Trang

Thứ Ba, 29 tháng 9, 2015

679. CƯỜNG KHAI ĐẠI ĐỒNG. tt và hết.


PHẦN HAI.
         
BẢO SANH- NHƠN NGHĨA-  ĐẠI ĐỒNG
“ CÔNG THỨC  VÀ THỰC THI” .

Thực tế hiện nay  cho thấy: Cho dù là một nước  đã phát triễn về công nghiệp xây dựng được cuộc sống vật chất dư dã phồn vinh cho đến các quốc gia  còn đang trên đường học tập  công nghiệp hoá, hiện đại hoá để phát triễn thì tự thân xã hội đó vẫn còn có những điều thái quá hay bất cập  cần  chỉnh đốn hoặc  nâng cao…đó là điều hiển nhiên không một ai có thể phủ nhận được. (1)

Những bằng chứng thì rất  điển hình và đa dạng… chỉ cần theo dõi báo chí hay truyền thanh, truyền hình trong vòng 01 tuần lễ là thấy ngay. Chúng đa dạng và nhan nhãn nhưng không nằm trong trọng tâm của bài viết nên xin miễn nêu lên cho khỏi  dài dòng.
Trước những thực trạng đó  người theo Tôn giáo sẽ tự hỏi: Tôn giáo có giúp ích được gì cho xã hội để giải quyết những khó khăn ấy hay chăng?
Người có Tôn giáo đều biết rằng tôn giáo nào cũng dạy con người hiểu biết và thực thi:   BÁC ÁI VÀ CÔNG BẰNG.
Tôn giáo hiện sinh  nhằm cung ứng những phương án góp phần giải quyết những khiếm khuyết  của xã hội về Bác ái và Công bằng tuỳ vào nhu cầu xã hội.
Qui luật cung cầu thể hiện ngay thời điểm Tôn giáo hiện sinh và các thế hệ sau đó. Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ‘ĐĐTKPĐ’ bố trí  thể pháp ĐỆ TAM HOÀ ƯỚC  tại Tịnh  Tâm Điện Toà Thánh Tây Ninh  để nói lên sự kế thừa sứ mạng  hai thời kỳ phổ độ đã qua.  
Thể pháp nầy cũng  được “sao y bản chánh” tại các Thánh Thất.
Đó là nói về nguyên tắc chung… nhưng mổi Tôn Giáo lại có cách thức giải quyết  đặc trưng riêng tuỳ theo: Tổ chức,  giáo lý và pháp luật của chính Tôn Giáo đó đề ra.
Chủ yếu của bài nầy là tìm hiểu và chứng minh  hai phần sau đây:
-  ‘TGCĐ’  góp phần giải quyết những tồn tại  ấy bằng công thức nào? 
- Cấp nào chịu trách nhiệm chính yếu cho sự thành hay bại khi thực thi?
TGCĐ góp phần giải quyết bằng cách thực thi: Bảo Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng. “ BS-NN-ĐĐ”.
Cho nên không trình bày nguồn gốc Tôn Giáo, không trình bày triết lý chung của Tôn giáo mà đi ngay vào công thức cụ thể và cấp thực hiện chính yếu quyết định cho sự nên, hư  khi thực thi  “BS-NN-ĐĐ”..
BÀI VIẾT NHẰM GÓP Ý XÁC ĐỊNH CÔNG VIỆC NÊN LÀM SAU KHI ĐÃ CÓ THÁNH THẤT HAY ĐIỆN THỜ TẠM…






TIẾT  MỘT.
                             (Công thức cụ thể của “BS-NN-ĐĐ”).


