấp phương tiện,
cơ sở và kinh nghiệm điều hành cần thiết cho việc triển khai. Trong bài viết dưới đây, Ts. Thắng trình bày tóm tắt chương trình
hành động mà đến nay đã hoàn tất giai đoạn 5 năm đầu. Qua bài này người đọc sẽ hiểu ý nghĩa đằng sau những hoạt động và
mối tương quan giữa các lĩnh vực hoạt động đa dạng của BPSOS và nhóm “tinh thần
hào kiệt” trong những năm qua -- tất cả đều hướng về một mục đích: dân chủ hoá
Việt Nam. Quan trọng hơn, bài viết cống hiến cách thức để những ai có tâm huyết
đều có thể tự mình góp một bàn tay cho công cuộc này. Mọi trao đổi, xin liên
lạc:bpsos@bpsos.org
Chúng
ta có cơ hội để đưa Việt Nam đến dân chủ trong một tương lai không xa nếu làm
đúng thời, đúng việc và đúng cách.
Chúng
ta đây là những người Việt ở trong và ngoài Việt Nam mà thực sự quan tâm đến
tương lai của quê hương và dân tộc.
Đúng
thời là ngay lúc này vì thời cơ đang có nhưng sẽ không đợi chờ.
Hội nghị quy tụ 250 người cùng tâm huyết với cộng đồng và đất
nước, thủ đô Hoa Kỳ, ngày 02/07/2011 (ảnh BPSOS)
Đúng việc là người dân ở Việt
Nam phải tập hợp và tổ chức để giành thế chủ động trong mối tương quan với
chính quyền. Chỉ khi nào người dân kiểm soát chính quyền, dù ở chế độ nào, thì
mới có dân chủ đích thực và bền vững. Bằng không thì chế độ độc tài này ra đi,
chế độ độc tài khác ắt sẽ đến.
Đúng cách là chuyển đổi mối
tương quan ở cấp cơ sở: ở từng ấp, xã, thôn, làng… khắp đất nước người dân phải
tập hợp thành các cộng đồng đa dạng. Số đông có tổ chức tạo nên lực. Để tăng
thế, các cộng đồng ấy phải liên kết với nhau và rồi cùng nhau hoà nhập trào lưu
dân chủ trong khu vực và trên thế giới. Thế liên kết càng rộng sẽ càng giúp nới
rộng không gian an toàn để các cộng đồng tiếp tục phát triển về số, lực và thế.
Cách này tạo nên một vòng ưu việt ở từng địa phương, thúc đẩy tiến trình dân
chủ hoá hoà bình, ổn định và không thể thoái lui.
Đó
là cốt lõi của kế hoạch 10 năm mà chúng tôi đề ra năm 2010 và bắt đầu thực hiện
năm 2011. Sách “Thông Điệp Hy Vọng và Trách Nhiệm” trình bày
kế hoạch này, mà tôi sẽ tóm tắt dưới đây. Người đọc sẽ thấy
rằng những công việc của BPSOS từ bảo vệ đồng bào tị nạn, cứu nạn nhân buôn
người, can thiệp cho tù nhân lương tâm… đến vận động cho tự do tôn giáo, phát
động chiến dịch chống tra tấn, tham gia Diễn Đàn Người Dân ASEAN… đều có lý do.
Tôi cũng sẽ giải thích cách mỗi người góp một bàn
tay, bằng những việc vừa khả năng, để sớm đem dân chủ đến cho quê hương.
Cuộc tổng vận động ở Quốc Hội Hoa Kỳ, ngày 23/06/2016 (ảnh BPSOS)
5 năm chuyển thế
Để
thực hiện kế hoạch, trước tiên chúng tôi phải mở một không gian vừa đủ để người
dân bắt đầu tập hợp trong sự an toàn tương đối. Điều
này đòi hỏi thời gian và sự bền bỉ vì chế độ độc tài nào cũng muốn siết chặt để
người dân không thể tập hợp lại được. Họ biết rằng khi tập
hợp lại một cách độc lập với chính quyền, người dân sẽ dần dà phát triển sức đề
kháng. Cuối năm 2010, chúng tôi đề ra chương trình quốc tế vận có phối hợp để
áp lực Việt Nam công nhận nhân quyền như là những giá trị phổ cập toàn xã hội
và rồi luật hoá sự công nhận ấy. Công cuộc quốc tế vận này có những kết quả rõ
rệt.
