Nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay đã mời
ông Báo cáo viên đặc biệt về tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng Heiner Bielefeldt đến
làm việc tại Việt Nam từ ngày 21 đến ngày 31 tháng 7 năm 2014.
Sau khi phân tích khuôn khổ pháp lý và
các tiêu chuẩn của Việt Nam về tự do tư tưởng, lương tâm, tôn giáo hay tín
ngưỡng, Báo cáo viên đặc biệt đã có bản báo cáo trước LHQ ngày 01/05/2015.
Đây là nền tảng và cũng là chìa khóa để
so sánh với luật pháp Việt Nam về tôn giáo và tín ngưỡng.
ĐPV LHQ đã chỉ ra một số vấn đề nghiêm trọng; vấn đề chính là các quy định pháp lý mơ hồ cho phép chính quyền dễ dàng
kiểm soát, hạn chế hoặc ngăn cấm việc thực thi quyền tự do tôn giáo hay tín
ngưỡng, dưới danh nghĩa “đoàn kết quốc gia và bảo đảm trật tự công cộng".
ĐỂ BẠN ĐỌC TIỆN THEO DÕI CHÚNG TÔI ĐÃ CHUYỂN SANG BẢN VI TÍNH & CÓ ĐỀ TRANG.
SAU ĐÂY LÀ TOÀN VĂN BÁO CÁO.
TRANG 01.
Liên
Hiệp Quốc
|
A/HRC/28/66/Add.2
|
ĐẠI HỘI ĐỒNG.
Distr.: General
30 tháng 1 năm 2015
(Bản dịch của BPSOS
và Liên Minh cho một Việt Nam Tự Do và Dân Chủ)
Hội đồng Nhân quyền
Kỳ họp thứ 28
Chương trình nghị sự 3
Thúc
đẩy và bảo vệ tất cả các quyền con người, quyền dân sự, quyền chính trị, quyền
kinh tế, quyền xã hội và văn hoá, bao gồm cả quyền phát triển
Báo
cáo của Báo cáo viên đặc biệt về tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng Heiner
Bielefeldt
Phụ lục
Chuyến thăm, làm việc tại Việt Nam (từ 21 đến
31. 07. 2014)
Tóm lược
Tường trình này trình bày các kết quả chính của chuyến viếng thăm, làm việc
tại Việt Nam từ ngày 21 đến ngày 31 tháng 7 năm 2014 của Báo cáo viên đặc biệt
về tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng Heiner Bielefeldt. Sau khi phân tích khuôn
khổ pháp lý và các tiêu chuẩn của Việt Nam về tự do tư tưởng, lương tâm, tôn
giáo hay tín ngưỡng, Báo cáo viên đặc biệt nhận
định có tiến bộ nhưng cũng có một số vấn
đề nghiêm trọng; vấn đề chính là
các quy định pháp lý mơ hồ cho phép chính
quyền dễ dàng kiểm soát, hạn chế hoặc ngăn cấm việc thực thi quyền tự do tôn
giáo hay tín ngưỡng, dưới danh nghĩa “đoàn kết quốc gia và bảo đảm trật tự công
cộng". Một số vấn đề khác bắt nguồn từ sự kiểm soát chặt chẽ của chính
quyền đối với các cộng đồng tôn giáo. Hiện nay đời sống tôn giáo ở Việt Nam có tính cách đa dạng, nhưng các
cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng độc lập – có nghĩa là các công đồng này không được chính quyền công nhận – bị chính quyền
giới hạn quyền tự trị và mọi hoạt động;
và nếu họ hoạt động thì có thể bị trừng
phạt vì chính quyền không tôn trọng quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng và áp dụng
các biện pháp theo dõi thường xuyên, đe dọa, sách nhiễu và đàn áp. Báo cáo viên
đặc biệt nhận thấy tình trạng này cần phải cải tiến, và muốn chia sẻ các khuyến
nghị của ông trong tinh thần hợp tác với chính quyền để duy trì một cuộc đối
thoại mang tính chất xây dựng.
A/HRC/28/66/Add.2
GE.15-01416 (E) ∗1501416∗
TRANG 02.
Phụ lục
Tường trình của Báo cáo viên đặc biệt về tự do
tôn giáo hoặc tín ngưỡng, Heiner Bielefeldt về chuyến thăm, làm việc tại Việt
Nam (từ ngày 21 đến ngày 31 năm 2014)
Nội dung
Đoạn... Trang
I/. Nhập
đề.................................................................... 1–5.
3
II/. Tổng quan về bối cảnh tôn giáo tại Việt Nam ........6–11.... 3
III/.
Khuôn khổ pháp lý và chuẩn mực của tự do tôn giáo, tín ngưỡng trong nước
........ ....................................................... 12–39.....4
A/. Quy phạm pháp luật về tự do tôn giáo, tín
ngưỡng 12–15 ....4
B/.
Hạn chế quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng..... 16–25... 5
C/.
Quy định hành chính về hoạt động và thực hành tôn giáo hay tín ngưỡng
................................................................................ 26–35... 7
D/. Cơ
chế khiếu nại trong hệ thống pháp lý có vấn đề. 36–39 8
IV/.
Quyền tự trị của các cộng đồng tôn giáo hoặc tín ngưỡng
...................................... ............................................................
40–58 ... 9
A/.
Thái độ tiêu cực đối với các cộng đồng tôn giáo không được công nhận
................................................................................ 40–49...
9
B/. Giáo dục và huấn luyện tôn giáo ......................... 50–52..
11
C/. Bổ
nhiệm các chức sắc tôn giáo ....................... 53–54... 11
D/.
Các vấn đề về bất động sản và đất đai ................ 55–58...
12
V/. Thực
hành tôn giáo trong một số hoàn cảnh đặc biệt 59–63 13
A/.
Đối với tù nhân ................................................. 59–61 13
B. Đối
với quân nhân .................................................. 62–63
14
VI. Báo
cáo về vi phạm tự do tôn giáo, tín ngưỡng .....
64–79 14
VII.
Kết luận và khuyến nghị..................................... 80–84
17
A/HRC/28/66/Add.2
TRANG 03
I. Nhập
Đề
1/.
Báo cáo viên đặc biệt về tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng đã thăm viếng, làm việc
tại Việt Nam từ ngày 21 đến ngày 31 tháng 7 năm 2014. Đây là chuyến viếng thăm
thứ 2 từ khi Liên Hiệp Quốc phê chuẩn nhiệm vụ của Báo cáo viên đặc biệt trong
lãnh vực này, kể từ sau chuyến làm việc năm 1998 của người tiền nhiệm, cố đặc
phái viên Abdelfattah Amor (1). Chúng tôi cảm ơn Chính phủ Việt Nam đã mời và
hợp tác với chúng tôi trong thời gian đó. Bộ Ngoại giao đã giúp trong quá trình
chuẩn bị, trong quá trình làm việc, bao gồm cả sự sắp xếp cuộc gặp gỡ với một
tù nhân. Uỷ ban Tôn giáo của Chính phủ cũng đã hợp tác tương tự.
2/.
Báo cáo viên đặc biệt cảm ơn tất cả các người được phỏng vấn từ lập pháp, hành
pháp, và các cơ quan tư pháp của Chính phủ ở trung ương và địa phương, cũng như
các cộng đồng và các tổ chức tôn giáo (được công nhận về mặt pháp lý và không
được công nhận), các thành viên của các tổ chức dân sự, cộng đồng ngoại giao và
các cơ quan của Liên Hiệp Quốc. Các cuộc thảo luận được tổ chức tại Hà Nội,
Tuyên Quang, thành phố Hồ Chí Minh và Vĩnh Long hầu hết là không gò bó, thẳng
thắn và mang tính xây dựng. Chúng tôi cũng xin cảm ơn Chương trình Phát triển
Liên Hiệp Quốc tại Hà Nội đã hỗ trợ về việc tiếp liệu.
3/. Tuy nhiên, Báo cáo viên đặc biệt thất vọng vì
đã không hoàn tất được các chuyến thăm dự định ởcác tỉnh An Giang, Kon Tum và
Gia Lai từ ngày 28 đến 30 tháng 7, do các cản trở trái ngược với các điều khoản
tham chiếu của chuyến viếng thăm của báo cáo viên, trong khi tính riêng tư và
bảo mật của một số cuộc hội kiến và của nguồn thông tin cũng bị vi phạm trầm
trọng. Chúng tôi đã thấy tận mắt và nhận được thông tin đáng tin cậy là một số cá
nhân khác mà chúng tôi muốn gặp đã bị canh giữ, cảnh báo, đe dọa, quấy rầy hoặc
bị cảnh sát ngăn không cho đi đến gặp. Ngay cả những người đã gặp được chúng
tôi cũng bị theo dõi và tra xét bởi công an.
4/. Hơn nữa, nhân viên an ninh và công an chìm
theo dõi mọi đường đi nước bước của Báo cáo viên đặc biệt và người đối thoại.
Những việc này đã vi phạm một cách rõ rệt các điều khoản tham chiếu mà Chính
phủ Việt Nam đã đồng ý trước chuyến viếng thăm. Báo cáo viên đặc biệt quan ngại
và phẫn nộ về những vụ trả thù (2) gồm có những vụ công an thẩm vấn có tính cách
đe dọa, quấy rầy, và thậm chí gây thương tích cho một số người đối thoại trong
khi và sau chuyến viếng thăm. Báo cáo viên đặc biệt đã báo cho Chính phủ biết
các trường hợp này, nêu quan ngại của mình và yêu cầu làm sáng tỏ vấn đề, và
yêu cầu can thiệp để ngăn chặn những sự việc này.
Một
trong những cuộc họp cuối cùng với Chính phủ, một thứ trưởng Bộ Ngoại giao đã
tái khẳng định tầm quan trọng của chuyến viếng thăm và cho biết Chính phủ sẽ
điều tra và kiểm chứng với các nhà chức trách địa phương về các vụ việc làm
gián đoạn chuyến viếng thăm.
5/. Mặc dù đã phải hủy bỏ một số cuộc hội kiến do
sự gián đoạn về phần cuối của chuyến viếng thăm, Báo cáo viên vẫn tiếp tục nhận
được thông tin có liên quan đến phạm vi của chuyến thăm. Chúng tôi cũng đã yêu
cầu Chính phủ và các bên liên quan làm sáng tỏ vấn đề.
II/. Tổng quan về bối cảnh
tôn giáo tại Việt Nam
6/.
Một thành viên của Ban Tôn giáo Chính phủ mô tả bối cảnh tôn giáo ở Việt Nam
như là một "bảo tàng viện tôn giáo và tín ngưỡng”. Theo thống kê chính thức
của các cơ quan chính phủ, có 38 tổ chức tôn giáo đã đăng ký. Tổng số những
người có đạo đã đăng ký là 24 triệu trong tổng số hơn 90 triệu dân số toàn
quốc. Những cộng đồng tôn giáo được công nhận bao gồm các số tín đồ như sau: 11
triệu Phật tử, 6,5 triệu tín đồ Công giáo, 2,5 triệu tín đồ Cao Đài, 1,5 triệu
tín đồ Tin lành, 1,3 triệu tín đồ Phật giáo Hoà Hảo, 78.000 tín đồ Hồi giáo,
7.000 tín đồ Bahai,1.500 tín đồ Ấn độ giáo, những người theo tín ngưỡng khác
như thuyết duy linh, và người vô thần. Có khoảng 25.000 cơ sở tôn giáo trên
toàn quốc. Việt Nam có khoảng 9,000 lễ hội tín ngưỡng truyền thống trong năm và
đã từng là nơi tổ chức hội nghị của các vị lãnh đạo Phật giáo quốc tế, cụ thể là
Đại hội Phật giáo Vesak
........................
(1)/ Xin
xem E/CN.4/1999/58/Add.2.
(2)/ Xin xem A/HRC/28/85, vụVNM 11/2014.