Tôn Giáo Cao Đài ‘TGCĐ’  có Thánh Ngôn Hiệp Tuyển ‘TNHT’;  Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo ‘KTĐ&TĐ’ là  KINH THƯ CHIẾN LƯỢC  nên phải tìm quyết sách từ  trong đó.
Đạo Cao Đài nêu ra tiêu chí: BẢO SANH- NHƠN NGHĨA- ĐẠI ĐỒNG.
Vậy nội dung chính yếu của tiêu chí được thể hiện ở đâu?
TNHT  bản in 1963 Q.2 T.6:  
…thời giả dối đã qua thời kỳ chơn thật đã đến, Thầy không muốn cho con hao tài tốn của mà gìn giữ sự giả dối.
Chẳng cần chi con lo lập Thánh Thất của Thầy và sùng tu tượng Phật chi hết. Con hiểu bổn nguyên “ BẢO SANH” là bổn nguyên “Thánh chất Thầy”.
Thầy khuyên con để dạ lo cho nhơn-sanh mà thôi; phần hồn về Thầy.
Con có biết sự chơn-thật nơi nào mà phải khổ thân lo-lắng… Thầy dặn con nhứt nhứt phải do mạng lịnh Thầy mà thôi. Con phải lập cho thành một nền tư-bổn, chung lo cùng môn-đệ Thầy, ngày-ngày hằng góp-nhóp, tùy sức mỗi đứa lo lập:
- Một sở trường học,
- Một sở dưỡng-lão, ấu,
- Và một nơi Tịnh-Thất.
Còn chùa-chiền, thì ngày sau e cho con không đủ sức cai-quản cho hết, ấy vậy đừng lo-lắng đến nữa. Nghe và tuân theo, con phải đi công-quả với Tr... mà độ-rỗi nhơn-sanh.
Con có thể giúp phương-tiện cho mấy đứa nhỏ đi truyền Đạo, thì chung lo với nhau mà định-liệu.
Con khá nghe theo lời Thầy.
[Đây  là bài duy nhất Thầy xưng: NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ trong TNHT  Q1+Q2]
Nội dung đoạn trên nói rõ: “ BẢO SANH” là bổn nguyên “ Thánh chất Thầy”.
Thầy dặn dò môn đệ rất thiết yếu là: ngày-ngày hằng góp-nhóp, tùy sức mỗi đứa lo lập:
- Một sở trường học,
- Một sở dưỡng-lão, ấu,
- Và một nơi Tịnh-Thất.
Thiễn nghĩ  về xã hội học thì Thánh chất  BẢO SANH của Thầy thể hiện qua 03 đề mục  cụ thể nêu trên.
“BS-NN-ĐĐ” như một cơ thể sống bất khả phân ly…  ấy là một trong ba và ba trong một. Cơ thể sống thì thống nhất và hoàn chỉnh không có gì là thừa cũng không có gì là thiếu nó đương nhiên như nhiên… Nhưng trong một cơ thể sống thống nhất và hoàn chỉnh  vẫn có những bộ phận với các chức năng đặc trưng riêng rất tinh tế.
Trong những bộ phận khác nhau  ấy, những tế bào khác nhau ấy cho dù có khác nhau  nhưng cùng nhận chung một nguồn máu…
Khi khoa học kỷ thuật chưa phát triễn,  y học chỉ biết máu trong cơ thể con người mà chưa phân ra được các nhóm máu thì  y học nghĩ rằng máu nào cũng là máu, cũng như nhau… cho nên việc tiếp máu cho bệnh nhân có nhiều khi gây ra sự tử vong mà các nhà y học không biết vì sao …
Đến khi khoa học phân ra được các nhóm  máu A; B; AB; 0  và xây dựng được nguyên tắc cơ bản trong qui trình truyền máu thì việc tiếp máu trở nên an toàn hơn… theo  y học  thì  sự tử vong do khác nhóm máu hầu như không còn nữa…
Vậy thì cùng chung trong đường hướng “BS-NN-ĐĐ” nhưng Trường học,  Sở dưỡng-lão, ấu,  Tịnh-Thất  có  đặc trưng nào chăng? Nghĩa là trong chỗ tinh vi thì ba phần trên đâu là đặc trưng của Bảo Sanh? Đâu là đặc trưng của Nhơn Nghĩa, đâu là đặc trưng của Đại Đồng. (2).
Thiễn nghĩ trong đó vẫn có những nét đặc trưng mà khi đi sâu vào nội dung người học đạo có thể hiểu rằng:
I-  Trường học:
Xã hội đi từ riêng lẽ, đơn giản đến cộng đồng rộng lớn và phức tạp… tất cả những điều trên diễn tiến là do nhận thức của con người. Mà nhận thức của con người  là do nơi giáo huấn mà ra. Nghĩa là: phải có hiểu biết mới giúp nhân loại từ chổ ăn lông, ở lổ đến xây dựng được các nền văn minh nông nghiệp, công nghiệp, điện tử, vi điện tử… Có hiểu biết mới đưa xã hội từ  chổ chỉ biết có sức mạnh cơ bắp là trên hết đi đến chế độ quân chủ, rồi dân chủ rồi tư bản, cộng sản, liên bang, cộng  hoà…
Cho nên trong đặc trưng thì Trường học thể hiện cho Bảo Sanh.
Rất nhiều người có Đạo Cao Đài biết rằng một số Thánh Thất và Điện Thờ Phật Mẫu của ĐĐTKPĐ trước đây có mở trường học kèm theo…. Nhưng ngày nay hầu như  không còn thấy nữa… (Chỉ thấy có một số nơi lập cơ sở Đông y “hốt thuốc Nam” giúp cho nhơn sanh…).  
 Ngày nay tìm hiểu nhiều Thánh Thất hay Điện Thờ ta thấy một thực tế: Thiếu hẳn lực lượng đồng nhi… các vị đều có nhận định chung: Do nơi công nghiệp hoá nên thiếu nhi thì bận đi học, thanh niên thì vào các nhà máy, công ty…  nên không có đồng nhi. Công việc đồng nhi hiện nay giao cho thế hệ U 50 trở lên…
Mới nghe qua thì có vẽ hữu lý nhưng nhìn sâu vào người  biết phân tích sẽ tự hỏi:  Đạo Cao Đài  tuyên bố trước nhân loại  là xây dựng một Tân Thế Giới  mà  xã hội Việt Nam mới vừa đặc mình vào đường ray của công nghiệp hoá thì đã không tìm được bài bản phù hợp cho nên tầng lớp kế thừa vắng bóng…Thế thì Đạo Cao Đài  không phù hợp với một xã hội công nghiệp hay sao?
Cái triết lý sâu xa và Đại Đồng của TGCĐ  chỉ mới vừa chạm vào công nghiệp hoá đã bị khó khăn…
Vậy nghiệm số của phương trình Phổ Độ là gì?
Nghiệm số của phương trình là:
-  Đối với những nơi dân trí còn kém: Phải mở những lớp học theo cách thức của Hội Thánh đã thực hiện trước đây.
-  Đối với những thành phố lớn dân trí đã khá hơn thì nên chú ý đến việc mở thêm nhà dưỡng lão, ấu.
Mở lớp học để dạy cho các em bé mồ côi, cơ nhỡ, những em bé bán vé số hằng ngày tuỳ vào trình độ từ tiểu học và trung học chú ý đến ngoại ngữ… kèm theo một vài phương tiện hiện đại như: Vi tính… thì từng lớp thiếu nhi và thanh thiếu niên sẽ tìm đến  như thế nào và lực lượng đồng nhi  có được  từ đấy mà ra…