Trong
5 năm qua Việt Nam đã ký và phê chuẩn thêm 2 công ước LHQ về chống tra tấn và
về quyền của người khuyết tật. Như vậy, Việt Nam đã ký 7 trong tổng số 9
công ước quan trọng của LHQ về nhân quyền, chưa kể Nghị Định Thư LHQ về chống
buôn người mà Việt Nam ký năm 2011. Việt Nam còn cam kết tôn trọng quyền
của người lao động, quyền tự do tiếp cận thông tin, quyền môi sinh… trong Hiệp
Ước Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), và tôn trọng vai trò của xã hội dân sự
theo Hiến Chương ASEAN. Thế đã chuyển vì đàn áp dân không còn là vấn đề nội
bộ quốc gia mà là vi phạm các cam kết quốc tế, điều mà chế độ không thể làm một
cách lộ liễu.
Chế độ có hai chọn lựa: một là chủ động thực thi, hai là tránh né không thực thi
các cam kết. Muốn tránh né, họ phải bưng bít để người dân không biết những
quyền đã được cam kết với quốc tế, và che mắt quốc tế mỗi khi họ vi phạm những
quyền ấy. Nhưng làm như vậy là tự chọn thế bị động và nhường thế chủ động cho
người dân. Chế độ càng bưng bít và che mắt thì dân càng có cơ
hội để truyền thông cho nhau và cho quốc tế biết. Và chúng ta có thể thấy ngày càng có thêm những dấu hiệu của sự
chuyển thế này: người dân hiểu biết và dạn dĩ hơn trong việc thực thi quyền của
mình; quốc tế theo dõi sát hơn và tăng áp lực về nhân quyền; chế độ phải dùng
xã hội đen hay cho công an giả côn đồ.
Đại diện các tôn giáo tiếp xúc Uỷ Hội Hoa Kỳ về Tự Do Tôn Giáo
Quốc Tế, ngày 22/06/2016 (ảnh USCIRF)
5 năm xây nền
Trọng
tâm của giai đoạn 5 năm kế tiếp là giúp các cộng đồng người dân ở trong nước
giành thế chủ động để tập hợp và tổ chức ở cấp cơ sở, theo 4 bước sau.
(1) Mở không gian an toàn: Bằng
cách làm cho chế độ mất dần khả năng bưng bít thông tin đối với dân và che mắt
quốc tế, một cộng đồng có thể tự mở không gian an toàn cho các thành viên thực
thi các quyền chính đáng. Chúng tôi huấn luyện cho mỗi cộng đồng một đội ngũ
nhân sự hiểu biết về các quyền được luật quốc gia và luật quốc tế bảo đảm, và
cách báo cáo vi phạm theo thể thức và tiêu chuẩn của LHQ. Năng lực của đội ngũ
này quyết định chiều cao và độ dày của vòng đai bảo vệ bao quanh không gian an
toàn.
(2) Tăng lực: Trong phạm vi
không gian vừa được mở ra, chúng tôi hỗ trợ cho các cộng đồng phát triển nội
lực, nghĩa là tăng khả năng, tinh thần tương trợ và quy củ hoạt động. Muốn vậy,
mỗi cộng đồng phải có được một nhóm nhân sự cốt lõi được đào tạo về tổ chức và
điều hành; họ phải được trang bị phương tiện hoạt động và được quốc tế quan tâm
bảo vệ.
(3) Tăng thế: Chúng tôi tạo
cơ hội cho nhiều cộng đồng liên kết với nhau thành mạng lưới để chia sẻ thông
tin, phối hợp hành động, và tương ứng trong thế “bứt mây động rừng” -- một cộng
đồng lâm nạn thì các cộng đồng khác quây lại hỗ trợ và báo động quốc tế. Chúng
tôi lại giúp các mạng lưới hoà nhập xã hội dân sự ngoài Việt Nam – gọi là “đưa
dân đến dân chủ” -- để họ làm quen với các sinh hoạt mở và hợp tác với quốc tế
ngoài tầm kiểm soát của chế độ.
(4) Tự vận hành: Ở mức phát triển
cao nhất, một cộng đồng phải đạt khả năng quốc tế vận để qua đó kéo dãn thêm,
từ ngoài, không gian an toàn. Trong không gian vừa được nới rộng, cộng đồng ấy
tăng sự tập hợp và nội lực để đẩy rộng thêm, từ trong, vòng đai an toàn. Đó
chính là khả năng tự vận hành để chủ động kéo nghiêng dần cán cân thế và lực về
phía dân. Đóng góp của chúng tôi là tìm nhóm “kết nghĩa” ở hải
ngoại vừa làm điểm tựa quốc tế vận vừa yểm trợ phát triển nội lực cho mỗi cộng
động ở trong nước.
