5022. 70 năm nhìn lại:
Từ Bảo Đại đến Hồ Chí Minh: HAI BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
Posted
by adminbasam on 09/09/2015
Phạm
Cao Dương
8-9-2015
Trong
lịch sử tranh đấu giành độc lập của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ hai mươi, hai
lần nước ta đã được các nhà cầm quyền đương thời chính thức tuyên bố độc lập.
Lần thứ nhất vào ngày 11 tháng 3 năm 1945 bởi Hoàng Đế Bảo Đại và lần thứ hai
vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 bởi Chủ tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa Hồ Chí Minh. Hai lần cả thảy, nhưng đa số người Việt chỉ biết hay chỉ
được học có một lần. Họ chỉ biết hay chỉ được học bản tuyên ngôn của Hồ Chí
Minh ngày 2 tháng 9 mà không biết hay không được học bản tuyên ngôn của Bảo Đại
ngày 11 tháng 3. Lịch sử do đó chỉ được biết có một nửa thay vì toàn vẹn. Bài
này nhằm bổ khuyết cho tình trạng thiếu sót đó, đồng thời phân tích nội dung và
ý nghĩa của từng bản.(A) TUYÊN NGÔN CỦA HOÀNG ĐẾ BẢO ĐẠI
Hoàn
cảnh được công bố
Bản
tuyên ngôn độc Lập của Hoàng Đế Bảo Đại được công bố ngày 11 tháng 3 năm 1945,
hai ngày sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương và sau một thời gian dài hơn
bốn năm, từ tháng 9 năm 1940, sau khi quân Nhật vào phần đất này của Đông Nam
Á, gần năm tháng trước khi Nhật Bản đầu hàng và Thế Chiến Thứ Hai kết thúc.
Trong thời gian này Việt Nam bị sống dưới sự cai trị của cả người Pháp, từ sau
khi Hòa Ước 1884 được ký kết, lẫn người Nhật, từ ngày 22 tháng 9 năm 1940, với
một hậu quả khủng khiếp là Trận Đói Tháng Ba Năm Ất Dậu. Hoàn cảnh này đã làm
cho không chỉ riêng những người Cộng Sản, vốn chủ trương đánh đổ chế độ quân
chủ để cướp chính quyền (chữ của chính người Cộng Sản) để từ đó thực thi cách
mạng xã hội chủa nghĩa vô sản mà luôn cả những người không những không có cảm
tình với chế độ quân chủ đương thời mà còn chủ trương lật đổ chế độ này để thay
thế bằng một chế độ dân chủ, không nhìn nhận giá trị đích thực của của bản
tuyên ngôn này. Lý do là vì Bảo Đại luôn luôn bị coi như một ông vua bù nhìn,
trước kia trong tay người Pháp và lúc đó trong tay người Nhật. Theo họ trước
kia người Pháp bảo sao, ông làm vậy và sau đảo chính 9 tháng 3 năm 1945, người
Nhật bảo ông tuyên bố độc lập thì ông tuyên bố độc lập, thế thôi. Người ta hiểu
hay được học đơn giản như vậy. Nền độc lập mà Bảo Đại tuyên bố theo họ chỉ là
do người Nhật ban cho và bản tuyên ngôn của ông chẳng có một giá trị gì trong
lịch sử đấu tranh giành độc lập của người Việt. Thực chất của nó chỉ là “sự tuyên
bố công khai việc thay thầy đổi chủ của triều đình Bảo Đại”[1] không hơn không
kém.
Sự thực
không đơn giản như vậy. Người Nhật có lý do làm đảo chính lật đổ người Pháp và
Bảo Đại có lý do phải chấp nhận yêu cầu của người Nhật tuyên bố Việt Nam độc lập.