Đức Hộ Pháp từng dạy: Thật ra chúng ta chỉ làm cho nhân loại; nhứt là cho đám nhơn sanh đau khổ ngoài đời đương bị bạc đãi hân hủi kia!. Họ có thể nhìn vào đại nghiệp tôn vinh của Đạo làm nguồn an ủi cho họ. Họ nghèo mà đại nghiệp của họ giàu: Họ bị bạc đải mà đặng đại gia đình nầy của họ  thương yêu an ủi họ!....  (Thánh Huấn 531 Ngày 11-6-Quí Tỵ. ‘ D.L. 27-7-1953’).
Còn nhà  dưỡng lão ấu? Cứ nhìn vào những căn nhà rất bình thường có viết một tấm bảng nhỏ: NHẬN GIỮ TRẼ trong các khu dân cư ngày nay sẽ thấy nhu cầu của xã hội lớn biết chừng nào?.
Sáng sáng ta thấy những người lớn tuổi đến công viên… rổi nhẫn nha ở đó đến trưa… nhìn một số cụ già tìm đến thăm nhau nơi tư gia…  Hay những người đã lớn tuổi mà còn phải nài nĩ  những người trẽ tuổi đáng con, cháu các cụ để bán từng tờ vé số… Ta sẽ nhận ra được đường hướng của Chí Tôn dạy về Trường học, Nhà dưỡng lão, ấu… từ năm 1926 đến nay giá trị như thế nào…
Đó là nhận định sơ bộ về cách thức phát triễn ‘TGCĐ’ trong  xã hội Việt Nam hiện  nay.
II- Sở Dưỡng Lão Ấu:
Người già và em bé thì  bất cứ xã hội nào cũng phải lo. Người già thì cần được săn sóc vì đã trãi qua đoạn đường đầy khó khăn trong kiếp sống, đã cống hiến cho xã hội nên xã hội phải có trách nhiệm…
Trẽ em thì chưa có cống hiến gì nhưng đó là mầm non thế hệ, nếu không lo nuôi nấng, uốn nắn tầng lớp măng non  cho định hình định tướng thì khi măng đã thành tre làm sao uốn nắn… làm sao có con người biết yêu chuộng công lý biết hy sinh bản thể cho tập thể làm sao cho có tâm hồn đạo đức…
Cho nên Sở Dưỡng  Lão,  Ấu nhìn sâu vào thì đặc trưng cho Nhơn Nghĩa…
Ngày nay Đạo Cao Đài  đã có mặt ở nhiều quốc gia trên thế giới. Đồng đạo cho biết  ở các nước thuộc nhóm G8 như Mỹ,  Pháp, Đức,… thì việc truyền bá tôn giáo rất khó khăn,  phần lớn chỉ có  trong cộng đồng người Việt với nhau… chưa tiếp cận được với người ngoại quốc…
Do vậy mà các vị rất muốn xây nên Thánh Thất và  Điện Thờ đúng với mẫu mực thay cho Thánh Thất và Điện Thờ tạm để quãng bá hình ảnh Tôn Giáo…  trong hoàn cảnh mới định cư cuộc sống còn rất nhiều khó khăn thì  tâm tình và ý chí ấy rất đáng khâm phục nên được mọi người trân trọng... Ấy là nói về nhiệt tâm nhưng liệu rằng nghiệm số ấy đã đúng hay chưa?
Xin mạo muội thưa rằng: Đó chưa phải là quyết sách đúng cho bài toán tiếp cận với  người dân của chính quốc.
Điều nầy cũng như khi truyền máu thì phải xác định cho được máu của bịnh nhân và máu để truyền thì việc truyền máu mới hiệu nghiệm còn như không xác định được hai yếu tố đó thì  việc truyền máu sẽ đứng trước một trong hai cửa:
- May mắn là hai nhóm máu thích hợp nhau thì sẽ an toàn.
- Gặp hai nhóm máu không thích hợp sẽ gây ra nguy hiểm…
Đáp số đúng cho việc truyền bá TGCĐ ở các nước công nghiệp hoá: Khi đã tạo được Thánh Thất hay Điện Thờ tạm rồi thì nên lo lập SỞ DƯỠNG LÃO, ẤU theo lời  Thầy đã chỉ.
[[[Bài toán cho xã hội còn kém về trình độ dân trí là mở trường học để nâng cao dân trí “bảo sanh” nhưng trong một xã hội đã phát triển thì vấn đề “bảo sanh” đã tương đối… cho nên  phải lấy nghiệm  số nhơn  nghĩa ra dùng trước.
Đây là vấn đề nên làm công việc nào trước hay sau chứ không phải đề xướng chỉ nên làm theo một  nghiệm  số.
Người có học về phương trình bậc hai trở lên đều biết: Một phương trình có nhiều nghiệm số. Những nghiệm số nầy đều nghiệm đúng nhưng khi giải phương trình phải ghi rõ nghiệm nào trước hay sau mà thôi.
Trường học; Sở Dưỡng Lão, Ấu; Tịnh Thất là những nghiệm số mà Thầy đã cho để giải phương trình đa ẩn số của nhân loại…  vấn đề ở đây là dùng nghiệm nào trước hay nghiệm nào sau chứ không phải  chỉ dùng riêng lẽ hay là loại trừ một nghiệm nào… Thầy đã cung ứng các nghiệm số môn sinh phải hiểu tài nguyên và môi trường của địa phương để tìm xem nghiệm số nào phù hợp  đáp ứng đúng nhu cầu… công cuộc phổ độ phải tuân theo qui luật cung cầu… rất khoa học và bài bản… chớ không có một đáp số chung…
(Nhìn vào 02 cái đồng hồ ở Đông Lang và Tây Lang tại hậu điện Toà Thánh Tây Ninh sẽ thấy thể hiện: Phổ biến chân lý qua hệ tư tưởng  Đông Phương và Tây Phương có những sắc thái tinh tế khác nhau.) (3).
Vì vậy mà mở đầu cho KINH THẾ ĐẠO là bài Kinh Thuyết Pháp và câu đầu tiên là: Trường Phổ Tế khó khăn lắm nỗi….
Thầy biết là công cuộc phổ độ rất khó vì trình độ nhân loại không đồng đều nhau, môn đệ của Thầy sẽ phải đi khắp nơi để hành đạo  nên Thầy Thương mà dạy cho môn đệ  biết nghiệm số trước… môn sinh có nhiệm vụ chọn nghiệm  số mà dùng…
(Môn đệ Thầy từ một quốc gia còn kém phát triễn mà đến truyền bá tôn giáo tại những quốc gia đã phát triễn nếu Thầy không chỉ trước làm sao mà thành công? Nếu môn đệ Thầy không thành công thì cơ tận độ và độ tận của Thầy mới đi về đâu?).
Giáo lý TGCĐ chỉ ra 05 hạng khách trần với  những nét riêng ….
Công việc của Đức Hộ Pháp là  xây dựng nên Tôn Giáo.
Công việc của thế hệ sau là truyền bá Tôn Giáo.
Hai công việc có đặc trưng khác nhau dù rằng cả hai cùng có điểm chung:  thực thi  nhiệm vụ Đức Chí Tôn giao phó để  phụng sự nhơn loại.
Công việc xây dựng nên Tôn giáo, xây dựng nên Thể pháp Tôn Giáo tại Toà Thánh Tây Ninh là làm nên  cái mẫu mực. Bởi vì nếu không có Thể Pháp tại Toà Thánh thì sẽ không có hiện thực để biện chứng trước nhơn sanh nên phải tập trung nguồn nhân lực, vật lực cho công cuộc xây dựng thể pháp “Đền Thánh” ...“xây dựng Bảng Cửu Chương- xây dựng nguyên tắc cho các phép tính”.