Ghi chú: Ở đây cộng đồng
được hiểu là một nhóm người chung văn hoá, niềm tin hay lý tưởng; cùng chia sẻ
mục đích và các mục tiêu; cùng tuân thủ một số quy tắc hành xử căn bản; có sự
giao tiếp thường xuyên; có tinh thần tương thân, tương trợ và bảo vệ nhau trong
hoạn nạn; và có cơ cấu tổ chức để duy trì tính liên tục trong hoạt động -- khi một người bị kẹt thì lập tức có người khác thay thế. Đó có thể là một cộng đồng tôn giáo, một cộng đồng sắc tộc, một
tổ chức xã hội dân sự, hay một nhóm nạn nhân miễn là hội đủ các yếu tố trên.
Mạng liên kết lỏng lẻo của các blogger độc lập là một phản thí dụ: Họ không cấu
thành “cộng đồng” theo định nghĩa này.
Từ
năm 2014 chúng tôi áp dụng công thức 4 bước kể trên với 20 cộng đồng thí điểm
lớn nhỏ khác nhau, ở cả chốn thị thành lẫn những vùng xa xôi hẻo lánh. Ở những
thí điểm này, tương quan giữa dân và chính quyền có những thay đổi khả quan và
rõ rệt. Mục tiêu của chúng tôi là đạt con số 1000 cộng đồng
trong 5 năm tới. Ở mức ấy, tiến trình dân chủ hoá sẽ trở thành đương
nhiên và không thể thoái lui.
Hội Nghị Tự Do Tôn Giáo hay Niềm Tin ở Đông Nam Á, Dili, Đông
Timor ngày 02/08/2016 (ảnh BPSOS)
Điểm tựa hải ngoại
Chúng
tôi nhận thức rằng tập thể người Việt ở hải ngoại là yếu tố quan trọng cho tiến
trình dân chủ hoá đất nước trước mắt và phát triển đất nước sau này. Trong 5 năm qua, người Việt ở hải ngoại là chủ lực trong quốc tế
vận. Và chúng ta đã thành công: chế độ đã phải
nhượng bộ về nhân quyền để đổi lấy các lợi ích mậu dịch, các khoản viện trợ, và
các quan hệ đối tác quốc phòng và địa chính trị. Giai đoạn này chỉ cần một đội
ngũ tinh nhuệ về quốc tế vận thay vì số đông.
Giai
đoạn 5 năm tới đây sẽ khác. Để phát triển thế
và lực cho 1000 cộng đồng ở khắp Việt Nam, chúng tôi cần sự tham gia của nhiều
người ở hải ngoại để hình thành đủ số nhóm kết nghĩa. Chỉ cần từ 3 đến 5 người thân quen và tin tưởng nhau là có thể
lập ra một nhóm kết nghĩa. Các hoạt động cụ
thể của một nhóm kết nghĩa gồm có:
(1)
Họp định kỳ (mỗi tuần, cách tuần, hay mỗi tháng một lần) với
cộng đồng ở trong nước để theo dõi tiến độ công việc và tìm hiểu nhu cầu phát
sinh;
(2)
Yểm trợ tài chính để trang bị phương tiện hoạt động và trợ giúp sinh
kế cho một số người hoạt động toàn thời hay bán thời;
(3)
Tham gia các hoạt động quốc tế vận thay mặt cho cộng
đồng ở trong nước;
(4)
Chuyển hồ sơ báo cáo và vận động quốc tế can thiệp khi cộng đồng ở trong nước bị đàn áp.
Trong
số công việc trên, nhóm kết nghĩa có thể chọn những việc nào vừa khả năng,
nhưng phải đều đặn và bền lâu. Để đạt 1000 nhóm kết nghĩa trong 5 năm tới,
chúng tôi áp dụng công thức tăng trưởng và phân thân:
(1) Khuyến khích sự hình thành các nhóm kết nghĩa
mới;
(2) Huấn luyện và hướng dẫn các nhóm kết nghĩa về
khả năng quốc tế vận, can thiệp, và yểm trợ;
(3) Tạo môi trường cho các nhóm kết nghĩa tham
gia quốc tế vận;
(4) Bổ sung nhân sự cho mỗi nhóm kết nghĩa;
(5) “Phân thân” nhóm kết nghĩa đã có kinh nghiệm
thành 2, rồi 4, rồi 8 nhóm mới, và cứ vậy.