A/HRC/28/66/Add.2
TRANG 04
(Phật Đản) vào
tháng 5 năm 2014. Việt Nam có 54 sắc tộc thiểu số; trong đó có rất nhiều nhóm
theo các tôn giáo khác nhau.
7/.
Trong khi đa phần người Việt Nam không theo một trong các tôn giáo được Chính
phủ công nhận, họ có thực hành – thỉnh thoảng hay thường xuyên - một số nghi lễ
có thể được coi là tín ngưỡng. Nhiều nghi lễ truyền thống thể hiện sự tôn kính
tổ tiên. Trong những năm gần đây, Chính phủ có những nỗ lực để bảo tồn, khôi
phục nghi lễ truyền thống trong các cộng đồng người thiểu số.
8/.
Ngoài ra, trên thực tế có nhiều tôn giáo và nhóm thực hành những nghi thức lễ lạy
ngoài các cộng đồng tôn giáo được nhà nước công nhận. Tuy nhiên, rất khó để có
được một cái nhìn rõ ràng và toàn diện về đời sống tôn giáo ngoài phạm vi của
những cộng đồng tôn giáo đã đăng ký. Trong khi một số chuyên gia của Chính phủ
đã đưa ra một ước lượng thấp về số lượng tín đồ của các cộng đồng tôn giáo
không đăng ký, Báo cáo viên đặc biệt cũng nghe phỏng đoán rằng số lượng người
thực hành tôn giáo bên ngoài các cộng đồng tôn giáo đã đăng ký, hoặc mong muốn
làm như vậy, có thể lên đến nhiều triệu.
9/.
Ngoài các ước tính rất khác nhau về các con số, Báo cáo viên đặc biệt cũng nhận
được thông tin mâu thuẫn liên quan đến các điều kiện theo đó người dân có thể
được hưởng quyền làm người về tự do tư tưởng, lương tâm, tôn giáo hay tín
ngưỡng. Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của sự phát triển tôn giáo gần
đây tại Việt Nam là sự phát triển nhanh của đạo Tin Lành, đặc biệt trong một số
sắc dân hoặc cộng đồng tôn giáo thiểu số. Đồng thời, điều này đã dẫn đến một số
trường hợp đàn áp tôn giáo đáng quan ngại. Tình trạng tôn giáo đa dạng – sự hiện
diện của nhiều tôn giáo, giáo phái tại một số địa phương - không tạo ra vấn đề nghiêm
trọng.
10/.
Nhiều đại diện của các cộng đồng tôn giáo khác nhau thừa nhận rằng Chính phủ đã
cởi mở hơn cho việc thực thi quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhất là so với
thời điểm ngay sau năm 1975. Ai cũng thấy được các sinh hoạt tôn giáo đang phát
triển với sự hiện diện của nhiều nơi thờ tự thuộc các tôn giáo khác nhau, và sự
tham gia của người dân vào các hoạt động tôn giáo và tín ngưỡng khác nhau.
Trong khi đó các điều kiện để các cá nhân hoặc nhóm thực thi quyền tự do tôn
giáo hay tín ngưỡng có thể thay đổi bất cứ lúc nào, và thường tuỳ thuộc vào
thiện chí của giới hữu trách địa phương, đặc biệt là các cơ quan chính phủ.
11/.
Tuy Chính phủ giảm bớt sự hạn chế các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, nhưng các
cộng đồng tôn giáo vẫn bị kiểm soát chặt chẽ. Thành viên của các cộng đồng tôn
giáo không được công nhận gặp rất nhiều khó khăn trong việc thực hành tôn giáo
hay tín ngưỡng của họ, nhất là trong trường hợp tập quán hay nghi lễ của các
cộng đồng này bị coi là không phù hợp với "lợi ích chính đáng của đa
số" - một cụm từ thường được viện dẫn trong các cuộc thảo luận với các đại
diện của các cơ quan chức năng. Hơn nữa, nhiều
thành viên của các cộng đồng không được công nhận liên tục bị đàn áp; kết quả là,
họ phải rời bỏ đất nước và không thể quay về với gia đình và người thân. Chính
phủ không thể dùng những lý do lịch sử để biện minh cho chính sách vi phạm tự do
tôn giáo hay tín ngưỡng.
III/. Khuôn khổ pháp lý và
chuẩn mực của tự do tôn giáo, tín ngưỡng trong nước
A/ Quy
phạm pháp luật có liên quan đến tự do tôn giáo, tín ngưỡng
12/.
Việt Nam đã phê chuẩn hầu hết các văn kiện nhân quyền quốc tế, kể cả Công ước
Quốc tế về Các Quyền Dân sự và Chính trị. Hiến pháp Việt Nam mới được sửa đổi
và thông qua vào ngày 28 tháng 11 năm 2013, có một chương về "quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân" mà Hiến pháp 1992 không có.
Đây là một bước tiến nhằm thúc đẩy và tôn trọng nhân quyền, mặc dù có một số quy
định khá mơ hồ và khó hiểu, có thể được diễn giải nhiều cách khác nhau.
13/.
Các đại diện của Chính phủ nhiều lần nhấn mạnh rằng Điều 24 của Hiến pháp mới
quy định các quyền liên quan đến tự do tôn giáo hay tín ngưỡng nhằm vào tất cả mọi
người hiện diện ở Việt Nam, không giống như các quy định của Hiến pháp năm 1992
chỉ có hiệu lực đối với công dân Việt Nam. Điều này đã được trình bày là một
dấu hiệu của thái độ cởi mở hơn đối với tự do tôn giáo hay tín ngưỡng. Điều 24
nói rằng: (1) mọi người đều có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, có thể theo
bất kỳ tôn giáo nào, hay không theo tôn giáo nào cả, và
TRANG 05.
tất cả các tôn
giáo đều bình đẳng trước pháp luật; (2) Nhà nước tôn trọng và bảo vệ quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo; và (3) không ai có quyền xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn
giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.
14/.
Việt Nam chưa có một đạo luật nhằm vào các sinh hoạt tôn giáo. Văn bản pháp lý
có liên quan nhất đến tôn giáo là Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo (Pháp lệnh
21), được thông qua sau các cuộc thảo luận dài vào ngày 18 tháng 6 năm 2004.
Pháp lệnh 21 là văn bản pháp lý đầy đủ đầu tiên về tự do tôn giáo, tín ngưỡng
tại Việt Nam. Mặc dù ngôn ngữ có tính cách hạn chế, pháp lệnh đó được coi là
một bước tiến về pháp lý cho các cộng đồng tôn giáo và tín ngưỡng. Điều 38 của
Pháp lệnh quy định rằng các quy định của hiệp ước quốc tế, đã ký kết, hoặc có
hiệu lực khi Việt Nam gia nhập khối quốc gia công nhận các hiệp ước đó, sẽ được
áp dụng khi pháp lệnh có sự mâu thuẫn với hiệp ước. Một nghị định quy định chi
tiết các điều lệ và các biện pháp thực thi. Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo
(Nghị định 92) được thông qua ngày 8 tháng 11 năm 2012.
15/.
Báo cáo viên đặc biệt được biết rằng một đề nghị sẽ được đệ trình vào năm 2015
để thông qua một đạo luật về tôn giáo hay tín ngưỡng dựa trên Pháp lệnh hiện
hành; luật mới dự kiến sẽ được thông qua vào năm 2016.
Ngoài
sự kiện rằng luật có tính pháp lý cao hơn pháp lệnh hiện hành, quá trình tạo
dựng lên một luật mới cho cơ hội để sửa đổi đáng kể về nội dung của Pháp lệnh
21 cho phù hợp với luật nhân quyền quốc tế nhằm
tăng cường việc bảo vệ quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng. Khi thảo
luận về vấn đề này với các chuyên gia của Chính phủ về tôn giáo, đã có dấu hiệu
cho thấy vấn đề đất đai có thể sẽ được đem ra thảo luận. Đồng thời, người nước
ngoài sẽ được phép thực hành tôn giáo hay tín ngưỡng dễ dàng hơn. Một số giới
chức khác cũng cho biết là họ sẵn sàng xem xét những thay đổi đáng kể về ngôn
từ có tính chất rất hạn chế của Pháp lệnh 21.
B/.
Hạn chế quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng
16/. Theo tiêu chuẩn quốc tế, Điều 18 của Công ước Quốc tế bảo
vệ một cách rộng rãi việc thực thi các quyền tự do tư tưởng, lương tâm, tôn
giáo hay tín ngưỡng, tuy nhiên những điều này có thể bị giới hạn. Điều
18, khoản 3, của Công ước quy định một số tiêu chí cần được hội đủ nếu Chính
phủ muốn thi hành những hạn chế đó, bằng không thì hạn chế đó không hợp pháp.
17/.
Những khoản giới hạn tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng trong Hiến pháp năm 2013,
Pháp lệnh 21 và Nghị định 92 có phạm vi rộng hơn nhiều so với giới hạn được quy
định trong Công ước quốc tế. Vấn đề là Chính phủ có quyền giới hạn quá rộng có
thể dẫn đến vi phạm tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng khi thi hành. Một khiếm
khuyết lớn của các quy định pháp lý liên quan đến tôn giáo hay tín ngưỡng là
không đưa ra định nghĩa về phạm vi nội tâm (thế giới nội tâm) của cá nhân – tôn
giáo, luân lý hay nhân sinh quan - mà Chính phủ phải tôn trọng vô điều kiện,
không thể hạn chế hoặc can thiệp vào, ngay cả trong mọi tình huống nghiêm trọng
hoặc khẩn cấp (3)..
18/.
Việc bảo vệ vô điều kiện phạm vi nội tâm liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng
phản ánh nguyên tắc buộc cá nhân phải giả vờ có một đức tin không phải thực sự của
người đó hoặc buộc cá nhân từ bỏ đức tin hay nhân sinh quan nền tảng của minh
sẽ làm tổn hại nặng nề lòng tự trọng và quyền con người của cá nhân. Việc cấm mọi can thiệp cưỡng chế nhằm vào phần lõi về tôn
giáo, luân lý hay nhân sinh quan của một con người có tầm mức quan trọng ngang
với việc cấm chế độ nô lệ hay tra tấn theo luật pháp quốc tế. Đây là những điều
cấm tuyệt đối không có trường hợp ngoại lệ. Điều 24 của Hiến pháp
năm 2013, tuy có nhắc đến quy định bảo vệ quyền tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng,
nhưng thiếu điều khoản bảo vệ đặc biệt cho phạm vi nội tâm liên quan đến tự do
tôn giáo hoặc tín ngưỡng. Điều này có thể dẫn đến sơ hở nghiêm trọng trong việc
thực thi quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng.
19.
Khác với phạm vi nội tâm, sự biểu lộ tự do tôn giáo hay tín ngưỡng trong xã hội
-- phạm vi hướng ngoại (thế giới bên ngoài) -- không được bảo vệ vô điều kiện
bởi luật pháp quốc tế. Do đó, các điều kiện theo đó Chính
...................
(3)/ Xin
xem điều 18, đoạn 2, của Công Ước Quốc Tế về Quyền Dân Sự và Chính Trị (CCPR),
và Công Ước về Quyền Dân Sự và Chính Trị CCPR/C/21 điều chỉnh 1/ Phụ Lục 4,
đoạn 3
A/HRC/28/66/Add.2
TRANG 06
phủ hạn chế phải
được quy định bằng luật một cách rõ ràng sao cho công chúng có thể dự đoán được
một cách chính xác về những điều kiện
cần phải hội đủ để tôn giáo, tín ngưỡng sẽ được công nhận. Khi Chính phủ tạo
dựng luật mới, nên dựa trên nền tảng tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng của cá nhân
và cộng đồng như là tính chất chuẩn mực của một nhân quyền phổ quát. Mối quan
hệ giữa quyền tự do này và giới hạn của nó cần được xem như là một mối quan hệ giữa
quy tắc và ngoại lệ. Điều cần phải nhấn mạnh là, trong trường hợp hồ nghi, quy
tắc chiếm ưu thế; Chính phủ có trách nhiệm cung cấp bằng chứng và lý luận để biện
minh cho những giới hạn được xem là cần thiết.