Công việc của người  đi truyền bá tôn giáo hẳn nhiên phải  khác với  công việc của người xây dựng nên tôn giáo… Người hành đạo thế hệ sau có nhiệm vụ: hiểu và  truyền bá  chân lý ẩn chứa trong tôn giáo đến với nhân loại như thế nào chớ không phải là xây dựng nên tôn giáo nữa. “Ứng dụng Bảng Cửu Chương- và các nguyên tắc khi thực hiện các phép tính”.
Hai công việc  không thể y hệt nhau… Trong lòng người Tín Đồ Cao Đài nào cũng kính ngưỡng Đức Hộ Pháp, cũng thấy nhiều bài học mẫu mực nơi Ngài nhưng thiết tưởng xác định công thức của Ngài  không nhứt thiết phải  là  công thức cho các thế hệ sau áp dụng cho mọi trường hợp  cũng là điều cần nên thảo luận cho công cuộc  phổ độ được hiệu quả.
Nếu có người vì tôn sùng Đức Ngài mà tuyên bố: Tôi sẽ làm y như Đức Ngài hay sẽ đóng vai trò Đức Ngài thì  người có Đạo Cao Đài hẳn nhiên sẽ không chấp nhận… vậy thì nhận xét rằng công thức của Ngài khác với công thức thế hệ sau không phải là sự bất kính mà chính là sự học hỏi nghiêm túc, cần thiết…
Tôn sùng Đức Ngài là điều rất chánh đáng;  nhưng hiểu được ý chỉ và tư tưởng của Đức Ngài để khai triễn và thực thi mới thực sự là người biết tôn kính Ngài…
Cái bắt gió nắn hình của Đức Ngài khi xây dựng Đền Thánh không phải là cái bắt gió nắn hình mà thế hệ sau có thể coppy. (vì không có những đặc quyền,  không thể sáng suốt  như Ngài; và chắc gì cái tâm của mình đã vững như  Ngài… Hậu tấn có thể học lòng hy sinh, nhẫn nại, cách ứng xữ… của Ngài mà không thể  làm y như Ngài… đây là điều rất dễ nhầm lẫn…)
Kinh Cầu Bà Con Thân Bằng Cố Hữu Đã Qui Liễu:
… Nơi cung Ngọc học thông Đạo cả,
Chốn Hư Vô Tạo Hoá tìm cơ.
Trên đường Thánh đức lần dò,
Trường sanh mầu nhiệm nơi lò Hoá công..
Người đã học hỏi và thông hiểu được  đạo pháp thì phải tìm cho ra công thức của chính mình để phụng sự nhơn sanh trên bước đường hành đạo. Thực thi công thức phải hết sức thận trọng từ thấp đến cao từ dễ đến khó… thì mới tạo được công  nghiệp phù hợp với cái chung của Đạo… mới  bền vững …Phải cẩn thận không rơi vào cái nhìn của khúc sĩ mà phải có tầm nhìn của khách đại phương mới không có cảnh ‘ sáng xây chiều đập bỏ…’
Phải hiểu rằng: Thuận căn thuận mạng đôi đường cao thăng… ‘ Kinh Tắm Thánh’ ]]].
Xã hội công nghiệp hoá rất cần đến Sở Dưỡng  Lão,  Ấu nếu tôn giáo đi vào hướng mở Sở Dưỡng  Lão,  Ấu theo phong cách Cao Đài thì nó sẽ chứng minh cho nhân loại thấy sự  linh hoạt   của TGCĐ trong bất kỳ môi trường nào.
Công việc một số trí thức tìm cách để đưa Giáo lý TGCĐ vào giảng dạy ở một số trường Đại Học là thiết yếu… nhưng chưa phải là công việc mang tính cách quyết định.  Những bài học về Tôn Giáo còn để lại thì trí thức chỉ quan tâm đến Tôn Giáo khi thấy Tôn Giáo đã có sự lôi cuốn quần chúng, họ quan tâm vì đó rõ ràng là một lực lượng quần chúng… còn khi Tôn Giáo chỉ là lý thuyết suông mà chưa có từ trường để thu hút quần chúng thì họ chỉ nghe hay tìm hiểu để xã giao theo phép lịch sự là chính yếu… (4).
Mở Sở Dưỡng Lão,  Ấu  theo phong cách của Tôn Giáo Cao Đài sau khi đã có  Thánh Thất hay Điện Thờ tạm sẽ tạo được từ trường thu hút sự quan tâm của quần chúng… một khi họ đã quan tâm thì việc họ bước vào Tôn Giáo chỉ còn là thời gian. (5).
Sở dưỡng lão ấu là  nghiệm số thích hợp cho  bài toán:  TGCĐ tiếp cận xã hội đã công nghiệp hoá như thế nào?.  
III- Tịnh Thất:
Nhân loại với những màu  da sắc tóc khác nhau, những phong tục tập quán khác nhau….  nhưng quan sát kỷ lại thì trong vô vàn cái riêng ấy vẫn có cái  cùng  một định luật:
1- Thọ tinh cha, huyết mẹ.
2- Cùng một thời gian trong thai bào như  nhau.
3- Cùng hưởng âm dương chi khí để nên hình và tồn tại.
4- Cùng chung một ánh mặt trời, một hành tinh…
Vậy thì do đâu mà trong vô vàn cái khác nhau lại có những cái cùng chung ấy phải chăng là do Đấng tạo hoá.
Cho nên con người vào Tịnh Thất của nội tâm và Tịnh Thất của xã hội để thấy rằng tất cả đều là bạn đồng sanh…cái đặc trưng của Tịnh Thất là Đại Đồng vậy.
[[[Trong tầng  ý nghĩa sâu xa của Tịnh Thất thì con người trước khi đến thế gian ai cũng phải trãi qua: ấy là thời gian ở trong thai bào của người mẹ…"đó là thời gian ở trong Tịnh Thất trước khi nhập thế cục...."
Trong trường hợp nầy thì lo Tịnh Thất chính là giáo dục về hôn nhân  và thai giáo vậy…]]]
Trên bước đường thế thiên hành đạo thì có lúc sẽ phải đưa nghiệm số Tịnh Thất ra trước để đáp ứng mức độ cung cầu…
Tóm lại: Tôn giáo Cao Đài giải quyết được ba phương sách hiện thực bằng những công thức cụ thể  để xây dựng một xã hội mới thì chính là công cuộc tái tạo dinh hoàn để lập  nên một Tân Thế Giới….
Công thức cụ thể “BS-NN-ĐĐ”  Đấng Chí Tôn đã chỉ rõ: Trường học,  Sở dưỡng-lão, ấu,  Tịnh-Thất.
Tôn giáo không chối bỏ thế giới nầy mà tôn giáo xây dựng thế giới còn nhiều chiến đấu và tranh chấp “chiến tranh” nầy tiến sang thế giới hoà hợp và bình đẳng “Hoà Bình” để cùng chung sống, cùng tiến bộ tuỳ vào trình độ và điều kiện của từng quốc gia từng xã hội. “Đại Đồng- Đồng Tiến”.
Phổ Độ là một phương trình đa ẩn số,  người hành đạo phải căn cứ  vào tài nguyên và môi trường mà chọn ra nghiệm số: Trường học; Sở dưỡng lão,ấu; Tịnh thất phù hợp với qui  luật cung cầu.
                                        & & &




