Lý do của Bảo Đại đã được ông giải thích khi tiếp kiến Trần Trọng Kim và cố
gắng thuyết phục ông này chấp nhận làm Thủ tướng đầu tiên của chính phủ Nam
Triều độc lập. Nguyên văn câu nói được Trần Trọng Kim kể lại như sau:
“-”Trước
kia nước Pháp giữ quyền bảo hộ nước ta, nay đã không giữ được nước cho ta, để
quân Nhật đánh đổ, vậy những điều trong hiệp ước năm 1884 không có hiệu quả
nữa, nên Bộ thượng thư đã tuyên hủy hiệp ước ấy. Trẫm phải đứng vai chủ trương
việc nước và lập chính phủ để đối phó mọi việc.”[2]
Người
ta cần phải nhớ là hơn mươi năm trước đó, sau khi du học từ Pháp về tới Huế
được hai ngày, ngày tháng 10 tháng 9 năm 1932, Bảo Đại đã ra Dụ số 1 tuyên bố
chấp chính và khẳng định chế độ quân chủ của Nam Triều hủy bỏ Quy Ước 6 tháng
11 năm 1925 do Hội Đồng Phụ Chính, đứng đầu là Tôn Thất Hân, ký với Toàn Quyền
Đông Dương thời nhà vua còn nhỏ tuổi và đang du học bên Pháp, tước bỏ hầu hết
các quyền hành còn lại của ông trừ các quyền có tính cách nghi lễ, ân xá, sắc
phong, tế lễ…kèm theo nhiều dụ khác nhằm thực hiện những cải cách qui mô trong
nền hành chánh của chính phủ Nam Triều, nhưng đã bị người Pháp ngăn cản và bị
thất bại. Đảo chính 9 tháng 3 năm 1945 và lời yêu cầu tuyên bố độc lập của
người Nhật dù gì đi chăng nữa cũng là điều vị hoàng đế còn trẻ tuổi từ lâu mong
đợi. Ngoài ra theo nhận định và giải thích nhằm thúc đẩy Trần Trọng Kim “chịu
khó” lập chính phủ mới. Ông Bảo Đại nói :
-“Trước
kia người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng
mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính phủ thì người
Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho
nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc
nước.”[3]
Hai
tiếng “cơ hội” Bảo Đại dùng ở đây cho ta thấy ông từ lâu mong có dịp này. Đồng
thời ông cũng hiểu rằng nền độc lập mà ông tuyên cáo chưa phải độc lập hẳn.”
Chưa hết, tuyên bố rồi ông còn có nhu cầu phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập
và nhất là để tránh không cho người Nhật “lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh
rất hại cho nước ta.” Một sự e ngại chỉ có những người có kiến thức về lịch sử
và chính trị học mói biết được. Ngoài ra những tiếng “rất có hại cho nước ta”
cũng cho người ta thấy đối tương của hành động tuyên cáo độc lập của ông không phải
là ngôi vua mà là đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam, đất nước của ông và
thần dân của ông. Cái nhìn và quan điểm này cũng như sự hiểu biết của ông về
tình hình thế giới và thế tất bại của người Nhật về sau đã được ông nói rõ
trong hồi ký của ông. Riêng đối với người Nhật, ông đã không tin tưởng ở họ
cũng như chiêu bài Đại Đông Á của họ. Nói cách khác Bảo Đại ở vị thế phải chấp
nhận nhập cuộc dù ông hiểu rõ sự phức tạp của vấn đề. Phần khác, như ông cũng
nói tới trong hồi ký của ông: Độc lập là ước mơ của tất cả mọi người Việt Nam
thời đó.
Nội
dung bản Tuyên ngôn
Đây là
một bản văn tương đối ngắn so với những bản văn cùng loại, nhằm ba mục tiêu
chính yếu là hủy bỏ hòa ước Triều Đình Huế đã ký với nước Pháp, tuyên bố Việt
Nam độc lập, đứng vào khối Đại Đông Á trong chương trình phát triển chung, đồng
thời bày tỏ sự tin tưởng vào lòng thành của nước Nhật với nguyên văn như sau:
“ “Cứ
tình hình chung trong thiên hạ, tình thế riêng cõi Đông Á, chính phủ Việt Nam
tuyên bố từ ngày này điều ước bảo hộ với nước Pháp bãi bỏ và nước Nam khôi phục
quyền độc lập.
“ Nước
Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập và theo
như lời tuyên ngôn chung của Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vương
chung.