20/.
Trong các cuộc thảo luận với đại diện Chính phủ, Báo
cáo viên đặc biệt thường xuyên nghe họ nêu lên "pháp luật Việt Nam"
một cách tổng quát, thiếu đặc thù. Dùng lý lẽ thiếu đặc thù để biện minh cho
hạn chế dễ làm lu mờ và suy yếu cương vị của quyền tự do tôn giáo hay tín
ngưỡng - một quyền phổ quát bất khả xâm phạm. Vì các quyền con người được coi
là bất khả xâm phạm, chúng ta không thể để cho các nhà lập pháp toàn quyền
quyết định những gì liên quan đến sự hạn chế những quyền ấy, kể cả quyền tự do
tôn giáo hoặc tín ngưỡng.
21/.
Mọi sự hạn chế đều phải có một mục tiêu chính đáng như- bảo vệ"an toàn
công cộng, trật tự, y tế, đạo lý hay những quyền tự do căn bản của người
khác" theo Điều 18, đoạn 3 của Công ước Quốc tế (4). Hạn chế phải mang
tính chất cần thiết và tương xứng, tức là chỉ có ảnh hưởng tối thiểu đến cá
quyền tự do này. Những tiêu chí đó và tiêu chí khác được quy định với mục đích
bảo vệ bản chất của tự do tôn giáo hay tín ngưỡng khi có sự mâu thuẫn với các
quyền khác hoặc với các lợi ích công cộng quan trọng.
22/.
Nhiều điều khoản trong Hiến pháp năm 2013, Pháp lệnh 21 và Nghị định 92 cho
phép nhà nước quyền rộng rãi trong việc quy định, giới hạn, hạn chế hoặc cấm
thực thi quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng (5). Điều 14, khoản 2 của Hiến
pháp năm 2013 nêu lên một số lý do để hạn chế quyền con người và quyền công
dân, có thể được áp dụng cho quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng. Trong khi sự hạn
chế quyền con người nhằm bảo vệ "an ninh quốc phòng, an ninh quốc gia,
trật tự và an toàn xã hội, đạo đức xã hội và lợi ích cộng đồng" hơi khác
với tiêu chí của Điều 18, đoạn 3 của Công ước quốc tế, Điều 24, khoản 3 của
Hiến pháp năm 2013 đã cho phép một sự hạn chế thật rộng bằng cách cấm bất cứ ai
"lợi dụng tự do tôn giáo và tín ngưỡng để vi phạm pháp luật”.
23/.
Hơn nữa, Pháp lệnh 21 và Nghị định 92 thường nêu lên các mục đích như "đoàn
kết và hài hòa dân tộc", "đoàn kết nhân dân", "lợi ích quốc
gia" và "truyền thống văn hóa, phong tục và tập quán", mà Chính
phủ có thể diễn giải một cách rộng rãi và chủ quan. Ví dụ, Điều 8, khoản 2 của
Pháp lệnh 21 quy định rằng "không ai được lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo để phá hoại hòa bình, độc lập và thống nhất đất nước, kích động dùng
bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh hoặc tuyên truyền chống pháp luật, chính
sách của Nhà nước để gây chia rẽ giữa nhân dân và tôn giáo; gây rối trật tự công
cộng, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác
hoặc cản trở việc thực hành quyền hoặc nghĩa vụ công dân; thực hành mê tín dị
đoan; hoặc có những hành vi vi phạm khác". Chính phủ không có định nghĩa
rõ rệt cho các loại hành động hoặc hoạt động nào sẽ đưa đến "tuyên truyền
chống pháp luật và chính sách của Nhà nước", "gây chia rẽ" hay
"thực hành mê tín dị đoan". Hơn nữa, Điều 87, 88 và 258 của Bộ luật
Hình sự Việt Nam thường được áp dụng tùy tiện để trừng phạt những người bị kết
tội vi phạm các giới hạn quy định trong Pháp lệnh 21 và/hoặc Nghị định 92.
24/.
Nhiều đại diện cấp cao của Chính phủ, kể cả của các cơ quan tư pháp, thường nêu
lên những điều khoản hạn chế với phạm vi quá rộng đó. Những mục đích trừu tượng
nêu trên, chẳng hạn như "lợi ích của Nhà nước", dễ dẫn đến truy tố hình sự. Đoạn đầu tiên của
Điều 258 của Bộ luật hình sự ghi như sau: "Những người nào lợi dụng các
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do lập hội
và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
của các tổ chức và/hoặc công dân sẽ bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ
đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm". Đoạn này không hề liệt
kê những hành động cụ thể mà có thể bị quy kết thành "lạm dụng" tự do
tôn giáo hay tự do dân chủ khác là một vấn đề đáng quan tâm. Ngay cả các thành
viên của một tòa án địa phương cấp tỉnh và Toà án nhân dân tối cao cũng đã
không thể làm rõ ý nghĩa của "lạm dụng" và không thể liệt kê nhũng
hành vi nào sẽ bị coi là vi phạm pháp luật. Dựa trên tính chất mơ hồ của Điều
258, các cơ quan liên hệ có toàn quyền hành xử và kiểm soát mọi
................
(4)/ Xin
xem Công Ước Quốc TếCCPR/C/21/điều chỉnh 1/ Phụlục 4, đoạn 8
(5)/ Xin
xem, thí dụ, điều 8, đoạn 2; 15; và điều 16 của Pháp Lệnh 21; và điều 2 và điều
5 cũa Nghị Định 92.
A/HRC/28/66/Add.2
TRANG 07
loại hoạt động -
khi thái độ của cá nhân hay cộng đồng bị xử- được xem là đi ngược lại với lợi
ích của Nhà nước. Chính phủ có thể dùng ưu quyền này để giới hạn các cộng đồng
tôn giáo hay tín ngưỡng vì các nhóm đó có khả năng kêu gọi và tổ chức tín đồ.
25/.
Báo cáo viên đặc biệt đã suy diễn ra sau nhiều cuộc thảo luận trong chuyến
viếng thăm này rằng sự tối nghĩa trong các ngôn từ về luật pháp không chỉ là một
vấn đề lý thuyết. Điều 258 thường được viện dẫn và áp dụng để bắt giữ những
người chống lại các hạn chế nhằm vào quyền tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng, hay
nhân quyền khác, chẳng hạn như tự do ngôn luận và tự do lập hội và hội họp. Khi
đặt câu hỏi về các tù nhân lương tâm, Báo cáo viên đặc biệt đã được đảm bảo
rằng không có vụ việc nào xảy ra như vậy ở Việt Nam. Thực tế cho thấy số người
bị kết tội theo Điều 258 và tính chất mơ hồ của điều này đã khiến cho sự đảm
bảo đó thật là khó tin.
C/. Quy
định hành chính về hoạt động và thực hành tôn giáo hay tín ngưỡng
26/. Một vấn đề chính yếu trong hầu hết các cuộc
thảo luận của chuyến thăm viếng này liên quan việc đăng ký của các cộng đồng
tôn giáo hay tín ngưỡng. Mặc dù Điều 5 của Pháp lệnh 21 quy định rằng Nhà nước
đảm bảo quyền thực hành các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, Pháp lệnh 21 có rất
nhiều các quy định được tăng cường bởi Nghị định 92 liên quan đến các hoạt động
của cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng.
27/. Nghị định 92 ấn định các điều kiện và đòi hỏi
việc đăng ký cho hoạt động và điều hành các hoạt động tôn giáo hoặc tín ngưỡng.
Các cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng phải xin giấy phép cho việc xây dựng hay
chỉnh trang các nơi thờ tự; họ phải trình bày cho cơ quan chức năng địa phương
một tổng quan về hoạt động hàng năm đã được đặt ra; họ phải thông báo cho cơ quan
chức năng về việc phong chức sắc giáo sĩ và trong một số trường hợp phải được
sự chấp thuận của chính quyền; và họ phải được chính quyền địa phương cho phép
việc cử hành các nghi lễ công cộng. Như vậy, các quy định nêu trong Pháp lệnh
21và Nghị định 92 bao gồm các nghĩa vụ liên quan đến thông tin và thông báo
cũng như cho phép chính thức trước khi được thực hành một số hoạt động tôn
giáo, tín ngưỡng.
28/. Các yêu cầu quá mức trong các quy định này
chắc chắn sẽ là những gánh nặng cho các hoạt động của cộng đồng tôn giáo. Nghị
định 92, với những đòi hỏi hành chính khác, đã làm cho sinh hoạt của các cộng
đồng tôn giáo hay tín ngưỡng khó khăn hơn, mặc dù khoảng thời gian mà các cơ quan
chức năng phải trả lời được rút ngắn đi so với trước đây. Trong trường hợp
quyết định bác đơn, giới thẩm quyền bắt buộc phải nêu rõ lý do.
29/. Theo Điều 16 của Pháp lệnh (6) [6], các tổ chức
phải đáp ứng một số tiêu chí để được công nhận về mặt pháp lý.
Những
điều kiện này nhằm mục đích, ngoài những lý do khác, đảm bảo sự tôn trọng
"những mỹ tục và thói quen tốt đẹp cũng như lợi ích quốc gia". Điều 6
của Nghị định 92 cũng ấn định là các đòi hỏi khác phải được đáp ứng trước khi
đăng ký trong đó có thời gian mà các tổ chức tôn giáo đã sinh hoạt về tôn giáo
thường xuyên ít nhất là 20 năm kể từ ngày được chấp thuận bởi Ủy ban nhân dân
cấp xã cho các hoạt động tôn giáo. Không đi sâu vào chi tiết của các quy định
này, Báo cáo viên đặc biệt muốn nêu ra hai điểm cần lưu ý, đặc biệt quan trọng
liên quan đến tự do tôn giáo hay tín ngưỡng.
30/. Điểm thứ nhất liên quan đến bản chất của sự đăng ký và
chúng ta cần xét lại xem đó là một sự đề nghị hay một đòi hỏi chính thức.
Báo cáo viên đặc biệt nhận được quan điểm khác nhau về điều này, và có vẻ đây
là một sự thiếu rõ ràng. Trong khi một số đại diện của Chính phủ đã nói rõ ràng
rằng nếu không đăng ký hợp pháp với chính quyền, các cộng đồng tôn giáo, tín ngưỡng sẽ không được phép
hoạt động; những người khác thì cho rằng các cá nhân của các giáo phái không
cần được "cho phép" để thực hành một số nghi thức tôn giáo cơ bản,
chẳng hạn như tổ chức các cuộc tụ họp tôn giáo tại nhà riêng, miễn là nhà chức
trách được thông báo trước về các hoạt động đó. Ngay cả khi chúng ta chấp nhận
sự giải thích sau, mục tiêu của quyền tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng vẫn còn bị
hạn chế rất nhiều và không an toàn. Hơn nữa, khái niệm về sự "cho
phép" không được rõ ràng. Sự "cho phép" đó vẫn còn quá tụt hậu
so với quyền hợp pháp mà các cộng đồng có thể làm căn cứ cho quyền tự do tôn
giáo hay tín ngưỡng của các thành viên.
.....................
(6)/ điều
16 (1) của Pháp Lệnh 21
A/HRC/28/66/Add.2
TRANG 08
31/. Trong bối cảnh này, thuật ngữ "công
nhận", thường được đề cập đến trong các cuộc đối thoại, xứng đáng được có
một lời diễn giải ngắn gọn. Việc thực thi quyền con
người liên quan đến tự do tôn giáo hay tín ngưỡng của các cá nhân và/hoặc trong
cộng đồng với những người khác, không thể phụ thuộc vào bất kỳ một quyết định
nào về phương diện hành chính của chính quyền như: công nhận, cho phép hay phê
chuẩn. Là một quyền phổ quát, tự do tôn giáo hay tín ngưỡng hiện hữu trong tất
cả con người, và tồn tại trước khi có bất cứ quyết định về hành chính và thủ tục
nào đó. Lời mở đầu của bản Tuyên Ngôn năm 1948 về Nhân Quyền bắt đầu với
câu:"công nhận phẩm giá vốn có và những quyền bình đẳng và bất khả xâm
phạm của tất cả các thành viên của đại gia đình nhân loại". Chữ "công
nhận" ở đây nói về nguyên tắc căn bản của sự tôn trọng nhân phẩm và nhân
quyền trong sự giao tiếp giữa người và người. "Công nhận" trong ý
nghĩa cơ bản này đã nói lên sự tôn trọng tuyệt đối phẩm giá con người và các
quyền con người được đặt trên bất kỳ "công nhận" về phương diện hành
chính (7).