TIẾT  HAI.
                  “  Hội Thánh Em  quyết định sự thành hay bại khi thực thi”.

Trong một cơ thể sống hẳn nhiên mổi cơ quan hay nội tạng đều phục vụ cho cái chung của cơ thể nhưng mỗi một cơ quan hay nội tạng đều có chức năng riêng nhau. Cùng phục vụ cho cái sống của cơ thể nhưng trong đó có những cơ quan hay nội tạng mà khi nó ngưng hoạt động thì  cái sống ấy đã ra khỏi cơ thể…
Cùng phục vụ cho đường hướng “BS-NN-ĐĐ” nhưng trong nguồn máy Tôn Giáo có Hội Thánh Anh và Hội Thánh Em. Vậy cấp nào sẽ quyết định cho sự thành hay bại khi thực thi “ BS-NN-ĐĐ”?
Muốn trả lời không thể lấy ý riêng ra mà đáp  mà phải  căn cứ vào BINH THƯ CHIẾN PHÁP ấy là Pháp Chánh Truyền, Tân Luật, Đạo Luật…  để luận.
I- PHÁP CHÁNH TRUYỀN.
PCT: QUYỀN HÀNH CHÁNH TRỊ SỰ.
Lời Đức Lý Giáo Tông nói: "Chánh Trị Sự là người thay mặt cho Lão, làm anh cả của chư Tín Đồ trong phần địa phận của nó, Lão muốn thế nào cho Lão có mặt khắp nơi, tận ven Trời cùng góc bể. Lão tưởng Hiền Hữu cũng muốn vậy chớ (3).
Trong nhơn sanh, hạng trí thức thì ít, hạng ngu muội thì nhiều, nếu chúng ta không có đủ sức điều đình, thì khó mà rải chơn lý Đạo khắp nơi cho đặng. Càng thân cận với nhơn sanh lại càng chịu nhiều sự khó khăn rắc rối; chúng ta phải liệu phương nào mà trừ diệt những sự khó khăn ấy, khi mới nảy sanh ra. thì nền Đạo mới khỏi loạn lạc. Vậy Lão xin Hiền Hữu ban quyền cho Chánh Trị Sự đặng phép xử trị, hầu có thể dạy dỗ sửa răn, thay quyền cho chúng ta trong chốn thôn quê sằn dã".
…Chánh Trị Sự phải chăm nom, giúp đỡ sự sanh hoạt của Môn Đệ Thầy đã chịu dưới quyền người điều khiển, giúp khó, trợ nghèo, coi cả Tín Đồ như em ruột, có quyền xử đoán, nhứt là việc bất bình nhỏ mọn xảy ra trong phần Địa phận của mình,…
Buộc Phó Trị Sự phải thay phiên nhau đặng nạp cho Chánh Trị Sự, mỗi tháng ba mươi người công quả, tức là mỗi ngày, phải có một người hầu việc cho Chánh Trị Sự. Chánh Trị sự mới sai người đó đi khắp địa phận mà thăm viếng Tín Đồ về sự bịnh hoạn, đói khó. Hễ có một người trong địa phận bị tai nạn, thì biểu người công quả ấy ở tại đó mà giúp đỡ, săn sóc, hoặc bịnh hoạn phải lo nuôi dưỡng, hoặc nghèo nàn phải chung hiệp nhau mà gở khổ, ấy là phận sự rất cao thượng của Chánh Trị Sự, cái vẻ riêng tốt đẹp của Đạo do tại nơi đó.
Đức Lý Giáo Tông lại dạy rằng: "Vậy mới phải là anh em một nhà, cần lo giúp đỡ, chia vui sớt thảm, no đói có nhau, giữ quyền lợi cho nhau, không giành, không giựt, hễ đói thì mình chung nuôi, bị thất lợi thì mình phải giữ; hễ nhục thì mình chung chịu, ắt quyền hành mình phải trọng."
Phần chú giải PCT xác định phẩm Chánh Trị Sự có sự tổng hợp cả 02 quyền: Chánh Trị và Luật Lệ.
Đây  là phẩm duy nhất được ưu ái ban cho câu:
cái vẻ riêng tốt đẹp của Đạo do tại nơi đó.
Chánh Trị Sự là người làm đầu Hội Thánh Em.
Phần trích dẫn trên và thực tế đạo sự thiển nghĩ đã đủ để chứng minh rằng:
BS-NN-ĐĐ” thực hiện thành công đến đâu hay thất bại như thế nào chính là do Hội Thánh Em quyết định vậy.
Tìm hiểu thêm PCT ta nhận thấy bộ máy Hội Thánh Anh từ phẩm Giáo Hữu trở lên đã có ấn định số  lượng cụ thể không được vượt qua số lượng nầy trong bất cứ trường hợp nào.
Trong khi  trên thực tế thì dân số không đứng yên, nhơn sanh thì càng ngày càng phát triễn về số lượng. Vậy Hội Thánh Anh khó mà  quán xuyến hết được…
Còn Hội Thánh Em thì được quyền nẫy nở không bị  giới hạn.
(Tức nhiên mổi một Hương vẫn chỉ có một Chánh Trị Sự mổi ấp có một Phó Trị Sự và Thông Sự; nhưng số Hương Đạo là không bị giới hạn nên số lượng Chánh, Phó,  Thông cũng sẽ không bị giới hạn…).
Vậy Hội Thánh Anh là bộ não vạch ra công thức, vạch ra phương hướng và kiểm soát xem công thức hay Chánh Trị Đạo  được thực thi ra sao. Nhưng chính Hội Thánh Em là người thực thi cho nên sự thành bại nên hư hẳn nhiên là do người thực thi.
HỘI THÁNH ANH LÀ QUAN TRỌNG NHƯNG THÀNH HAY BẠI LÀ DO HỘI THÁNH EM VẬY.
Đức Hộ Pháp: Đạo chẳng phải nơi lời nói, mà lại nơi kết quả sự mình làm; chẳng phải nói câu kệ câu kinh mà tại cuộc hành vi người giữ đạo. Cái khó khăn của đạo chẳng ở nơi sự giảng dạy mà ở tại sự thật hành. Cái hay của đạo chẳng phải ở tại nơi yếu lý mà ở nơi cuộc kết quả sự giáo truyền.
Lạ chi, mình muốn nhủ người bắt rồng, cột phụng, nghĩ có khó chi tiếng biểu, song cốt yếu là biết người có phương bắt hay là cột đặng cùng chăng? (Phương Tu Đại Đạo. Q.1T.1.- ).           
II-   TÂN LUẬT.                                          
 ĐẠO PHÁP.
Chương VI:  Về Giáo Huấn.    
Điều Thứ Hai Mươi Ba:  Trong Đạo sẽ lập trường để dạy chữ và dạy Đạo.
Điều Thứ Hai Mươi Bốn:  Cách dạy và các việc sắp đặt trong trường sẽ có lập thể lệ riêng.
Điều Thứ Hai Mươi Lăm: Sau những người có giấy Tốt Nghiệp của nhà trường cho mới được dự cử vào hàng Chức Sắc trong Đạo.
THẾ LUẬT.
Điều Thứ Mười Ba: Buộc cha mẹ con nít từ 6 tuổi, chí 12 tuổi phải cho con vào trường học chữ hay là học đạo.   
III-     ĐẠO LUẬT: MẬU DẦN 1938.  
CHƯƠNG THỨ I: HÀNH CHÁNH.
ĐIỀU THỨ BẢY: Phương Diện Giáo Dục, Cất Hạnh Đường và Học Đường Các Thánh Thất.
LUẬT.
Phải lập Hạnh Đường nơi Tòa  Thánh và Văn Phòng Đầu Tỉnh Đạo đặng giáo hóa Chức Sắc Thiên Phong và Chức Việc, cùng lập Học Đường đặng dạy dỗ trẻ em cho rõ thông chữ nghĩa và kinh kệ. Các Thánh Thất đều phải có Học Đường. Mỗi năm mở khoa mục khảo dượt một lần đặng ban cấp bằng hay là giấy chứng nhận cho những vị thi đỗ.  
PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH.
I.- HẠNH ĐƯỜNG.
Bắt đầu năm Mậu Dần, xin Hội Thánh tái lập Hạnh Đường Trường Hạnh Đường sẽ mở ra 2 lớp:
Một lớp có 1 vị Giáo Sư dạy chư vị Giáo Hữu và Lễ Sanh.
Một lớp có 1 vị Giáo Hữu dạy chư vị Chức Việc, dưới quyền của Hiệp Thiên Đài kiểm soát vì về giáo huấn là thuộc quyền của Hiệp Thiên Đài.
Mỗi kỳ nhập học là 30 vị trong mỗi lớp. Học trong hạn lệ là 1 tháng, khi thi đậu ra trường thì phải có giấy chứng nhận của nhà trường ban cho, rồi mới đặng thuyên bổ ra đi hành chánh.
Vị nào mãn kỳ học mà chẳng đặng giấy cấp bằng tốt nghiệp của nhà trường, thì kỳ sau phải bị đòi về học nữa.
Mãn kỳ học nầy thì kế mời kỳ khác về học. Những vị nào muốn nhập học thì phải gởi đơn xin trước rồi chừng đặng thơ mời mới đặng về nhập học.
Thảng như vị nào đặng thơ mời mà không về, hoặc bê trể, hay là khi nhập học rồi mà bỏ lớp vô bằng cớ, thì phải bị Hội Thánh định tội.
II.- HỌC ĐƯỜNG.
Nhà trường Đạo Đức phải chỉnh đốn lại cho hoàn toàn, mở thêm cho rộng lớn.
Phải mở thêm một Nữ Học Đường cho Nữ Phái.
Tu bổ nhà trường cho có đủ lớp học, nhà ngủ giáo viên, nhà ngủ học sinh, nhà ăn, bàn ghế và các vật dụng trong trường (fournitures classiques).
Mộ thêm giáo viên nam nữ và định phần châu cấp mỗi tháng.
Con nhà Đạo từ 6 tuổi đổ lên phải cho vào nhập học, bất luận là nhà trường nào; nếu để cho con dốt thì sẽ bị Hội Thánh định tội.
Một hạng được hưởng học bổng (boursiers) là con của Chức Sắc Thiên Phong đương quyền hành chánh, những trẻ em mồ cơi, hoặc con của Đạo hiến thân trọn vẹn.
Cha mẹ có của cải và có bề thế làm ăn đủ thì phải đóng tiền học phí (payant) mỗi tháng theo thể lệ nhà trường nhứt định.
Ty giáo huấn nên lập cuốn sổ lạc quyên (caisse de charité) dưới quyền của Thượng Chánh Phối Sư, để nhờ nơi lòng từ thiện của nhơn sanh trợ giúp cho các trẻ em mồ cơi ăn học.
Chư Đầu Tỉnh, Đầu Họ và Đầu Quận Đạo phải kiếm những Đạo Hữu thanh niên có cấp bằng tốt nghiệp đặng xin Chánh Phủ mở Học Đường trong toàn cả Thánh Thất.
***: Lưu ý mấy dòng cuối  Đạo Luật có ghi: … ngày sau còn thêm vào nữa, tùy theo trình độ của Chúng sanh.  Nghĩa là không cho bớt ra.
KẾT LUẬN.
Trên đây chỉ là những điều căn bản từ KINH THƯ CHIẾN LƯỢC và BINH THƯ CHIẾN PHÁP về  Bảo Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng để giới thiệu  một  đề tài cụ thể  hầu người có Đạo Cao Đài  cùng hợp sức nhau hình thành cho kỳ được công thức nhập thế cụ thể của Tôn Giáo Cao Đài…
Còn nhiều văn bản khác nữa thể hiện “BS-NN-ĐĐ” trong giáo lý Tôn Giáo Cao Đài nhất là Lời Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp… mà trong phạm vi bài viết không thể trích dẫn hết được…
Người đọc có thể đồng ý, chưa đồng ý hay không đồng ý rằng:
Trên bước đường phổ độ thì hẳn nhiên phải có Thánh Thất và Điện Thờ.
Nhưng  khi đã có Thánh Thất hay Điện Thờ tạm rồi thì nên tuỳ vào tài nguyên và môi trường  mà người hành đạo sẽ phải chọn nghiệm số: Trường Học, Sở Dưỡng Lão Ấu, Tịnh Thất  ra  để đáp ứng mức độ cung cầu…
Nhưng cái hữu ích là những người lưu tâm đến đề tài cũng sẽ ấm lòng khi biết   rằng có những người bạn đồng sanh  cùng học đạo;  đang có những suy nghĩ về những điều Thầy đã dạy;  Luật đã qui định và Hội Thánh đã từng thực hiện…
Xét cho cùng thì cũng không thể có một văn bút nào có thể phân tích hết … hay là hoàn hảo mà mổi  người chỉ có thể trình bày được một phần nhỏ bé là may mắn lắm rồi… ./.
Email:ckdd.2007@yahoo.com.vn.
&                 &                  &.