Quầy thông tin chung của các cộng đồng ở Việt Nam và các nhóm
kết nghĩa ở hải ngoại, Dili, Đông Timor, ngày 3-5 tháng 8, 2016 (ảnh APF)
Các hoạt động hỗ trợ
Đối
với mỗi cặp đôi kết nghĩa, chúng tôi hỗ trợ cho cộng đồng ở trong nước và nhóm
kết nghĩa ở ngoài nước, cho đến khi họ đạt khả năng tự vận hành. Lúc ấy, nhóm
kết nghĩa là bộ phận nối dài ra hải ngoại của cộng đồng ở trong nước. Các hoạt
động hỗ trợ của chúng tôi gồm có:
(1) Đào tạo và huấn luyện: Ở
Cấp 1, thành viên trong mỗi cộng đồng được hướng dẫn về các quyền chính đáng
của mình và cách thu thập và phối kiểm thông tin “thô” mỗi khi phát hiện vi
phạm. Cấp 2 huấn luyện một số nhân sự chuyên viết báo cáo vi phạm dựa trên các
thông tin thô và theo thể thức và tiêu chuẩn LHQ, và tìm sự trợ giúp khẩn cấp cho
các nạn nhân. Cấp 3 đào tạo những giảng viên cho Cấp 1 và Cấp 2. Cấp 4 là khoá
học kéo dài 1 năm về tổ chức và điều hành.
(2) Hỗ trợ và tạo cơ hội: Chúng tôi cung ứng cho từng cặp kết nghĩa trong-ngoài sự hỗ trợ
kỹ thuật, hướng dẫn, và tư vấn. Khi cần thiết, chúng tôi cử người làm việc sát
cánh cho đến khi cặp kết nghĩa đạt khả năng tự vận hành. Chúng tôi tạo cơ hội
cho các cộng đồng ở trong nước liên kết thành mạng lưới, và nối kết các mạng
lưới ở trong nước với các tổ chức khu vực và quốc tế, tạo cơ hội cho họ tham
gia các diễn đàn và các đề xuất tầm khu vực, và sắp xếp để họ tiếp xúc các phái
đoàn quốc tế thăm viếng Việt Nam.
(3) Can thiệp và bảo vệ: Chúng tôi cung cấp sự bảo vệ pháp lý đối với những người bị nguy
hiểm và phải xin tị nạn ở ngoài Việt Nam, và huy động sự can thiệp và trợ giúp
khẩn cấp của quốc tế đối với những cộng đồng bị lâm nguy ở Việt Nam. Chúng tôi
dịch sang Anh ngữ và chuyển các báo cáo vi phạm đến LHQ, các chính phủ và nhiều
tổ chức nhân quyền quốc tế; và chúng tôi vận động quốc tế can thiệp cho nạn
nhân. Công tác can thiệp và bảo vệ này áp dụng cho mọi cá nhân và cộng đồng lâm
nguy, không riêng các cộng đồng đã hay đang được chúng tôi hỗ trợ.
Các
hoạt động kể trên được điều hợp bởi toán hoạt động của chúng tôi gồm 15 người ở
nhiều quốc Đông Nam Á, với sự yểm trợ của những toán thiện nguyện ở hải ngoại
chuyên về: dịch thuật, giảng huấn, quốc tế vận, gây quỹ và truyền thông. Để
phối hợp quốc tế vận, chúng tôi hình thành Liên Minh cho một Việt Nam Tự Do và
Dân Chủ. Tất cả các hoạt động này được khởi xướng, duy trì và
phát triển bởi một nhóm lõi những người cùng tâm huyết, gọi tắt là “nhóm tinh
thần hào kiệt”. BPSOS, với nhiều thập niên kinh nghiệm quản trị
tài chính và điều hành nhân sự và với tầm hoạt động trải rộng trong khu vực Á
Châu-Thái Bình Dương và nhiều nơi trên thế giới, cung cấp cơ sở hạ tầng cho các
hoạt động hỗ trợ.
Toán hoạt động của BPSOS tại Diễn Đàn Người Dân ASEAN, Kuala
Lumpur, Malaysia, ngày 24/04/2015 (ảnh BPSOS)
Các điểm đặc trưng
Kế
hoạch và chương trình hành động của chúng tôi có một số điểm đặc trưng sau đây.