32/. Chúng ta cần phải thấy rõ rằng quyền tự do tôn giáo hay
tín ngưỡng của một cá nhân hay một nhóm người không được "tạo ra"
bằng bất kỳ thủ tục hành chính nào. Ngược lại, việc đăng ký cần phải phục vụ quyền
con người, mà quyền này phải luôn luôn được tôn trọng trước và trên thủ tục
đăng ký. Dựa trên cơ sở của sự hiểu biết tổng thể này, đăng ký chỉ có
thể là một đề nghị của Nhà nước, và không thể là một đòi hỏi pháp lý có tính
cách bắt buộc. Tình trạng của các cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng chưa đăng
ký được xem như là một phép thử quan trọng về sự hiểu biết về quy tắc thế nào
là tự do tôn giáo hay tín ngưỡng.
33/. Điểm thứ hai mà Báo cáo viên đặc biệt muốn
nêu lên liên quan đến sự hiện hữu về những dạng thái nào khác về tư cách pháp
nhân có thể dành cho các cộng đồng đã không đăng ký như là các tổ chức tôn
giáo. Với tiêu chuẩn khá cao được đề ra qua điều 16 của Pháp lệnh, điểm quan trọng là các cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng
có sự lựa chọn khả dĩ một tư cách pháp nhân thay thế nào khác, nếu như họ muốn.
34/. Dưới phạm trù quyền tự do tôn giáo hoặc tín
ngưỡng, các quốc gia có trách nhiệm cung cấp một cơ sở hạ tầng pháp lý và thể chế
phù hợp tạo điều kiện cho các hoạt động tự do của các cộng đồng tôn giáo và tín
ngưỡng mà không chịu gánh nặng quá mức và không bị phân biệt đối xử. Điều này
bao gồm sự lựa chọn cho các cộng đồng tôn giáo và tín ngưỡng để có tư cách pháp
nhân, mà họ có thể cần để thực hiện các chức năng cộng đồng quan trọng, chẳng
hạn như mua bất động sản, sử dụng đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, điều hành tổ
chức từ thiện, thành lập cơ sở đào tạo giáo sĩ hay giáo dục thế hệ trẻ. Nếu
không có sẵn hoặc có khả năng thực sự để tiếp cận tư cách pháp nhân phù hợp,
các hành động này chỉ có thể được thực hiện bởi các cá nhân tự nguyện thực hiện
chúng vì lợi ích của cộng đồng. Kết quả là, triển vọng phát triển lâu dài của
cộng đồng tôn giáo và tín ngưỡng, đặc biệt trong các nhóm nhỏ, có thể gặp nguy
hiểm nghiêm trọng.
35/. Sau nhiều thảo luận với đại diện Chính phủ về
vấn đề đăng ký, Báo cáo viên đặc biệt tin rằng đây là một lĩnh vực cần được
quan tâm và đòi hỏi những biện pháp của Lập Pháp và các biện pháp khác.
D/. Vấn
đề trong Cơ Chế Khiếu Nại trong hệ thống Pháp Lý
36/. Điều 30 của Hiến pháp năm 2013 quy định các
quyền khiếu nại, tố cáo của mọi người đối với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Thật vậy, việc thực thi hiệu quả các quyền con người, bao gồm cả quyền tự do
tôn giáo hoặc tín ngưỡng, phần lớn phụ thuộc vào sự hiện hữu của các cơ chế khiếu
nại thích hợp. Mọi người phải được quyền dùng đến các cơ chế pháp lý này mà
không cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn nặng nề thái quá. Họ phải được quyền
thách thức quyết định của nhà chức trách nếu họ cảm thấy quyền lợi của mình bị xâm
phạm. Toà án với tính cách độc lập của họ cần được giao phó nhiệm vụ thẩm định
các khiếu nại chiếu theo quy định của luật pháp.
37/. Báo cáo viên đặc biệt đã không nhận thấy bất
cứ vụ nào mà người dân đã thành công trong việc thách thức các hành vi vi phạm
quyền tự do tín ngưỡng hay tôn giáo qua hệ thống tư pháp. Các thành viên của
Toà án Nhân dân Tối cao cũng đã không biết đến một vụ thành công nào cả. Báo
cáo viên đặc biệt thấy đây là điều rất đáng ngạc nhiên, đặc biệt trong bối cảnh
của một số vụ tranh chấp đất đai mà ông được báo cáo. Một trong số
.....................
(7)/
Xin xem Tường Trình của Báo cáo viên đặc biệt LHQ (A/HRC/19/60), bao gồm chủ đề
về sự công nhận quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng.
A/HRC/28/66/Add.2
TRANG 09
các cuộc xung
đột rõ ràng liên quan đến tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng, ví dụ, khi đất trước
đây được xử dụng làm nghĩa trang tôn giáo hoặc những nơi thờ tự đã bị tịch thu
cho mục đích phát triển kinh tế.
38/. Khi thảo luận về các đề mục liên quan đến cơ chế
khiếu nại, tất cả đều được quy về các thủ tục hành chính, có nghĩa là, các kiến
nghị phải gửi đến cơ quan hành chính, từ cấp địa phương đến cấp cao hơn của
chính quyền.
Tuy
nhiên, phương thức này không thể được xem là tương đương với một nền tư pháp
độc lập chịu trách nhiệm về việc bảo đảm nhân quyền cho tất cả mọi người, kể cả
trong những liên quan đến tình trạng xung đột giữa các cá nhân hoặc các nhóm
dân chúng với chính quyền.
39/. Mặc dù Báo cáo viên đặc biệt nghe nói về một
vài trường hợp, trong đó kiến nghị gửi tới các cấp hành chính cao hơn, trong đó
có thủ tướng chính phủ, đã giúp giải quyết các tranh chấp; trong nhiều trường
hợp khác, người khiếu kiện đã không nhận được bất cứ sự phúc đáp nào từ các cơ quan
chức năng. Và nhiều trường hợp khác, cơ quan chức năng cấp cao hơn lại trả lại
hồ sơ cho cơ quan ở địa phương để xem xét lại, đã gây ra tình trạng lấp lửng.
Nhìn trên khía cạnh pháp luật, tình trạng này chưa được giải quyết thỏa đáng.
IV/.
Quyền tự trị của các cộng đồng tôn giáo hoặc tín ngưỡng
A/.
Thái độ tiêu cực đối với các cộng đồng tôn giáo không được công nhận
40/.
Đại diện Chính phủ nhiều lần nhấn mạnh rằng, trong khi họ công nhận nhu cầu
tinh thần của dân chúng, các tôn giáo phải góp phần củng cố sự đoàn kết của dân
tộc như một tổng thể, không chỉ bằng cách phát huy các giá trị xã hội. Kỳ vọng
này dường như được thực hiện dựa trên giả định rằng giá trị tôn giáo, giá trị công
dân và các giá trị vốn có trong chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh có
sự trùng nhau. Do đó, các cộng đồng tôn giáo được kỳ vọng đóng một vai trò
trong việc giáo dục, giảng dạy và duy trì các giá trị như quy định tại điều 2 của
Pháp lệnh 21, trong đó nói rằng "các chức sắc tôn giáo phải có trách nhiệm
giáo dục thường xuyên các tín hữu về lòng yêu nước, thi hành các quyền dân sự và
nghĩa vụ, và ý thức chấp hành pháp luật ".
41/. Một số tôn giáo hay giáo phái đã trở thành
thành viên của Mặt trận Tổ quốc, một tổ chức quần chúng do Đảng Cộng sản Việt
Nam chỉ đạo. Một trong những tổ chức tôn giáo lớn nhất trong Mặt trận Tổ quốc
là Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Đây cũng là tổ chức tôn giáo hợp pháp duy nhất
đại diện các tăng ni và tín đồ Phật giáo ở Việt Nam và ở nước ngoài. Ủy ban
Đoàn kết Công giáo Việt Nam cũng hợp tác với Mặt trận với tư cách là một hiệp
hội Công giáo. Ngoài ra còn có các tổ chức tôn giáo khác thuộc Mặt trận Tổ quốc.
42/. Trong các cuộc thảo luận với Giáo hội Phật
giáo Việt Nam tại văn phòng trung ương của hội tại Hà Nội, Báo cáo viên đặc
biệt biết được tổ chức này bao gồm chín nhánh của Phật giáo có nguồn gốc từ truyền
thống Đại Thừa, chiếm đa số tại Việt Nam, cũng như Tiểu Thừa, Hòa Hảo và những
nhánh khác. Bằng cách hợp tác trong tinh thần đoàn kết, các trường phái khác
nhau của Phật giáo đã có thể duy trì các đặc tính và bản sắc riêng biệt của họ
đến một mức độ nào đó, bao gồm các di sản về ngôn ngữ khác nhau.
43/. Tuy nhiên, trong khi thừa nhận sự đa dạng
trong nội bộ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Báo cáo viên đặc biệt chú ý đến một
thái độ khá tiêu cực đối với sự thực hành Phật giáo bên ngoài của tổ chức. Một
số chức sắc hoạt động trong tổ chức khẳng định họ chưa bao giờ nghe nói về bất
kỳ nhóm Phật giáo độc lập nào tại Việt Nam.
Những
người khác ám chỉ đơn thuần "ý kiến riêng" cho rằng các nhóm ấy chỉ là
một số cá nhân thúc đẩy bởi tham vọng, có vấn đề về mặt đạo đức mà không xứng
đáng được quan tâm đến. Việc xử dụng các cụm từ như "ích kỷ",
"tham vọng cá nhân", "tham lam" hay "lợi dụng vật
chất" từ các nhà tài trợ nước ngoài, cho những người thực hành Phật giáo
hay các tôn giáo khác bên ngoài các tổ chức đăng ký chính thức được nhắc đến
thường xuyên trong cuộc đối thoại.
44/. Trong bối cảnh này, Báo cáo viên đặc biệt hỏi
các quan chức rằng liệu có một động cơ tích cực và khả kính nào về sinh hoạt
của các cộng đồng tôn giáo độc lập, thì không bao giờ nhận được câu trả lời rõ
ràng. Thái độ tiêu cực này đối với cộng đồng tôn giáo độc lập trùng lặp với ý
tưởng thường được nêu lên về “lợi ích của số đông” luôn được ưu tiên hơn các
quyền và lợi ích của thiểu số hoặc cá nhân bất đồng.
...............
(8)/ Xin
xem điều 4, đoạn 1 của Hiến Pháp năm 2013
A/HRC/28/66/Add.2
TRANG 10
45/. Báo cáo viên đặc biệt muốn nhấn mạnh trong
bối cảnh này là tự do tôn giáo hay tín ngưỡng không chỉ là một vấn đề của nhóm
thiểu số. Là một quyền con người, nó liên quan đến tất cả mọi người, bất kể họ theo
một tôn giáo đa số hoặc thuộc về một cộng đồng thiểu số hoặc không có cộng đồng
tôn giáo nào cả. Việc đối xử với các dân tộc thiểu số, tuy nhiên, đáng được chú
ý đặc biệt, bởi vì đó là biểu hiện chung -- khoan dung hoặc ít khoan dung -- về
môi trường xã hội. Điều này cũng đúng đối với các cá nhân thuộc các tôn giáo có
ý kiến bất đồng, đó là các cá nhân có lập trường không phù hợp với các cộng
đồng dòng chính và các tổ chức chính thức của chúng. Chừng nào các cộng đồng
thiểu số được hoạt động tự do và độc lập và chừng nào những lập trường bất đồng
được phát biểu không sợ hãi, thì các thành viên của các tổ chức đa số cũng sẽ có
thêm không gian để thực hành tôn giáo theo cách thức phù họp với họ.