 Ghi chú:
(1): Trên phương diện xây dựng hoà bình thế giới thì Liên Hiệp Quốc ‘LHQ’ đang là cơ quan mà nhiều người kỳ vọng nhất  cũng đã gặp những điều nan giải về tổ chức lẫn đường hướng sau 60 năm hoạt động… cho nên những lời kêu gọi cải tổ LHQ được nêu lên mà vẫn chưa thể cải tổ….
(2 ) Nó cũng giống như  đặc trưng của Tam Giáo: Phật Giáo là Từ Bi; Tiên Giáo  là Trí Tuệ; Thánh Giáo  là Dũng Cảm vậy.
Hay  cùng một danh từ  Hội Long Hoa mà vẫn có đặc trưng cho từng kỳ hội. 
- Nhiên Đăng  Cổ Phật.
- Di Đà Cổ Phật.
- Di Lạc Cổ Phật.
Thay nhau làm chủ  03 kỳ Hội nên đương nhiên “Từ Bi” là căn bản.
Sơ Hội Long Hoa: Thanh Vương Đại Hội. “Trí Tuệ”.
Nhị Hội Long Hoa: Hồng Vương Đại Hội. “Dũng Cãm”.
Tam Hội Long Hoa: Bạch Vương Đại Hội. “Tinh Anh- Không Nhiễm Trần”.
Liên hệ  Bạch Vương Đại Hội  với  câu Thánh Ngôn: Sắc trắng mây lành phủ khắp nơi…Và đạo phục màu trắng của Thầy ban cho người Tín đồ Cao Đài, kèm theo cơ chế 03 Hội Lập Quyền Vạn Linh thì đã  thấy tính hiện thực của Hội Long Hoa  thể hiện  trong TGCĐ như thế nào.
(3)  Đồng Hồ ở Đông Lang và Tây Lang:                                                               HƯỚNG    ĐÔNG.
                         ĐỒNG HỒ                                                 ĐỒNG HỒ .
          