“Vậy
Chính Phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí
hợp tác với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như
trên.[4]
Bản
Tuyên Bố được đề ngày 11 tháng Ba năm 1945 tức ngày 27 tháng Giêng năm Bảo Đại
thứ 20 được Bảo Đại ký tên với sáu thượng thư phó thự. Sáu vị thượng thư gồm
có: Phạm Quỳnh, bộ Lại, Hồ Đắc Khải, bộ Hộ, Ưng Úy, bộ Lễ, Bùi Bằng Đoàn, bộ
Hình, Trần Thanh Đạt, bộ Học, và Trương Như Định, bộ Công. Theo Bảo Đại đây là
lần đầu tiên trong lịch sử một văn kiện được ký bởi nhà vua và tất cả các nhân
vật quan trọng nhất trong triều đình.
Đọc bản
Tuyên Ngôn Độc Lập này của Bảo Đại, người ta cần chú ý tới những chi tiết sau
đây:
Thứ
nhất: Gọi là tuyên ngôn nhưng thực sự đây chỉ là một văn kiện hủy bỏ một điều
ước đã được ký kết trước đó vì do tình hình biến chuyển một trong hai phía đã
không tôn trọng những gì mình đã ký kết hay không thực thi được những gì mình
đã ký kết trong một sinh hoạt quốc tế. Điều ước bị hủy bỏ ở đây là Hòa Ước Giáp
Thân được ký kết giữa Triều Đình Huế và người Pháp ngày 6 tháng 6 năm 1884, đặc
biệt hai điều khoản của hòa ước này là điều khoản thứ nhất, theo đó Việt Nam
công nhận và chấp nhận Quyền Bảo Hộ của nước Pháp và điều khoản thứ mười lăm,
theo đó nước Pháp cam kết bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ của các xứ do vua Việt
Nam cai trị và bảo vệ nhà vua chống lại những sự xâm nhập từ bên ngoài và những
cuộc nổi loạn từ bên trong..[5] Sự hủy bỏ này phải được hiểu là do người Pháp
bất lực không bảo vệ được Việt Nam trước sự bành trướng của quân đội Nhật và
cuối cùng là chính người Pháp đã bị người Nhật lật đổ trong cuộc Đảo Chính ngày
9 tháng 3 năm 1945. Sự hủy bỏ này cũng có tính cách đơn phương từ phía Hoàng Đế
Bảo Đại với tư cách là người kế vị chính thống của Triều Đình Nhà Nguyễn hay
trực tiếp hơn từ Vua Tự Đức, căn cứ vào những gì đã xảy ra vào thời điểm này.
Điểm
cần được lưu ý ở đây là từ ngữ hòa ước trong văn kiện này được dùng theo số ít,
trong tiếng Việt, không có chữ “các” hay “những” đi kèm và trong tiếng Pháp
không có chữ “s” theo sau. Điều này có nghĩa là bản tuyên cáo chỉ hủy bỏ hòa
ước bảo hộ tức Hòa Ước Giáp Thân 1884 mà thôi thay vì hủy bỏ tất cả các hòa ước
đã được ký kết trước đó. Đó là các Hòa Ước Nhâm Tuất 1862 và Hòa Ước Giáp Tuất
1874 liên hệ tới xứ Nam Kỳ theo đó xứ này đã bị nhường đứt cho người Pháp là và
trở thành thuộc địa của họ, không còn thuộc quyền cai trị của Vua và Triều Đình
Huế nữa. Vấn đề thâu hồi xứ Nam Kỳ do đó chưa được giải quyết ngay nhưng đã trở
thành mối bận tâm và một phần hành quan trọng của chính Hoàng Đế Bảo Đại ngay
từ buổi nhà vua tiếp kiến Đại Sứ nhật Yokoyama và của Chính Phủ Trần Trọng Kim
trong gần suốt thời gian chính phủ này tồn tại. Xứ Nam Kỳ chỉ được người Nhật
trao trả trong những ngày cuối của chính phủ này và chỉ chính thức trở về với
lãnh thổ quốc gia Việt Nam ngót năm năm sau, vào giữa tháng 6 năm 1949, và do
Bảo Đại với tư cách Quốc Trưởng tiếp nhận chứ không phải là do công lao của Chủ
Tịch Hồ Chí Minh và Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.