Dân chủ: Chúng tôi chủ trương xây nền dân chủ đích thực
và bền vững cho Việt Nam bằng cách phát triển thế và lực cho dân, để rồi chính
người dân quyết định thể chế và kiểm soát chính quyền trong bất kỳ thể chế nào.
Đạo đức: Chúng tôi quan niệm rằng đạo đức nhân bản là
nền móng cho xã hội dân chủ và lấy đó làm tiêu chuẩn hành xử cho chính mình và
khi chọn đối tượng hợp tác. Chương trình đào tạo
của chúng tôi phát huy ý thức về đạo đức nhân bản nơi học viên để rồi họ truyền
rộng ra trong cộng đồng của họ, góp phần xây dựng
nền móng cho một xã hội tử tế trong tương lai.
Bảo vệ và bảo tồn: Xuất phát từ quan niệm đạo đức, chúng tôi chủ trương cứu và bảo
vệ con người. Năm 2008 BPSOS mở chương trình bảo vệ pháp lý cho những nhà
hoạt động phải đi lánh nạn cũng như can thiệp và trợ giúp cho những người bị
lâm nguy ở Việt Nam, dù hầu hết họ không liên can đến hoạt động của chúng tôi.
Hơn nữa, chúng tôi đặt điều kiện cho mọi đối tượng hợp tác là phải tuyệt đối tránh
gây nguy hiểm cho mình hay người khác vì cần bảo tồn vốn nhân sự cho công cuộc
dân chủ hoá.
Chiều sâu: Chúng tôi giải
cứu và bảo vệ đồng bào lâm nạn vì đó là nghĩa vụ nhân bản dù chỉ là đối phó
đằng ngọn. Chúng tôi giải quyết vấn đề tận gốc bằng con đường
dân chủ hoá Việt Nam. Trong cách làm của chúng tôi, hai lĩnh vực này bổ
trợ nhau. Chẳng hạn, khi toán luật sư của chúng tôi bảo vệ một người đi lánh
nạn vì bị đàn áp tôn giáo, thì bộ phận phát triển xã hội dân sự của chúng tôi
giúp cho cộng đồng tôn giáo của người ấy ở trong nước tăng thế và lực để
đẩy lùi dần sự đàn áp, cho đến khi không còn ai phải rời bỏ tổ quốc đi tha
phương.
Không kết bè: Chúng tôi không kết bè, không lôi cuốn ai theo mình, không kết
nạp thành viên. Đối tượng nhận sự hỗ trợ của chúng tôi không chịu
bất kỳ sự ràng buộc nào ngoài 2 điều kiện: quyết tâm thành công trong
việc xây dựng cộng đồng của mình, và khi thành công thì san sẻ kinh nghiệm với
những người khác. Chúng tôi hoạt động như một nhà trường đào tạo và
nơi cung cấp phương tiện cho các cộng đồng thực hiện những ý nguyện mà họ đang
theo đuổi, một cách hiệu quả và an toàn hơn. Chúng tôi mong họ sớm đạt khả năng
tự vận hành để còn chuyển sự yểm trợ sang những cộng đồng khác nữa.
Hội Nghị Tự Do Tôn Giáo hay Niềm Tin ở Đông Nam Á, Bangkok, Thái
Lan, ngày 31/09/2015 (ảnh ICJ)
Không đảng phái: Chúng tôi chủ trương hoạt động tách biệt với mọi đảng chính trị
vì đảng chính trị nhắm vào thượng tầng, nghĩa là chế độ và chính quyền, còn
chúng tôi thì nhắm vào hạ tầng, tức là người dân. Nhiều đảng chính trị, vì
nội lực còn non yếu, chọn cách ẩn mình vào các tổ chức của người dân để hoạt
động ở Việt Nam. Vô tình hay cố ý, họ đang lũng đoạn và làm yếu đi các tổ chức
của người dân và tăng hiểm nguy cho những người thực sự hoạt động xã hội dân
sự.