46/. Hơn nữa, tôn trọng quan điểm của cá nhân, bao
gồm cả quan điểm bất đồng chính kiến, tạo điều kiện cho dòng chảy tự do của ý
tưởng trong xã hội nói chung, và cũng làm phong phú thêm sự tương tác giữa con
người với các thành phần chiếm đa số. Tuy nhiên, Báo cáo viên đặc biệt nhận
thấy rằng, trong một số cuộc thảo luận, "lợi ích của đa số" được đưa
ra nhằm bác bỏ những ý kiến của các nhóm thiểu số hoặc của các cá nhân bất đồng
chính kiến và cho rằng các ý kiến này là không thích hợp, hoặc thậm chí coi họ là
những người có vấn đề về đạo đức. Trường hợp tương tự cũng xảy ra trong các
cuộc thảo luận liên quan đến các cộng đồng tôn giáo độc lập, chẳng hạn như Giáo
hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, một số nhóm Phật giáo dân tộc thiểu số (một
số người trong thành phần này tự nhận mình là Phật tử "Khmer Krom"),
các nhóm độc lập của Hòa Hảo, Cao Đài, Tin Lành, Dương Văn Mình và Pháp Luân
Công.
47/. Trong cuộc họp với các đại diện của cộng đồng
Phật giáo độc lập, Báo cáo viên đặc biệt nghe khiếu nại về việc liên tục bị đàn
áp nặng nề, trong đó chính quyền ngăn cản các cá nhân trong việc thực hiện
quyền tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng ngay cả ở mức độ thấp nhất. Thái độ không
công nhận việc thực hành tôn giáo không đăng ký mà ông nhận thấy trong nhiều
cuộc hội thoại, cho thấy rằng các cộng đồng Phật giáo độc lập hiện nay không
thể thực hiện quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng của họ. Hơn nữa, một số tu sĩ
Phật giáo, nhận mình là người Khmer Krom, đã bày tỏ sự mong muốn của họ được
độc lập nhiều hơn, không chỉ trong phạm vi Giáo hội Phật giáo Việt Nam mà còn ở
bên ngoài tổ chức Phật giáo chính thức này của nhà nước. Tình hình của cộng
đồng độc lập của Phật giáo Hòa Hảo cũng gặp các khó khăn tương tự.
48/. Một tôn giáo hầu như không được biết đến bên
ngoài Việt Nam là Cao Đài, là sự kết hợp truyền thống của Phật giáo, Khổng
giáo, Lão giáo và Thiên Chúa giáo với một số giáo lý mới. Như trong trường hợp của Phật giáo, các tín đồ Cao Đài
được chia thành hai nhóm: những người đặt dưới sự lãnh đạo của Hội đồng Chưởng
quản Cao Đài do chính phủ thành lập, và những người muốn thực hành tôn giáo độc
lập. Các mối quan hệ giữa hai nhóm này có vẻ căng thẳng. Trong khi
đó, các tổ chức Cao Đài được công nhận chính thức buộc tội nhóm bất đồng chính
kiến về "ý định ly khai" và tạo ra "tình trạng rối" trong
dân chúng; trong khi các tín đồ Cao Đài độc lập thấy truyền thống tốt đẹp của
họ bị hủy hoại bởi sự can thiệp của Chính phủ. Họ khẳng định rằng sự can thiệp
này đã dẫn tới nhiều thay đổi áp đặt trong đạo Cao Đài.
49/. Trong khi Báo cáo viên đặc biệt không phải ở vị
thế để đánh giá chi tiết về các điểm thần học của sự xung đột này, ông kỳ vọng
Chính phủ đảm bảo sự hoạt động tự do của các cộng đồng Cao Đài độc lập và tạo
điều kiện giúp họ phát triển một cách thuận lợi phù hợp với ý muốn của họ. Tình
hình hiện nay của các nhóm Cao Đài độc lập chắc chắn là không phù hợp với quyền
tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng, vì cộng đồng của họ không còn các cơ sở thích
hợp cho việc thờ phượng và giảng dạy; và đồng thời họ bị áp lực để tham gia các
tổ chức chính thức.
B/.
Giáo dục và huấn luyện tôn giáo
50/.
Điều 19 và Điều 20 của Luật Giáo dục năm 2005 nghiêm cấm việc rao giảng tôn giáo
trong các trường học và cơ sở giáo dục khác ở Việt Nam. Luật vẫn khuyến khích
những "phong tục tốt đẹp" của các tín ngưỡng và lễ hội khác nhau
nhưng lại cảnh báo chống lại "mê tín" hoặc những niềm tin và hoạt
động nào bị xem là hủ tục.
51/.
Trong khi đó, số lượng các cơ sở đào tạo giáo sĩ thuộc các tôn giáo khác nhau
đã tăng lên đáng kể trong những thập niên gần đây. Theo thông tin của Chính
phủ, có 46 cơ sở huấn luyện về tôn giáo trong nước. Trong khi
...................
(9)/ xem
TườngTrình của Báo cáo viên (A/HRC/22/51), gồm chủ đề về quyền tự do tôn giáo
của nhóm thiểu số.
A/HRC/28/66/Add.2
TRANG 11
các cộng đồng
tôn giáo quyết định các phần chính của chương trình huấn luyện, chẳng hạn như việc
giảng dạy các học thuyết thần học, cách áp dụng các học thuyết này vào thực tế,
việc thưc hành các nghi lễ, cũng như lịch sử của cộng đồng thì theo Điều 14 và
15 của Nghị định 92, chương trình huấn luyện cũng bao gồm các môn học bắt buộc
về lịch sử và pháp luật của Việt Nam do Bộ Giáo dục và Huấn luyện cung cấp và
giám sát. Báo cáo viên đặc biệt cũng nhận thấy rằng chủ nghĩa Mác-Lênin là một
phần của chương trình giảng dạy bắt buộc.
52/.
Ngoài các cơ sở huấn luyện, ở Việt Nam không có các trường học của các tôn giáo
hay giáo phái. Tuy nhiên, Giáo Hội Công Giáo có mở một số nhà trẻ và các nhà
trẻ này thường có liên quan đến một nhà Dòng nào đó.
Các
nhà trẻ này nhận trẻ em từ nhiều tôn giáo khác nhau ngoài Công giáo. Một số tổ chức
tôn giáo đã bày tỏ mong muốn thành lập các trường đào tạo cho các trình độ cao
hơn, điều mà hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn và cần phải thương lượng
trong một thời gian dài với Chính phủ.
C/. Bổ nhiệm
các chức sắc tôn giáo
53/.
Theo Chính phủ, các cộng đồng tôn giáo có thể bổ nhiệm và phong chức cho các
giáo sĩ theo các quy định và luật nội bộ của tôn giáo của mình. Theo báo cáo,
việc bổ nhiệm của họ không cần sự chấp thuận của các cơ quan chức năng nói
chung. Tuy nhiên, các cộng đồng được yêu cầu phải “đăng ký” các giáo sĩ được
phong chức và thông báo cho các cơ quan chức năng. Điều 22 của Pháp
lệnh 21 đòi hỏi rằng những người được bổ nhiệm phải là công dân Việt Nam, có
phẩm chất đạo đức tốt, tinh thần đoàn kết dân tộc và hòa hợp hòa giải.
Những yêu cầu mơ hồ như vậy dường như quá quắt; và vai trò của
Nhà nước không phải là để can thiệp vào công việc nội bộ của các tổ chức tôn
giáo. Về việc bãi nhiệm một chức sắc tôn giáo vốn ít khi xảy ra thì thường do
các cộng đồng tôn giáo quyết định, phù hợp với luật lệ tôn giáo của họ. Tuy
nhiên, Báo cáo viên đặc biệt cũng đã xem qua cáo buộc về sự can thiệp của Chính
phủ trong một số trường hợp các nhà sư bị buộc phải hoàn tục. Mặc dù ông không
thiết lập được các chi tiết cần thiết cho một sự đánh giá rõ ràng về từng
trường hợp, ông vẫn tin rằng nếu sự chọn lựa của cộng đồng tôn giáo bị hạn chế quá
mức thì chắc chắn sẽ dẫn đến nguy cơ cấu trúc của sự tự trị bị phá vỡ, có nghĩa
là việc bổ nhiệm hoặc trục xuất trong thực tế sẽ bị ảnh hưởng trầm trọng bởi
các quyền lợi của Chính phủ. Tuy nhiên, điều 6 (g) của Tuyên Ngôn của Đại Hội
Đồng Liên Hiệp Quốc năm 1981 về việc xóa bỏ mọi hình thức không khoan dung và
phân biệt đối xử dựa trên tôn giáo hoặc tín ngưỡng đã bảo đảm một cách rõ ràng
rằng quyền tự do "huấn luyện, bổ nhiệm, đề cử hoặc chỉ định những người
thích hợp để thừa kế chức vị lãnh đạo đều phải dựa trên yêu cầu và tiêu chuẩn
của bất luận tôn giáo hoặc tín ngưỡng nào."
54/.
Tình trạng của Giáo Hội Công Giáo cho thấy một số đặc điểm vì việc phong chức
giám mục được thực hiện bởi Tòa Thánh, vốn là một "hệ thống quyền lực
ngoại quốc" có trụ sở bên ngoài Việt Nam. Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam
tự xem mình là một phần của giáo hội hoàn vũ. Dù vậy, việc bổ nhiệm và phong
chức giám mục đã gây ra một số tranh cãi. Mặc dù Việt Nam và Tòa Thánh vẫn chưa
thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức, mối quan hệ của họ đã được cải thiện
nhiều trong những năm gần đây, và những phái đoàn cao cấp đã nhiều lần tiếp xúc
với nhau, trong đó có một cuộc gặp gỡ giữa Đức Giáo Hoàng và Thủ tướng Chính
phủ vào tháng 10 năm 2014. Trong khi chính phủ tiếp tục khẳng định quyền phủ quyết
của họ trong việc phong chức giám mục, theo như được báo cáo thì các giải pháp
thực dụng có thể được thương lượng.
D/. Các
vấn đề về bất động sản và đất đai
55/.
Trong chuyến viếng thăm này, nhiều vấn đề về bất động sản đã gây sự chú ý của
Báo cáo viên đặc biệt. Các vấn đề này được đưa ra không chỉ bởi những thành
viên của các cộng đồng không được công nhận, mà còn bởi đại diện của các cộng
đồng được chính thức công nhận và các thành viên của Mặt trận Tổ quốc. Trong số
các khiếu nại, có nhiều khiếu nại liên quan đến bất động sản và/hoặc đất đai.
Vì lợi ích của sự phát triển kinh tế và các dự án hiện đại hóa khác của quốc
gia, một số các cộng đồng tôn giáo đã bị mất hoặc có nguy cơ mất phần
...................
(10)/
Nghị quyết 36/55 của Đại Hội Đồng LHQ
A/HRC/28/66/Add.2
TRANG 12
lớn đất đai của
họ, cùng với những nơi thờ tự có giá trị lịch sử (11). Báo cáo viên đặc biệt đã
nghe nhiều yêu cầu từ các cộng đồng tôn giáo bao gồm cả một số cộng đồng đã
được nhà nước công nhận, họ muốn lấy lại tài sản và đất đai để được hoạt động
một cách vẹn toàn.
56/.
Việc tranh chấp tài sản đòi hỏi phải có thông tin chính xác về các chi tiết
phức tạp. Do đó Báo cáo viên đặc biệt tự giới hạn trong một vài nhận xét chung.