                        TÂY LANG.                                              ĐÔNG LANG.

                                                   HƯỚNG   TÂY.
a-  Đồng hồ ở Đông Lang các  cây kim  chỉ vào khoản không thể hiện cho tinh thần phóng khoáng của đạo học Đông Phương; nhưng kết cuộc là: đâu vẫn vào đấy… Nếu đọc 0 giờ 8 phút hay 12 giờ 8 phút thì  thể hiện cho sự đối lập Tý và Ngọ. Theo thời khoá biểu thông thường:
- Với  xã hội thì  Tý hay Ngọ cũng nhằm vào giờ nghĩ.
- Với TGCĐ thì cho dù là Tý hay Ngọ cũng đều nhằm vào giờ cúng tứ thời  theo Tân Luật đã định.  
Giờ  khác nhau nhưng công việc vẫn như nhau cho  Tôn giáo  và xã hội…
ĐẠO HỌC thì  đối lập mà vẫn đồng nhất…
b-  Đồng hồ ở  Tây Lang cây kim nào cũng chỉ  ngay con số thể hiện  cho sự chính xác  theo  khoa học kỷ thuật của Tây Phương…( Nếu đọc 7 giờ 15 phút hay 19 giờ 15 phút thì thể hiện sự đối lập: giờ của sáng và tối. Theo  thời khoá biểu thông thường của Tôn Giáo lẫn xã hội thì:
- Giờ  làm việc.
- Giờ nghĩ ngơi.
Khoa học thì đối lập sẽ dẫn đến kết quả khác nhau rất rõ ràng. (Đúng- Sai).
PHƯƠNG PHÁP thì có thể phù hợp và không phù hợp… (Đúng- Sai).
TGCĐ  ứng dụng thể pháp trên như thế nào?.
Khi phổ biến Giáo lý chơn truyền thì: Thập Thiên Can bao hàm vạn tượng.
 “Công việc của bậc Thiên Tiên mở ĐẠO, nói rõ là công việc của Hộ Pháp và Giáo Tông các bậc tiền bối có đặc nhiệm… với trách vụ khai sinh và xây dựng tôn giáo thì phải để lại cả một kho tàng về nhiều phương diện từ: Bí Ẩn Siêu Hình Học cho đến Bách Khoa Tự Điển… thể hiện qua TNHT, Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo, Pháp Chánh Truyền, Tân Luật, Lời Thuyết Đạo…”
Khi thực thi Chánh Trị Đạo: Tùng Địa Chi hoá trưởng Càn Khôn…
“ Công việc của các hạng khách trần còn lại là tìm cách thực thi những điều mà Giáo Chủ và Các Vị có trách nhiệm đã phổ biến nên phải đi vào PHÁP.
Tuỳ vào tài nguyên và môi trường mà vận dụng và khai triễn  những công thức  đúng với qui luật cung cầu; cho dù  công thức cụ thể nào cũng phải đúng qui tắc và nguyên lý Tam Kỳ.
Đây chỉ là nhận xét ban đầu hẳn nhiên thể pháp còn nhiều điều sâu sắc nữa.
(4): Theo quan sát và  tìm hiểu của chúng tôi thì:
a-  Đối tượng nghe giảng tại các trường Đại Học là trí thức trẽ còn đang háo hức trước cuộc đời,  đang nong nã mong cho đến ngày tốt nghiệp ra trường để tìm công việc vững chãi trong xã hội hầu tự  khẳng định bản thân mình trong trường đời.
 Rất ít người trong nhóm đối tượng nầy nghĩ rằng việc học về tôn giáo ở giảng đường giúp cho họ được ít nhiều khi đi tìm công việc. Nếu không bị bắt buột phải học một số giờ về tôn giáo để có đủ tiêu chuẩn tốt nghiệp thì họ sẽ không tự nguyện để học.
b- Trong tình cảnh đó thì một tuyệt đại đa số họ không thắc mắc về triết lý,  giáo lý  hay là đức tin tôn giáo, họ xem giờ học về tôn giáo với tư cách là những đơn vị  kiến thức như bao nhiêu môn học khác mà họ phải trãi qua… họ quan tâm đến một câu hỏi: Tôn giáo học giúp ích được gì cho họ trong môi trường như thế?
Đó là một câu hỏi rất thực mà nếu người giảng không chứng minh cho họ thấy được Đạo là tài nguyên và môi trường để họ bước lên đài danh vọng bằng những công thức hiệu nghiệm thì trí thức còn hờ hững với Tôn Giáo.
Họ hờ hững với tôn giáo vì tôn giáo không cung ứng được gì cho nhu cầu rất thiết thân, rất chính đáng  đang ngày đêm chiếm lĩnh  lòng trí họ.
c-  Phải  chứng minh cho được rằng  những đức tính mà Tôn Giáo đào tạo cho cá nhân như: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí,  Tín  rất cần ích cho họ trên bước đường công danh sự nghiệp.
Ở bình diện quốc gia thì: Có người nào bằng lòng đem tiền  bạc nhà xưỡng đến đầu tư vào một xã hội mà họ cho rằng kém về đạo đức hay chăng? Điều kiện tiên quyết của một nhà đầu tư phải là tài nguyên và môi trường đạo đức của nơi họ đầu tư như thế nào? Nếu các bạn là nhà đầu tư các bạn có đồng ý như vậy không?.
Từ đó chứng minh rằng: các Quốc gia còn nghèo khó, kinh tế không mở mang, tham nhũng đầy dẫy, nhà đầu tư không mặn mòi,  bất ổn xã hội tăng cao… có căn cội từ việc chưa xây dựng được đạo đức cho người  dân trong nước cũng như những công bộc của dân…
Riêng với Tôn giáo Cao Đài thì đi vào từng thế trong kinh điển hay thể pháp:
- Công thức mô hình xây dựng  thế giới đại đồng tại Đại Đồng Xã “Toà Thánh Tây Ninh” phù hợp với toàn cầu hoá như thế nào?  
- Tính ưu việt của Pháp Chánh Truyền… (giới hạn  nhân sự bộ  máy thượng tầng, cho hạ tầng phát triễn không giới hạn…Các quốc gia sẽ phải nghiên cứu khi xây dựng Hiến Pháp…).
-  Chủ trương lập quyền nhân loại: Thể hiện qua cơ chế Chủ Quyền Dân Chủ của Tôn giáo. (Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh…).
- Công thức: Nước Giàu Dân  Mạnh trong thời toàn cầu hoá…
Tôn Giáo phải THỰC mới TẾ được nhân loại nói chung và trí thức nói riêng… nhưng bài bản cho từng thành phần trí thức hay bình dân, lương hay giáo vẫn có khác nhau khi tiếp cận.   Tôn Giáo phải dùng xã hội học  để trí thức phải thắc mắc rằng những công thức hay mô hình ấy từ đâu mà có?
Những con người bình thường ít học kia có khả năng tạo ra từng ấy công thức, mô hình, bài bản… nhất quán đến thế hay chăng… họ phải truy tìm và chừng ấy họ mới chấp nhận phần tín ngưỡng của Tôn Giáo… chấp nhận điều rất thực rằng: Có cõi không gian với những trình độ vượt trội cõi thế gian… và họ phải cầu học…
Thời toàn cầu  hoá nhân loại dùng tri thức để xây dựng kinh thương. Tri thức là sức mạnh của xã hội. Sức mạnh của xã hội là kinh thương nên diễn ra những cuộc đấu tranh không khoan nhượng để làm chủ trên mặt kinh thương. Trong cuộc đấu tranh quyết liệt ấy sẽ diễn ra nhiều cảnh tang thương.