Đây
cũng là một sự kiện ít người biết đến hay chỉ biết một cách lơ mơ. Một chi tiết
khác cũng cần phải được chú ý ở đây là hai chữ “độc lập” đã được sử dụng tới
hai lần: “nước Nam khôi phục quyền độc lập” và “Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự
tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập”, trong một bản văn ngắn. Sau này
chính Bảo Đại đã dùng danh từ “tuyên ngôn độc lập – proclamation
d’indépendance” khi nói tới văn kiện này trong hồi ký của ông.
Thứ
hai: ”Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc
lập….giúp cho cuộc thịnh vượng chung.” Câu này xác định phương thức hoạt động
nhằm thực hiện tư cách độc lập (tự phát triển như một quốc gia độc lập không
phụ thuộc vào nước ngoài cho xứng đáng một quốc gia độc lập) và thế đứng của
Việt Nam trên trường quốc tế (tự coi mình là một phần tử Đại Đông Á, đem tài
lực giúp cho cuộc thịnh vượng chung). Ta cũng nên để ý tới khẩu hiệu Châu Á của
Người Á do người Nhật đưa ra trong thời gian này, một khẩu hiệu hàm chứa sự độc
lập của các nước Á Châu lúc đó còn là thuộc địa của các đế quốc Âu Châu. Đây
cũng là một cách nói khéo léo nhằm ngăn chặn trước sự can thiệp vào nội tình
Việt Nam của người Nhật, một điều cả nhà vua và Chính Phủ Trần Trọng Kim luôn
luôn quan tâm phòng ngừa.
Thứ ba:
“Chính phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc…”.”Câu này
nhằm buộc chặt lời hứa của người Nhật bằng cách nhấn mạnh vào sự trung thành
của người Nhật với những gì họ đã nói, với quan niệm trung thành như một truyền
thống chung của các dân tộc Á Đông.
Thứ tư:
“”quyết chí hợp tác với nước Nhật đem hết tài sản trong nước để cho đạt được
mục đích như trên.””Mục đích như trên là mục đích gì? Phải hiểu mục đích này
bao gồm hai phần là “tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập” và “giúp
cho cuộc thịnh vương chung” như là một phần tử của khối Đại Đông Á.”
Nói
cách khác, đây là một bản văn tuy ngắn ngủi, cô đọng nhưng rất quan trọng vì nó
vừa mang tính cách pháp lý, có liên hệ tới nhiều văn kiện ngoại giao khác đã
được hình thành trước đó, vừa biểu lộ chủ trương của một quốc gia được trao trả
độc lập trong một hoàn cảnh không nhận không được, vô cùng tế nhị và phức tạp
vào lúc tình hình thế giới biến chuyển quá nhanh và hoàn toàn bất lợi cho quân
đội và quốc gia đảm nhận sự trao trả nền độc lập này. Mỗi điều nói ra, mỗi chữ
được viết đều đòi hỏi người soạn thảo phải vô cùng thận trong và ước tính kỹ
càng.
Ai là
tác giả của bản tuyên ngôn này?
Người
được nói đến nhiều nhất là Phạm Quỳnh, lúc đó đang giữ chức thượng thư bộ lại.
Điều này có nhiều phần đúng nếu người ta để ý tới khả năng nghị luận và viết
văn, viết báo kèm theo sự hiểu biết và kinh nghiệm của một học giả, một người
làm báo, và sau đó là một ngự tiền văn phòng tổng lý của nhà vua cũng như
thượng thư bộ lại trong nhiều năm trước đó. Nó cũng được Phạm Khắc Hòe, đương
thời là ngự tiền văn phòng tổng lý của Bảo Đại, trong hồi ký của ông này xác
nhận[6].
(B) BẢN
TUYÊN NGÔN CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA HỒ CHÍ
MINH
Hoàn
cảnh được công bố
Bản
tuyên ngôn này đã được Hồ Chí Minh một mình soạn thảo, một mình đứng tên và đọc
tại Quảng Trường Ba Đình ở Hà Nội vào buổi chiều ngày 2 tháng Chín năm 1945,
ngót năm tháng sau bản tuyên ngôn của Bảo Đại, hơn hai tuần lễ sau khi Nhật Bản
đầu hàng, mười ba ngày sau khi Việt Minh cướp được chính quyền ở Hà Nội và hai
ngày sau khi Bảo Đại chính thức thoái vị.