Sở hữu bất động sản và đất đai là một trong những điều kiện tiên quyết cho sinh
hoạt của cộng đồng tôn giáo. Quyền sở hữu được thiết lập một cách rõ ràng là
một yếu tố quan trọng để xác định rằng các cộng đồng tôn giáo có được tự trị hay
không. Tại Việt Nam, tất cả đất đai được quản lý bởi nhà nước và không ai có
thể sở hữu đất đai. Sự kiện này tạo thêm một yếu tố bất ổn về mặt pháp lý cho
các cộng đồng tôn giáo kể cả các cộng đồng đã đăng ký chính thức vì nhà nước có
thể lấy lại đất đai bất cứ lúc nào. Ngoài ra, một số cộng đồng ví dụ như cộng
đồng người Chăm, vốn kết hợp Ấn Độ giáo và Hồi giáo, có một gắn bó văn hóa hay
tôn giáo mạnh mẽ với từng miếng đất cụ thể nào đó, ví dụ như những nơi chôn cất
tổ tiên của họ.
57/.
Đại diện Chính phủ công khai thừa nhận rằng có tranh chấp đất đai tại Việt Nam
cũng như ở nhiều nước khác.
Đồng
thời, họ nghi vấn rằng liệu những tranh chấp này có thể nào ảnh hưởng đến tự do
tôn giáo tín ngưỡng hay không. Tuy nhiên, ít nhất là trong một số trường hợp,
các nhu cầu tôn giáo rõ ràng đóng một vai trò quan trọng trong vấn đề tranh
chấp đất đai. Ví dụ như đại diện của các nhóm Tin Lành nói về các trường hợp ở vùng
nông thôn trong đó các Hội Thánh Tin lành khác nhau đã bị sáp nhập vào một Hội
Thánh duy nhất để việc "quản lý được dễ dàng hơn". Được biết việc sát
nhập này không phải luôn luôn được tiến hành với sự tôn trọng những đặc tính
riêng biệt của các giáo phái Tin Lành khác nhau và nhu cầu tôn giáo của các tín
đồ thuộc từng địa phương khác nhau. Lợi điểm trong việc điều hành và lợi lộc
dùng đất đai vào các mục đích kinh tế thường lấn áp quyền tự do tôn giáo của
người dân.
58/.
Các tranh chấp về đất đai luôn luôn cần được giải quyết một cách tế nhị hầu đưa
ra các giải pháp có thể chấp nhận được cho tất cả các bên liên hệ. Chính phủ nhấn
mạnh rằng đất đai họ cung cấp cho các cộng đồng tôn giáo xử dụng được miễn
thuế. Tuy nhiên, việc thiếu các biện pháp pháp lý hữu hiệu như đã đề cập ở trên,
đặc biệt trong phạm vi tư pháp, cũng ảnh hưởng đến tình trạng tranh chấp đất
đai liên quan đến các cộng đồng tôn giáo. Trong những buổi nói chuyện với đại
diện các cộng đồng tôn giáo khác nhau, bao gồm cả các cộng đồng có hợp tác với
Chính phủ trong Mặt trận Tổ quốc, Báo cáo viên đặc biệt chú ý đến tâm lý mất
tin tưởng cao độ về các thủ tục pháp lý kém hiệu quả. Kết quả là một số các
cộng đồng tôn giáo cảm thấy họ hoàn toàn nằm trong tay của chính quyền địa
phương.
V/.
Thực hành tôn giáo trong một số hoàn cảnh đặt biệt
A/. Đối
với tù nhân
59/.
Như đã nói ở trên, Điều 24 của Hiến pháp 2013 đề cập tất cả mọi con người chứ không
chỉ nói đến công dân mà thôi. Điều này bao gồm rằng cả các tù nhân, thậm chí
ngay cả khi họ tạm thời bị mất trọn vẹn quyền công dân, vẫn có quyền tự do tôn
giáo hay tín ngưỡng vốn là quyền phổ quát của con người. Khi thảo luận về vấn
đề này, Báo cáo viên đặc biệt đã nhận được thông tin mâu thuẫn. Các cơ quan
Chính phủ thường nhấn mạnh rằng tù nhân có thể thực hành tôn giáo của họ trong
phạm vi giam cầm của nhà tù nếu việc thực hành này không ảnh hưởng tiêu cực đến
các tù nhân khác và những hoạt động nói chung của đời sống nhà tù.
60/.
Ngược lại, một số người đã biết và có kinh nghiệm sống trong tù lại cáo buộc
rằng các nhà tù hầu như không cho phép hoạt động tôn giáo và cấm cả việc tiếp
nhận và sở hữu các sách hoặc tài liệu tôn giáo. Khi được hỏi về vấn đề này, một
đại diện cao cấp của Ủy ban Tôn giáo Chính phủ nói với Báo cáo viên đặc biệt là
quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng của tù nhân cần được tôn trọng trong khi
thừa nhận rằng cho đến nay Ủy ban chưa đưa
.....................
(11)/
Thí Dụ: Vào năm 2007 chính quyền Đà Nẵng công bố việc lấy đất của làng Cồn Dầu.
Việc bồi thường rất thấp, và giáo dân Cồn Dầu muốn được định cư gần nhà thờ bị khước
từ hai lần. Đến năm 2013, hàng trăm dân cư đã dọn ra trước sự đe doạ của chính
quyền hay sau khi nhà của họ đã bị giật sập. Sự việc này là một mối quan tâm vì
đã làm gián đoạn các sinh hoạt văn hoá và tôn giáo của người dân (xem
A/HRC/27/72. Vụ VNM 3/2014). Xin xem vụ việc xẩy ra tại Chùa Liên Trì
(A/HCR/28/85, vụ VNM 11/2014).
A/HRC/28/66/Add.2
TRANG 13
ra bất kỳ hướng
dẫn nào cho các Ban quản lý trại tù nhằm bảo đảm quyền tự do tôn giáo hay tín
ngưỡng của tù nhân được bảo vệ một cách hữu hiệu.
61/.
Ở Việt Nam không hề có hệ thống các tuyên úy nhà tù gồm giáo sĩ của các tôn
giáo khác nhau phục vụ cho nhu cầu tinh thần của tù nhân theo yêu cầu của họ.
Tuy nhiên, đại diện Tăng Đoàn Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã giải thích rằng họ
có thể phục vụ trong các nhà tù, bao gồm các bài giảng để xây dựng các ý thức
về xã hội và đạo đức cho tù nhân. Dường như các linh mục Công giáo cũng thỉnh
thoảng phục vụ nhu cầu tôn giáo cho tù nhân. Các mục sư Tin Lành mà Báo cáo
viên đặc biệt đã thảo luận về vấn đề này cho biết là họ không thấy bất kỳ sự hỗ
trợ tinh thần nào dành cho tù nhân Tin Lành.
B/. Đối
với quân nhân
62/.
Quân đội Việt Nam không hề có một hệ thống tuyên úy quân đội thường xuyên phục
vụ cho các nhu cầu tôn giáo hay tâm linh của những người lính. Tuy nhiên, tương
tự như tình hình trong các nhà tù, Tăng Đoàn Giáo hội Phật giáo Việt Nam dường
như đã gia tăng sự phục vụ cho các quân nhân. Báo cáo viên đặc biệt được cho
biết rằng các nhà sư thuộc Tăng Đoàn Phật giáo đã từng cầu nguyện cho những
người lính phục vụ đất nước trong những điều kiện phức tạp. Họ cũng dạy các kỹ thuật
Thiền để giúp những chiến binh chấp nhận dễ dàng hơn nhiệm vụ cũng như điều
kiện sinh sống khó khăn.
63/.
Ở Việt Nam người dân không có quyền từ chối nghĩa vụ quân sự và cũng không cho
phép sự chọn lựa phục vụ dân sự dành cho những quân nhân phản đối việc cầm súng
vì lý do lương tâm hay tôn giáo. Điều này đi ngược lại các quyền tự do tư tưởng,
tự do lương tâm và tự do tôn giáo hay tín ngưỡng quy định bởi Điều 18, khoản 3
của Công ước Quốc tế, chống lại việc bị buộc phải hành động trái với tín ngưỡng
tôn giáo hay đạo đức (12).
VI/.
Báo cáo về vi phạm tự do tôn giáo, tín ngưỡng
64/.
Báo cáo viên đặc biệt đã nhận được những cáo buộc nghiêm trọng liên quan đến
các vi phạm quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng tại Việt Nam. Các vụ vi phạm được
tường trình thường do chính quyền địa phương ở cấp huyện, xã và cấp tỉnh gây
ra, và do công an, bao gồm các công an thuộc đơn vị 41/PA 38 vốn được giao
nhiệm vụ giám sát các vấn đề xã hội và "để phát hiện những người vi phạm
tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng" gây ra. Một số cuộc tấn công có tính cách
bạo lực nhằm vào những người vô tội và không có vũ khí, bao gồm cả phụ nữ và
trẻ em.
65/.
Các vị Lãnh đạo tinh thần của Phật Giáo, các sư và tăng ni của Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) đã bị theo dõi, bị gọi lên “làm việc” với
công an (thẩm vấn), bắt bớ và giam giữ tuỳ tiện, quản thúc tại nhà và bỏ tù dài
hạn (13). Các Phật tử bị cấm vào các chùa của Giáo hội, họ buộc phải ký vào một
bản cam kết là họ sẽ không tham gia Giáo hội; nếu không, họ có thể bị đuổi
việc. Ngoài ra, các cơ quan chức năng đã tuyên truyền chống lại Giáo hội. Các
cơ sở giáo dục, y tế và nơi thờ phượng trực thuộc các cộng đồng tôn giáo này đã
bị chính quyền tịch thu.
66/.
Các cộng đồng tôn giáo độc lập của Phật giáo Hòa Hảo luôn dùng hình thức phản
đối ôn hòa, như tuyệt thực, đã bị trừng phạt nghiêm khắc, kể cả việc họ bị giam
giữ nhiều lần hoặc lãnh án tù dài hạn (14). Công an và côn đồ được thuê mướn đã
không ngần ngại dùng vũ lực thật mạnh bạo trong khi bắt giữ hoặc tấn công các
cộng đồng này vì họ tổ chức các cuộc tụ họp để cầu nguyện tại những địa điểm
được xây dựng để dùng cho nhu cầu lễ lạy mà chính quyền gọi đó là những “ngôi
tháp bất hợp pháp”.
.............................
(12)/
Xin xem A/HRC/7/10/Add.2, đoạn 46 và A/HRC/10/8/Add.4, đoạn 51
(13)/
Vào đầu tháng Giêng 2014, thành viên của Ban Điều Hành GHPGVNTN đã bị công an
sách nhiễu và bị quản thúc tại Chùa. Công an đã ngăn cấm không cho Ban Điều
Hành mới được tổ chức Lễ Kỷ Niệm vào
ngày 10-01-2014, đồng thời ngăn chặn các phật tử đến dự lễ. Nhiều vị lãnh đạo Gia
Đình Phật Tử bị đe doạ và bị quản thúc tại nhà (xem A/HRC/26/21, vụ VNM 2/2014)
(14)/
Xem một thí dụ tại A/HRC/28/85, vụ VNM 10/2014
A/HRC/28/66/Add.2
TRANG 14
67/.
Một số người thuộc Phật giáo "Khmer Krom" đã phải đối diện với những
khó khăn tương tự trong việc xin phép tổ chức cầu nguyện, tang lễ hoặc trùng tu
những ngôi đền/chùa của họ, mặc dù họ đã được công nhận bởi Tăng Đoàn Giáo hội
Phật giáo Việt Nam. Theo báo cáo, họ đã bị phân biệt đối xử một cách có hệ thống
và nhiều người trong nhóm họ đã không được phép học hoặc giảng dạy bằng ngôn
ngữ dân tộc của họ. Sinh hoạt tôn giáo của họ bị kiểm soát chặt chẽ trên mọi
phương diện, và các nhà sư có nguy cơ bị ép hoàn tục nếu chính quyền biết được
là họ đã tiếp xúc với nước ngoài.