Công khai: Chúng tôi không phô trương nhưng không lén lút hay bí mật. Lén
lút thể hiện sự sợ hãi; bí mật thể hiện sự không minh bạch -- cả hai điều này
ngăn cản sự phát triển xã hội dân sự. Hơn nữa, thái độ lén lút hay bí mật không
phù hợp với khái niệm không gian an toàn. Mọi tài liệu mà chúng tôi sử dụng
đều mang tính công khai – chính quyền Việt Nam muốn lấy thì chúng tôi sẵn sàng
cho. Chúng tôi hướng dẫn và khuyến khích người dân đối tác trực tiếp với các
cấp chính quyền để đặt vấn đề tôn trọng luật quốc gia và các cam kết quốc
tế. Tại các diễn đàn khu vực và quốc tế, chúng tôi luôn tìm cơ hội để
trực tiếp đặt các phép thử cho những người đại diện cho chế độ.
Mô thức hàng ngang: Chúng tôi chọn phương châm “nhiều con lạch nhỏ đổ vào giòng sông
lớn, nhiều giòng sông lớn chảy vào biển cả”, nghĩa là nhiều cộng đồng, nhiều
nhóm hoạt động song song, không cần kêu gọi đoàn kết, không cần người lãnh đạo.
Chỉ cần theo chung một công thức, mỗi cộng đồng bảo vệ các quyền và lợi ích của
riêng mình và mỗi nhóm kết nghĩa yểm trợ đến nơi đến chốn cho cộng đồng mình đã
chọn thì vẫn góp phần cho đại cuộc: cùng nhau đẩy lùi sự chuyên chế trong toàn
xã hội.
Nền móng cho trăm năm phát triển:
Công thức kết nghĩa song đôi trong-ngoài tạo nên nghìn nhịp cầu chằng chịt nối
kết người dân trong nước trực tiếp với thế giới tự do. Khi ánh sáng dân chủ ló
dạng, chính những nhịp cầu ấy sẽ tạo nên cơ chế huy động nhân tài vật lực trên
toàn cầu nhằm phát triển đất nước một cách nhanh chóng và đồng đều -- không nơi
nào bị bỏ sót dù xa xôi hẻo lánh, cho cả trăm năm sau.
Con đường thoát Trung: Người dân Việt Nam càng hội nhập khu vực Đông Nam Á và thế giới
tự do thì ảnh hưởng của Trung Quốc càng giảm trong mọi lĩnh vực: văn hoá, tư
tưởng, nghệ thuật, kỹ thuật, xã hội, kinh tế… và chính trị. Một Việt Nam dân
chủ trong tương lai sẽ là thành viên đáng tin cậy và gắn kết của khối Đông Nam
Á ổn định, hoà bình, phồn thịnh và có hậu thuẫn của thế giới tự do. Các cộng
đồng người Việt đã bám rễ ở những quốc gia tự do, dân chủ, và tiên tiến nhất
hành tinh sẽ tạo nên thế “Tân Bách Việt” để vừa góp phần phát triển đất nước
vừa đẩy lùi vĩnh viễn mối hoạ Bắc thuộc.
Bìa sách Thông Điệp Hy Vọng và Trách Nhiệm
Lời kết
Giai
đoạn 5 năm “chuyển thế” hoàn tất cuối năm 2015. Năm 2016 khởi đầu giai đoạn phát
triển lực và thế cho từng cộng đồng của người dân ở trong nước. Khi có được 1000 cộng đồng vững chãi trong tương quan với chính
quyền thì đó là khởi điểm cho một tiến trình dân chủ hoá hoà bình, ổn định và
không thể thoái lui. Theo dự tính của chúng tôi, con số 1000 này có thể đạt
được trong 5 năm tới nếu:
(1) Người dân trong nước chú tâm tập hợp lại và xây
dựng những cộng đồng có nội lực, có thế liên kết với các cộng đồng khác, có thế
đứng quốc tế, và có ảnh hưởng tăng dần đối với các cấp chính quyền ở từng địa
phương;
(2) Người Việt ở hải ngoại lập nhóm kết nghĩa để yểm
trợ tập trung và dài lâu cho các cộng đồng ở trong nước do chính mình chọn lựa
hoặc, nếu muốn, thì do chúng tôi giới thiệu.
Hành
động theo công thức “nhiều con lạch chảy song song”, chúng ta sẽ chủ động đem
lại dân chủ cho quê hương. Và chúng ta phải hành động ngay để không đánh mất
một vận hội hiếm quý cho dân tộc Việt Nam.
Tài liệu liên quan:
Thông Điệp Hy Vọng và Trách Nhiệm
http://www.machsongmedia.com/images/files/hvtn.pdf
http://www.machsongmedia.com/images/files/hvtn.pdf