Vì được
công bố sau bản tuyên ngôn của Bảo Đại, sau khi người Nhật đã đầu hàng cũng như
chế độ bảo hộ của người Pháp đã bị người Nhật lật đổ trước đó, bản tuyên ngôn
này đã bị nhiều người cho là thừa, không cần thiết, chưa kể tới sự kiện là
chính phủ mới do Hồ Chí Minh thành lập là kế vị chính phủ Nam Triều do Hoàng Đế
Bảo Đại thoái vị nhường cho dựa theo chiếu thoái vị của Bảo Đại và đã được Hồ
Chí Minh và chính phủ mới của ông chấp nhận. Chính Phủ Lâm Thời của nước Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa trong những điều kiện này đương nhiên kế tục những gì Hoàng Đế
Bảo Đại và Chính Phủ Trần Trọng Kim đã làm trước đó, trong đó có Bản Tuyên Ngôn
Độc Lập ngày 11 tháng 3 năm 1945. Lập luận như vậy là hoàn toàn hợp lý đứng
trên phương diện công pháp quốc tế. Một lập luận đơn giản và hoàn toàn dễ hiểu.
Câu hỏi được đặt ra là Hồ Chí Minh, và những cộng sự viên của ông, khi đưa ra
bản tuyên ngôn của mình có biết là trước đó Bảo Đại đã làm công việc này rồi
hay không? và biết như vậy tại sao ông lại còn làm lại việc đó một lần nữa?
Cho câu
hỏi thứ nhất, câu trả lời là chắc chắn có; Hồ Chí Minh chắn phải biết là Bảo
Đại trước đó đã tuyên cáo hủy bỏ hòa ước bảo hộ 1884 rồi. Nhưng ông vẫn làm lại
công việc này vì ông có nhu cầu phải làm. Những nhu cầu đó là những nhu cầu gì?
Thứ
nhất , là vì từ lâu toàn dân ai nấy đếu khao khát được thấy nước nhà độc lập,
đúng như Bảo Đại đã viết trong hồi ký của ông, độc lập là ước mơ của mọi người
dân Việt[7], cũng như nó được phản ảnh ở khắp nước ngay trước và sau ngày 2
tháng 9 năm 1945. Nói tới độc lập vào lúc đó là gõ đúng tần số của bất cứ một
người dân Việt Nam nào từ đó đem lại công lao và thanh thế cho người chính thức
công bố ra điều đó.
Thứ hai
, là cho tới ngày 2 tháng 9 năm 1945, cái tên Hồ Chí Minh hoàn toàn xa lạ ở
trong nước cũng như ở ngoài nước. Võ Nguyên Giáp, một trong những cộng sự viên
thân cận nhất của Hồ Chí Minh trong thời gian này, đã viết trong hồi ký của ông
này rằng: “Ba tiếng HỒ CHÍ MINH không bao lâu đã vang đi khắp thế giới với
những truyền thuyết mà người ta thường dành cho các bậc vĩ nhân. Nhưng vào ngày
hôm ấy, cái tên mới của Bác vẫn còn mới lạ với nhiều đồng bào. Số người biết
Bác chính là đồng chí Nguyễn Ái Quốc khi đó không nhiều.” [8]
Ngay
vua Bảo Đại ngày 23 tháng 8 năm 1945, khi nhận được điện tín của của các ông
Nguyễn Xiển, Nguyên Văn Huyên, Ngụy Như Kon-Tum và Hồ Hữu Tường nhân danh Ủy
Ban Nhân Dân Cách mạng, yêu cầu nhà vua thoái vị nhường quyền lãnh đạo quốc gia
cho Chính Phủ Nhân Dân Cách mạng với chủ tịch là “Cụ Hồ Chí Minh” đã không biết
Hồ Chí Minh là ai. Còn Phạm Khắc Hòe, người ở bên cạnh nhà vua và được Việt
Minh móc nối cũng không biết nốt, phải chạy đi hỏi Tôn Quang Phiệt, một đảng
viên Cộng Sản, rồi Đào Duy Anh nhưng Tôn Quang Phiệt đi vắng và Đào Duy Anh lục
lọi, truy tìm các tài liệu, sách vở ông có nhưng cũng không ra tên này. Cuối
cùng Vũ Văn Hiền, ở Bắc về mới xác nhận Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc.[9]
Tuyên
bố Việt Nam độc lập đối với Hồ Chi Minh vào thời điểm này do đó là cách tự giới
thiệu mình tốt nhất và hữu hiệu nhất vói toàn thể đồng bào và để được nhìn và
được chấp nhận như là lãnh tụ đầu tiên đã mang lại được độc lập cho tổ quốc và
cho toàn dân Việt Nam, một nhu cầu tối cần thiết, dầu rằng nền độc lập này hoàn
toàn không phải do ông hay do Mặt Trận Việt Minh tạo ra mà là do những biến cố
khác của lịch sử trước đó, trong đó quan trọng nhất là Đảo Chính 9 tháng Ba năm
1945, trong đó người Nhật đã loại bỏ người Pháp, kèm theo là bản Tuyên Ngôn Độc
Lập của Hoàng Đế Bảo Đại nói trên, và cuối cùng là sự bại trận sau này của
người Nhật.