68/. Không có một sinh hoạt tôn giáo nào của Đạo Cao Đài độc lập
được nhà nước cho phép vì chính Đạo Cao Đài bị coi là bất hợp pháp. Các tín đồ của
Cao Đài gặp khó khăn ngay cả khi họ sinh hoạt tôn giáo tại nhà mình.
Cũng
giống như các cộng đồng độc lập khác, họ đã bị ép buộc, bị sách nhiễu và bị tấn
công. Các nghi lễ của họ kể cả việc cử hành tang lễ thường bị theo dõi và bị ngăn
cản. Hơn nữa, họ luôn lo sợ mất việc làm và bị phân biệt đối xử trong các thủ tục
hành chính. Một số con cái của họ cũng đã phải đối diện với sự khó khăn ở trường.
69/.
Báo cáo viên đặc biệt cũng đã nghe nói về cuộc đàn áp khắc nghiệt đối với những
tín đồ của các nhà thờ phái “Montagnard” (thiểu số Tây Nguyên), như là dân tộc
thiểu số Êđê. Hàng trăm nhà thờ của dân tộc thiểu số trong khu vực Tây Nguyên
đã bị buộc phải đóng cửa và mục sư của họ bị bắt và tống giam. Hàng ngàn người
buộc phải bỏ trốn ra khỏi nước hoặc lẩn trốn sau các cuộc biểu tình đòi quyền
đất đai và tự do tôn giáo. Những người bỏ chạy sang các nước láng giềng phải
đối mặt với nhiều trở ngại, và cuộc sống của họ tiếp tục bị đe doạ. Theo một
báo cáo, vào năm 2000, Chính phủ đã ban hành các văn bản hướng dẫn các viên
chức địa phương ngăn chặn sự phát triển của đạo Tin Lành.
70/.
Theo thông tin nhận được, mặc dù một số người Tin Lành Hmong đã được phép đăng
ký với Chính phủ để tiến hành các sinh hoạt tôn giáo, họ vẫn tiếp tục bị sách
nhiễu và vu khống. Các cơ quan chức năng bị cáo buộc đã tìm cớ để bắt giữ họ,
đánh họ tàn nhẫn trong trại giam và buộc họ phải từ bỏ đạo. Thậm chí đã có một trường
hợp được báo cáo là chết trong trại giam của Công an. Trong một số làng, quy
tắc đã được đề ra để trừng phạt những người cải đạo qua việc họ bị trục xuất
khỏi làng nơi đang cư ngụ. Họ cũng không được phép sở hữu kinh thánh in bằng
ngôn ngữ Hmong hay xử dụng ngôn ngữ địa phương để cử hành các sinh hoạt tôn
giáo.
71/.
Những người Hmong thuộc đức tin Dương Văn Minh cũng đã bị bắt giữ tùy tiện và
bỏ tù, đánh đập, tra tấn, giám sát liên tục, và ép từ bỏ đức tin của họ. Những
ai không chịu từ bỏ đức tin thì phải đối mặt với sự mất việc làm và mất cả những
phúc lợi xã hội dành cho dân tộc thiểu số. Theo báo cáo, 24 nhà chứa đồ vật
tang lễ của họ đã bị phá hủy vì bị cho là "không chân chính", có
nghĩa là không có giấy phép. Sự phá hủy này bao gồm cả sự tàn phá gần đây nhất
vào tháng 10 năm 2014, sau chuyến thăm của Báo cáo viên đặc biệt. Chính phủ cũng
đã bị cáo buộc là thực hiện tuyên truyền chống lại cộng đồng này qua các phương
tiện truyền thông và công báo nội bộ của Chính phủ.
72/.
Các cộng đồng người Chăm đang đối mặt với nguy cơ mất đất đai, đặc biệt là các
nghĩa trang thiêng liêng chôn cất tổ tiên của họ đã được truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Các dự án phát triển mới, trong đó có công trình xây dựng
đường xá, đã không tham khảo ý kiến của các cộng đồng người Chăm hoặc tôn trọng
nhu cầu này của cộng đồng trong việc di dời các ngôi mộ phải được cử hành với
các nghi lễ truyền thống thích hợp.
Theo
báo cáo, do việc phản kháng của cộng đồng trong việc di dời nghĩa trang, tất cả
các nhà thờ Hồi giáo bị đóng cửa trong tháng Ramadan và chỉ được mở cửa trở lại
nếu họ đồng ý với kế hoạch di dời nghĩa trang. Việc một số đền tháp của người
Chăm bị biến thành các địa điểm du lịch bị cộng đồng người Chăm xem là hoàn
toàn không thích hợp vì những nơi thờ cúng linh thiêng đó bị đóng cửa, không
sinh hoạt được. Họ cũng đã thất bại trong việc đăng ký cộng đồng của mình sau
nhiều lần xin.
73/.
Báo cáo viên đặc biệt nghe nhiều vụ bắt giữ tùy tiện, hoặc quản thúc tại gia,
và tạm giam nhiều lần, gồm có những án tù dài hạn và quá nặng nề đối với những
cá nhân thuộc nhiều tôn giáo hay tín ngưỡng khác nhau chỉ vì họ vận động cho tự
do tôn giáo hoặc tham gia vào các hoạt động tôn giáo của họ. Thường họ bị buộc
tội theo Điều 258 của Bộ luật hình sự với lý do là "xúc phạm nền dân
chủ", "tham gia một phong trào ly khai" hay "xuyên tạc tình
hình và chỉ trích Chính phủ", chỉ vì họ thực thi quyền tự do tôn giáo hay
tín ngưỡng, tự do phát biểu và diễn đạt quan điểm, và tự do hội họp và lập hội
một cách ôn hòa. Báo cáo viên đặc biệt đã gặp Linh
A/HRC/28/66/Add.2
TRANG 15
Mục Nguyễn Văn
Lý tại nhà tù Nam Hà, một người điển hình là một tù nhân lương tâm hay tù nhân
chính trị (15). Ông cảm thấy thất vọng là có rất nhiều người tù lương tâm như Cha
Lý đang hiện hữu ở Việt Nam.
74/.
Những cá nhân khác, như các thành viên của Giáo Hội Tin Lành Mennonite cũng đã
phải thường xuyên chịu đựng các cuộc bố ráp, tấn công thô bạo của công an; bị mời
lên "làm việc" với công an rất nhiều lần; bị tra tấn trong các nơi
giam giữ; chính quyền gây áp lực với các thành viên trong gia đình của những
người này, đặc biệt là đối với những người tị nạn tôn giáo đang bị đàn áp; các
hành vi phá hoại và phá hủy: các nơi thờ phượng, nghĩa trang và nhà kho chứa đồ
tang lễ và nhà cửa; tịch thu tài sản; và áp lực một cách có hệ thống để người
dân không còn muốn tham gia vào các hoạt động tôn giáo, hoặc phải bỏ tôn giáo
hay tín ngưỡng của họ.
Kết
quả của các áp lực và đàn áp này là một số người đã rời bỏ hay trốn khỏi quê
hương của họ vì lý do tôn giáo. Báo cáo viên đặc biệt muốn nhấn mạnh rằng việc
đăng ký chính thức với Chính phủ cũng không có gì đảm bảo rằng tự do tôn giáo
hoặc tín ngưỡng sẽ được chính phủ tôn trọng.
75/.
Mục đích của chuyến thăm viếng một quốc gia nào đó của Báo cáo viên đặc biệt
không phải là để lượng giá đầy đủ về các trường hợp cá biệt, vì như thế sẽ đòi
hỏi nhiều thông tin hơn mới có được một cái nhìn đúng đắn về các dữ kiện liên
quan đến tất cả các phe phái liên hệ. Mục đích của cuộc viếng thăm này chỉ là
để đánh giá độ khả tín của những cáo buộc khác nhau liên quan đến vấn đề nhân
quyền, và nhận diện được những tương phản hay thách thức lớn. Không mang một
thiên kiến nào về sự chính xác của các sự kiện xảy ra trong tất cả các trường
hợp mà ông đã lưu tâm đến, Báo cáo viên đặc biệt đã đi tới kết luận là những vi
phạm nghiêm trọng về quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng là một thực thể ở Việt
Nam, nhất là ở vùng nông thôn, nhưng không có nghĩa là chỉ xảy ra tại nông thôn
mà thôi.
76/.
Sự đánh giá tổng quát này không chỉ căn cứ vào các cuộc phỏng vấn và các tài
liệu được cung cấp bởi người bảo vệ nhân quyền và các thành viên của các cộng
đồng tôn giáo khác nhau, mà còn được quan sát tại chỗ bởi Báo cáo viên đặc biệt
trong chuyến thăm viếng quốc gia này, sự đánh giá này được tóm lược như sau:
•/ Thường nhận thấy thái độ xem thường và
tiêu cực đối với các quyền của người thiểu số và cá nhân thực hành các tôn giáo
hay tín ngưỡng không đăng ký.
•/ Những lý do thường được nêu ra nhưng không
được xác định rõ ràng như "lợi ích của đa số" hay lợi ích của
"đoàn kết và hòa hợp dân tộc" hay "phá rối trật tự công
cộng".
•/ Những quy định quá rộng nhằm hạn chế quyền
con người nói chung, dẫn đến sự hạn chế quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo về mọi
mặt.
•/ Các điều khoản mơ hồ trong Bộ luật hình sự
Việt Nam, đặc biệt là điều 258 liên quan đến việc "lạm dụng" các
quyền tự do dân chủ.
•/ Sự khiếm khuyết những điều khoản hữu hiệu
cho phép nạn nhân được tiếp cận với những biện pháp kêu cầu trong ngành tư pháp.
77/.
Những điều kiện trên tạo ra tình trạng dễ tổn thương mang tính cơ cấu cho một
số cá nhân và cộng đồng phù hợp với các báo cáo vi phạm được mô tả ở trên.
78/.
Báo cáo viên đặc biệt muốn nhấn mạnh trong bối cảnh này là, trong nhiều cuộc
thảo luận với các thành viên của các cộng đồng tôn giáo, mà một số trong đó có
đăng ký chính thức với chính quyền và hợp tác với Mặt trận Tổ quốc, những người
này đã cho thấy có một nhận thức tổng quát về sự hạn chế quyền tự do tôn giáo
hay tín ngưỡng hiện nay và những thử thách do điều đó gây ra. Thật đáng ngạc
nhiên là những vị đứng đầu của ngành tư pháp dường như chưa bao giờ xét xử bất
kỳ một vụ án nào được đưa ra tòa liên quan đến sự xâm phạm quyền tự do tôn giáo
hay tín ngưỡng.
79/.
Một khía cạnh quan trọng đã được nêu lên trong nhiều cuộc thảo luận liên quan
đến sự phân cách giữa thành thị và nông thôn. Các điều kiện/nghi thức của các
cộng đồng tôn giáo có thể thay đổi khá nhiều tại các vùng khác nhau của đất
nước. Hơn nữa, dường như chính sách ở cấp trung ương không được truyền đạt một
cách hữu hiệu đến các cơ quan tại địa phương, do đó có một sự cách biệt giữa sự
hiểu biết và sự thực hiện các chính sách này.
(15)/
Xin xem sự tố giác của Báo Cáo viên Đặc Biệt liên quan đến vụ (E/CN. 4/1991/56,
đoạn 86; E/CN.4/1993/62, đoạn 68; A/56/253, đoạn 77; A/HRC/7/10/Add.1, các đoạn
301-303; và A/HRC/16/53/Add.1, các đoạn 422-427)
A/HRC/28/66/Add.2
TRANG 16
Tuy
nhiên, chúng ta không thể gán các khuyết điểm đó là do sự thiếu sót của chính
quyền địa phương. Chính quyền trung ương cần phải xem xét các chính sách và sự chỉ
dẫn này để đảm bảo việc thực hiện các chính sách này tương thích với các tiêu
chuẩn nhân quyền quốc tế. Chúng ta cũng không thể đổ lỗi cho các khiếm khuyết
này là do sự thiếu giáo dục của người dân làng hoặc những người ở vùng nông
thôn, vì rằng những thách thức hay khó khăn được mô tả ở đây có tính chất hệ thống,
bằng chứng là các sự kiện này đã được quy định trong các điều luật của quốc
gia.