Tôn giáo xây dựng từ vật chất đến tinh thần mới bảo tồn cuộc sống nhân loại, bảo tồn cuộc sống nhân loại mới làm chủ được tâm linh nhân loại,  làm chủ được tâm linh nhân loại  thì  mới tạo được sự tương hoà. 
Có sự tương hoà thì nhân loại  chứng nghiệm được  công thức. Chứng nghiệm được công thức thì nhân loại sẽ hiểu rằng: Chỉ có  công thức được tạo nên từ chân lý mới  giúp nhân loại xây nên thế giới đại đồng trong Bác  ái  Công bằng. Cảnh tang thương sẽ  dịu dần  và chấm dứt.
Trí thức hay bình dân từ thượng lưu, trung lưu, hạ lưu… cuối cùng rồi cũng phải đi đến nhận định chung: Tôn Giáo Cao Đài chính là một tổ chức xã hội  nhỏ làm mẫu mực cho nhân loại nhìn vào đấy mà rút ra những điều cần thiết hầu xây dựng quê hương đất nước… ấy chính là công cuộc tái tạo dinh hoàn vậy…
Nguyên lý Đạo Cao Đài đi từ hữu hình đến vô vi phải được vận dụng đúng mức, thì  trí thức mới hiểu và chấp nhận tôn giáo với tất cả tính cách vốn có cả hai diện  hữu vi và vô vi.…
(5): Các quốc gia đã phát triễn nhìn chung thì hệ thống an sinh xã hội đã có khắp nơi nhưng nhìn sâu vào chúng ta sẽ thấy:
- Môi trường an sinh xã hội được trang trãi bằng tiền và qui  định pháp luật xã hội cho dù có huấn luyện nhân sự lòng nhân ái và lòng yêu nghề đến thế nào cũng sẽ có những khiếm khuyết  nhất định không thể khắc phục. Bởi vì chính con người thực thi công việc đó vẫn còn những điều cần phải giải quyết, phải trang trãi cả về vật chất lẫn tinh thần trong bổn phận và trách nhiệm của họ. Sâu xa hơn nữa thì  làm công việc  để mưu sinh không phải lúc nào cũng có đủ lửa trong lòng để sưởi ấm cho người già hay em bé. Nỗi cô đơn của người lớn tuổi trong những nhà dưỡng lão hay việc hụt hẫng tâm sinh lý của những em bé trong các nhà trẽ là những điều có thật  mà ta vẫn thấy sách, báo đề cập đến.
- Môi trường Sở Dưỡng Lão, Ấu được nên hình bằng tố chất tự giác tự nguyện để thể hiện tình thương trong công thức: Bảo  Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng sẽ có chổ đứng rất vững vàng. Lòng nhơn ái hẳn phải giàu hơn tiền ngân sách; sự hy sinh vì đạo nghiệp hẳn phải vượt trội hơn những qui định của pháp luật đặt ra.
Đường hướng Phước Thiện  của Tôn Giáo Cao Đài là làm đầy tớ cho nhân loại mà thành phần già yếu với bé thơ cùng là hạng khố rách áo ôm phải được chăm sóc thì họ sẽ thấy họ có phần trong tôn giáo và sự nghiệp của Tôn Giáo gắn liền với cuộc đời họ mà số nầy lại chiếm phần đông trong xã hội ấy là kế sách: Lấy câu cứu khổ dụ lòng thương sanh…
Nhân sự Phước Thiện là thành phần hiến thân cho đạo nên không còn cái tư riêng khi các vị được giao phó nhiệm vụ nơi Sở Dưỡng Lão Ấu thì ta có thể hình dung họ sẽ làm việc tích cực như thế nào để lấp đầy cái khiếm khuyết  mà xã hội đang cố gắng khắc phục kia… (Đại Đạo Thanh Niên Hội cũng là một phần rất quan trọng trong chương trình Sở Dưỡng Lão, Ấu vậy…)
Đạo Luật Mậu Dần ‘1938’ chương thứ hai: PHƯỚC THIỆN.
Điều thứ 10- khoản 28 phần Phương Pháp Thật Hành: mục 30- 31:
30- Về khoản cấp tế của Phước Thiện, chẳng nên phân biệt người trong Đạo hay là ngồi Đời, nghĩa là mỗi phen nơi nào bị tai nạn khổ tâm khổ trí thì lẽ cố nhiên người hành thiện chẳng thế nào bỏ qua cho đặng, chẳng những trợ giúp về mặt vật chất hình thức bên ngoài  mà thôi, mà lẫn đến tinh thần bên trong cũng phải có sự an ủi tâm hồn cho người được an vui bình tâm định trí.
31- Nếu một ai vì cảnh bi thương trong gia-đình, hoặc vì đau thảm về phần xác thịt, mà đến nhà Phước Thiện cầu xin cứu giúp, hay là một tấn kịch khốc hại đã phơi bày trước mắt mà người hành thiện lại nỡ đành làm ngơ, để cho người khốn khổ ấy phải cam tâm tủi phận, chẳng nhờ nơi lòng ái truất của nhà lương thiện đoái đến mà có đủ bằng cớ, thì vị Hành Thiện ấy phải bị lỗi nặng với danh giá nhà Phước Thiện và phải chịu phần trách cứ.
Làm đầy tớ cho xã hội đã công nghiệp hoá “người giàu”  thì Sở Dưỡng Lão Ấu là đắc sách vậy…
Chứng minh: trước khi có Đạo Cao Đài thì  khi có tang tế sự xã hội đã có người lo… nhưng Đạo Cao Đài  đặt vào lòng xã hội một nghi thức đặc trưng Cao Đài thì bài bản của Tôn Giáo đã thu hút nhân loại mãnh liệt đến  thế nào?
Trong các xã hội dân chủ đã công nghiệp hoá chánh phủ vẫn khuyến khích người dân làm công tác xã hội  “miễn thuế trên phần tiền mà người dân đóng góp vào công việc từ thiện- miễn giảm thuế cho các cơ sở  từ thiện…Họ quan niệm rạch ròi đây là bộ phận làm giúp cho chánh phủ để chánh phủ rãnh tay lo việc khác…”.
Nếu Tôn Giáo Cao Đài thể hiện được tính ưu việt của mình trước toàn xã hội  về: Sở Dưỡng Lão, Ấu thì chính người dân sẽ yêu cầu Chánh Phủ giao ngân sách về khoản dưỡng Lão, Ấu lại cho địa phương. Chính họ hợp tác với Đạo để cùng  thực hiện Sở Dưỡng Lão, Ấu chánh phủ giữ phần kiểm tra là điều hoàn toàn có khả năng thành hiện thực…
Khi đó chính người dân bản xứ sẽ tự lo xây Thánh Thất và Điện Thờ cùng những cơ ngơi Tôn Giáo. Điều nầy có ý nghĩa hơn  rất nhiều so với việc chính người Việt Nam ky cóp lo xây Thánh Thất và Điện Thờ trong sự bàng quan của người dân địa phương./. 
                                                  HẾT.                                                              
                     Email:ckdd.2007@yahoo.com.vn.

                                            T.T.L. BIÊN SOẠN.         

* LƯU Ý SÁCH NẦY HỘI THÁNH CHƯA KIỂM DUYỆT... KHI ĐỌC NÊN CẨN THẬN...