Chúng
ta cũng cần để ý là đối với đa số người Việt Nam thời đó, ngày 2 tháng 9 là
Ngày Độc Lập, đúng như Nguyễn Hữu Đang, người được Hồ Chí Minh chỉ định tổ chức
ngày này, gọi, qua các văn thư chính thức ông đã gửi cho các cơ quan liên hệ,
trong đó có thư gửi cho Thị Trưởng Hà Nội[10] và theo bìa in bản tuyên ngôn của
bản đầu tiên năm 1945, do Chủ Tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Hồ Chí Minh đọc
trong Ngày Độc Lập”.[11] Nhưng đối với Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 còn có một ý
nghĩa quan trọng hơn nữa. Đó là “ngày khép lại cuộc Cách mạng tháng Tám, và
khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa”, theo lời ông nói với Nguyễn Hữu
Đang, “Chú phải nhớ…[12]
Tại sao
vậy? Tại vì Hồ Chí Minh phải làm chuyện này trước khi quân Đồng Minh kéo vô
Việt Nam, đặc biệt là thủ đô Hà Nội, nhằm đặt họ trước một sự đã rồi, không thể
đảo ngược đươc. Sự kiện vua Bảo Đại thoái vị được nhắc tới và câu “Toàn dân
Việt Nam, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân
Pháp” là nhằm vào mục tiêu này.
Nội
dung bản Tuyên Ngôn
Bản
Tuyên Ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh, vì được phổ biến rộng rãi và hầu như được
coi là bàn tuyên ngôn duy nhất gắn liền với ngày 2 tháng 9, ngày Quốc Khánh của
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa rồi Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nên đã được
nhiều người đọc, phân tích và tìm hiểu. Trong phần này người viết chỉ nêu lên
những gì ít được mọi người nhắc hay để ý đến.
Trong
khi Tuyên Cáo của Bảo Đại đơn giản chỉ là một bản văn thuần túy pháp lý nhằm
hủy bỏ hòa ước bảo hộ mà triều đình Huế đã ký trước đó, căn cứ vào sự bất lực
của người Pháp không giữ được cam kết đã được ghi trong điều khoản thứ nhất và
điều khoản thứ mười lăm của hòa ước này mà không nhằm vào một đối tượng quần
chúng hay quốc tế, thì bản Tuyên Ngôn của Hồ Chí Minh nhằm vào toàn thể người
Việt qua lời mở đầu “Hỡi đồng bào cả nước…”. Tuy nhiên ở những đoạn cuối tác
giả lại nhắm vào các nước Đồng Minh. Điều này phải tinh ý người ta mới nhận ra
được. Về tư cách, Bảo Đại nhân danh Hoàng Đế Việt Nam, người đứng đầu của một
quốc gia độc lập đã tồn tại từ trước khi người Pháp xâm lăng và là người kế
thừa chính thống của các vua Nhà Nguyễn, thì Hồ Chí Minh đã nhân danh “Lâm Thời
Chính Phủ của nước Việt Nam mới.”” Mới là vì đến ngày đó chính phủ này mới
chính thức được ra mắt trước quốc dân. Lời văn do đó phản ảnh hai tư cách của
hai bản chất con người khác nhau. Một người là hoàng đế kế thừa chính thống của
một triều đại đã trị vì một quốc gia từ hơn một trăm năm trước dù cho là chỉ
còn hư vị; người kia là lãnh tụ của một phong trào cách mạng vừa chủ trương chống
Pháp, vừa chủ trương chống Nhật và lật đổ chế độ quân chủ để giành chính quyền.