VII/. Kết luận và khuyến
nghị
80/.
Các điều khoản cần thiết được ấn định cho các chuyến viếng thăm các nước của
Báo cáo viên đặc biệt bao gồm: "được tiếp xúc với các nhân chứng và các cá
nhân khác một cách kín đáo và không có sự giám sát " và "Chính phủ bảo
đảm rằng những viên chức chính phủ hay tư nhân đã tiếp xúc với Báo cáo viên đặc
biệt [...] liên quan đến các công tác mà ông ta thực thi sẽ không bị đe dọa,
quấy rối hoặc trừng phạt hay truy tố ra toà ". Những vụ việc có tính cách
đe dọa nghiêm trọng và các trường hợp vi phạm trắng trợn các nguyên tắc bảo mật
đã khiến cho chuyến viếng thăm nước Việt
Nam không được hoàn tất.
81/.
Sự gián đoạn cuộc thăm viếng này thật là đáng tiếc khi Báo cáo viên đặc biệt đã
nhìn thấy một số tiến bộ tích cực, đặc biệt là ở cấp chính quyền trung ương.
Nhiều đại diện của các cộng đồng tôn giáo đều đồng ý rằng, mặc dù có những vấn
đề nghiêm trọng đang diễn ra, phạm vi hoạt động của các tôn giáo đã được chính
quyền nới rộng ra trong những năm gần đây. Một số cộng đồng tôn giáo đã bị cấm
hoạt động sau năm 1975, nay đã được phép hoạt động. Sinh hoạt của các tôn giáo
khác nhau đã trở thành hiện thực trên nhiều vùng của đất nước, và các cộng đồng
tôn giáo này cùng sinh hoạt với nhau một cách hoà hợp. Hơn
nữa, một số đại diện của các cơ quan Chính phủ đã bày tỏ thái độ muốn cứu xét
và sửa đổi nội dung của Pháp lệnh hiện hành về tín ngưỡng và tôn giáo, và đang
chuẩn bị soạn một dự thảo luật liên quan đến các vấn đề này.
82/.
Một cái nhìn giản lược để xét định về sự phát triển của tự do tôn giáo hoặc tín
ngưỡng ở Việt Nam là tình trạng của các cộng đồng tôn giáo độc lập hoặc không
đăng ký. Như trình bày ở trên, việc hành xử quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng
không thể tuỳ thuộc vào các việc mà chính quyền chấp thuận trên phương diện
hành chánh, mà là một quyền tất yếu và phổ quát của con người đã có trước khi
đăng ký hoặc được chính phủ công nhận. Tuy nhiên, trong tình thế hiện nay, sự tồn
tại của các tôn giáo độc lập rất bấp bênh và bị hạn chế, đây là một sự vi phạm
trắng trợn điều 18 của Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, mà
Việt Nam đã là một quốc gia thành viên từ năm 1982.
Các
điều luật về hoạt động tôn giáo sắp được đưa ra bàn thảo, và có thể được ban
hành vào năm 2016, là một cơ hội để chỉnh đốn lại tình trạng này.
83/.
Trong bối cảnh này, Báo cáo viên đặc biệt xin đưa ra các khuyến cáo sau đây:
(a)/ Chính phủ nên
giảm bớt sự kiểm soát cũng như hạn chế các hoạt động tôn giáo để đưa đến các
sinh hoạt đa dạng và tự do của các tôn giáo tại Việt Nam. Trong bối cảnh này,
tình trạng hoạt động của các cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng độc lập được xem
như là một thẩm định về sự dung dị xã hội nói chung;
(b)/ Điều 38 của Pháp lệnh 21 về tín ngưỡng và
tôn giáo nói về các hiệp ước quốc tế quan trọng có tính cách phủ quyết những
luật lệ quốc nội không thích ứng, cần được thực hiện tối đa. Điều này đòi hỏi
những cải cách sâu rộng từ việc làm luật cho đến việc thực thi các điều luật
này;
(c)/ Các quy định pháp lý liên quan đến tự do
tôn giáo hay tín ngưỡng cần được tu chỉnh cho phù hợp với Điều 18 của Công ước
Quốc tế. Điều này bao gồm việc bảo vệ tối đa phạm vi nội tâm về tự do tôn giáo
hay tín ngưỡng, cũng như việc thiết lập đúng đắn các biện pháp chế tài liên
quan đến sự diễn đạt tư tưởng về tôn giáo ở phạm vi hướng ngoại;
(d)/ Các quy định pháp lý mơ hồ không rõ ràng
dùng để hạn chế quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng và nhân quyền, chẳng hạn
như sự diễn giải điều 258 của Bộ luật hình sự liên quan đến việc "lạm
dụng" tự do, cần được xoá bỏ và thay thế bằng định nghĩa chính xác để phù
hợp với các tiêu chuẩn quốc tế;
..................
A/HRC/28/66/Add.2
TRANG 17
(e)/
Chính phủ cần làm sáng tỏ việc đăng ký chính thức của các cộng đồng tôn giáo
hay tín ngưỡng với chính quyền, rằng đó chỉ là một đề nghị chứ không phải là
một đòi hỏi pháp lý. Các dự luật mới về các sinh hoạt tôn giáo cần đơn giản hóa
các đòi hỏi việc đăng ký của các cộng đồng tôn giáo;
(f)/
Các Ủy ban Tôn giáo Chính phủ cần khuyến cáo và tư vấn cho Chính phủ trong các
dự thảo luật cho phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế về sự bảo vệ và phát triển
quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng. Huấn luyện và hướng dẫn cho chính quyền
địa phương về các luật lệ và những vấn đề liên quan đến tự do tôn giáo và tín
ngưỡng;
(g)/ Các cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng, vì lý do nào đó,
không có hoặc không muốn đăng ký chiếu theo Pháp lệnh 21 hiện hành (hoặc các
luật trong tương lai nhằm thay thế Pháp lệnh này), phải được quyền chọn lựa một
hình thức pháp nhân khác, để có thể thực hiện được các chức năng quan trọng cho
tôn giáo họ.
Điều này đòi hỏi những cải cách tương ứng của các luật lệ ấn định về sinh hoạt
của các hội đoàn, mà hiện nay đang được bàn thảo;
(h)/
Các hạn chế áp đặt lên các cộng đồng tôn giáo theo Pháp lệnh 21 cùng với Nghị
định 92 cần được giảm thiểu để phù hợp với tinh thần của Điều 18 của Công ước
Quốc tế.
(i)/
Cần đặt ưu tiên trong cải cách pháp luật hiện hành nhằm tạo điều kiện giúp cho
các nạn nhân cổ suý hay tranh đấu cho quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng, hay
quyền này của chính họ bị xâm phạm, được khiếu kiện chính quyền và được bồi
thường trong một hệ thống tư pháp độc lập;
(j)/
Các giới chức nhà nước và các nhà lãnh đạo tôn giáo nên kiềm chế không được
công khai chống phá các nhóm tôn giáo độc lập, kể cả việc chống phá qua các
phương tiện truyền thông;
(k)/
Nhà nước cần điều tra các cáo buộc về vi phạm tự do tôn giáo hay tín ngưỡng và
các nhân quyền khác;
(l)/
Đất đai có liên quan đến các cộng đồng tôn giáo, như nghĩa trang, nơi thờ phượng,
cần được chính quyền xét xử một cách công bằng và tế nhị. Cộng đồng và đại diện
của họ phải được quyền khiếu nại về những quyết định được xem là xâm phạm tự do
tôn giáo, tín ngưỡng hay các nhân quyền khác;
(m)/
Chính phủ cần có một thái độ cởi mở về sự thành lập các cơ sở huấn luyện các
giáo sỹ. Việc lựa chọn các ứng viên và sắp đặt chương trình huấn luyện phải
được hoàn toàn giao phó cho các cộng đồng tôn giáo;
(n)/
Chính phủ cần cởi mở hơn đối với sự hoạt động của các trường dạy về tôn giáo
cao hơn trình độ mẫu giáo;
(o)/
Chính phủ nên cho phép việc giảng dạy tại các trường học phổ thông những tài
liệu công bằng và chính xác về các tôn giáo và tín ngưỡng. Các tài liệu này cần
phản ánh đúng theo quan niệm và sự hiểu biết của các cộng đồng tôn giáo liên
quan;
(p)/
Tù nhân cần được hưởng quyền tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng, cũng như được
quyền sở hữu và xử dụng tài liệu tôn giáo hoặc các đồ vật khác dùng trong việc
thờ phụng. Nên cho phép họ được liên lạc với một vị giáo sỹ thuộc một tôn giáo
nào họ muốn;
(q)/
Các Ban Tôn giáo Chính phủ nên đóng một vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn
và huấn luyện các viên chức thuộc chính quyền địa phương và các nhân viên công
an về sự diễn dịch các quy định liên quan đến và phù hợp với các nhân quyền phổ
quát;
(r)/
Chính phủ nên loại bỏ các đơn vị công an đặc biệt, chẳng hạn như Đơn Vị 41 / PA
38, mà dường như để thi hành các phần vụ có tính cách gây tranh cãi, trái với
mục đích bảo vệ quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng;
(s)/
Báo cáo viên đặc biệt muốn nhấn mạnh lời yêu cầu của ông ta, mà Chính phủ xác
nhận sự cam kết của họ, là những người mà ông đã gặp hoặc dự định sẽ gặp sẽ không
bị trả thù dưới bất cứ hình thức nào;
(t)/
Báo cáo viên đặc biệt, mong muốn được tiếp tục hợp tác với Chính phủ, sẵn sàng
dùng khả năng chuyên môn của mình trong việc duyệt xét lại các dự thảo luật
đang được soạn thảo chiếu theo các tiêu chuẩn quốc tế. Ông cũng muốn thực hiện
một chuyến thăm viếng tiếp theo tại Việt Nam trong một tương lai gần trong việc
tiếp tục hợp tác với Chính phủ, và thẩm định các khuyến nghị của ông đã được
xem xét và thực hiện ra sao.
84/.
Báo cáo viên đặc biệt muốn đưa thêm một số khuyến nghị gửi tới cộng đồng quốc
tế:
(a)/ Các tổ chức nhân quyền quốc tế nên lưu ý
kỹ càng và báo cáo về tình hình tự do tôn giáo hay tín ngưỡng tại Việt Nam, đặc
biệt là tình trạng của các thành viên của các cộng đồng tôn giáo không được
chính phủ công nhận;
A/HRC/28/66/Add.2
TRANG 18
(b)/ Các tổ chức liên chính phủ tiếp xúc với
những người tị nạn từ Việt Nam nên thẩm định một cách kỹ lưỡng về các cáo buộc
vi phạm tự do tôn giáo hay tín ngưỡng trước sự áp chế và đàn áp nghiêm trọng
đang diễn ra, đặc biệt là đối với các cộng đồng tôn giáo độc lập;
(c)/ Hội đồng Nhân quyền nên có hành động về những
cáo buộc liên quan đến các sự đe dọa và trả thù những người đã hợp tác với
người thi hành nhiệm vụ giao phó trong các chuyến thăm viếng của họ;
(d)/ Phái đoàn quốc gia của Liên Hiệp Quốc nên
xem xét việc tổng hợp các quan sát và khuyến nghị trong báo cáo này trong bản
đánh giá chung về quốc gia / Khung Sườn Hỗ Trợ Phát Triển của Liên Hiệp Quốc,
và giám sát việc thực hiện các khuyến nghị, song song với những khuyến nghị đã
được chấp thuận thông qua các cơ quan hiệp ước và thủ tục duyệt xét định kỳ phổ
quát.
HẾT.