Văn phong trong bản tuyên ngôn của Bảo Đại là văn phong bình thường của người
cầm quyền; còn văn phong của Hồ Chí Minh mang tính cách kêu gọi và ở một mức độ
nào đó có tính cách bình dân, kể lể dài dòng kể công và nhất là xách động.
Mở đầu
cho bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã trích dẫn một số câu trong phần đầu của Bản
Tuyên Ngôn Độc Lập của nước Mỹ và một câu trong Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và
Dân Quyền của Cách Mạng Pháp. Sự trích dẫn này, vào lúc mà sự hiểu biết của
quần chúng Việt Nam còn thấp kém, đặc biệt là về lịch sử Hoa Kỳ và thế giới
chắc chắn không nhằm vào quần chúng người Việt mà nhằm vào người Mỹ và người
Pháp. Lý do là Hồ Chí Minh như là một đảng viên Cộng Sản Quốc Tế chắc chắn đă
hiểu hơn ai hết là người Mỹ vào thời điểm này đã đóng một vai trò vô cùng quan
trọng trong chính tình ở Á Châu, trong đó có Việt Nam. Được nguời Mỹ công nhận
là coi như làm chủ được chính quyền. Hiểu được như vậy, ngay từ khi còn ở chiến
khu Hồ Chí Minh khi tiếp xúc với người Mỹ đã yêu cầu họ cung cấp cho ông một
bản Tuyên Ngôn Độc Lập của họ, đồng thời khi tiếp xúc với họ, Hồ Chí Minh cũng
nhận thấy rằng nói về lịch sử nước Mỹ với họ là một cách để chinh phục cảm tình
của họ. Cũng vậy, với những gì chứa đựng trong bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân
Quyền của người Pháp. Có điều sự trích dẫn nàychỉ nhằm mục tiêu lôi cuốn sự chú
ý và cảm tình của người Mỹ mà thôi.
Hồ Chí
Minh không cần đi xa hơn nữa và rất có thể ông cũng không hiểu rõ hơn hay cố
tình không hiểu sự khác biệt trong quá trình giành độc lập của mười ba thuộc
địa của người Mỹ vào cuối thế kỷ XVIII và của nước Việt Nam thời ông. Vì vậy
ông đã áp dụng quan điểm của người Mỹ về quyền bình đẳng, quyền được sống tự do
và mưu cầu hạnh phúc của mọi – người – như-là-những-cá-nhân vào trường hợp Việt
Nam như một – quốc – gia đòi quyền độc lập một cách gượng ép hay ít ra là suy
luận theo quan điểm chủ quan của mình với dụng ý riêng của mình. Cũng vậy với
những gì ông trích dẫn từ bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng
Pháp.
Phần kế
tiếp, Hồ Chí Minh lên án người Pháp và người Nhật, đồng thời ông kể công cho
Việt Minh: “Trước ngày mồng 9 tháng 3, đã bao lần Việt minh đã kêu gọi người
Pháp liên minh để chống Nhật…”, sau đó “đ ã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua
biên thùy, lại cứu nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng
và tài sản cho họ” và kết luận rằng “Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt-nam
từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”.
Điều,
như người viết đã nói ở trên, là không đúng sự thật. Sự thật là Chính Phủ Bảo Đại
– Trần Trọng Kim đã lấy lại được toàn thể nước Việt Nam từ trước khi người Nhật
đầu hàng kể cả lấy lại xứ Nam Kỳ và Việt Minh đã cướp chính quyền từ trong tay
của chính phủ Bảo Đại -Trần Trọng Kim trong những ngày 17 và 19 tháng 8 năm
1945 sau đó. Lý do là vì Việt Minh “đã có đường riêng của họ rồi”, nói theo
Phan Anh, Bộ Trưởng Thanh Niên trong Chính Phủ Trần Trọng Kim và sau này là Bộ
Trưởng Bộ Quốc Phòng trong Chính Phủ Liên Hiệp của Hồ Chí Minh. Trong những
đoạn này Hồ Chí Minh đã dùng các từ ngữ ta hay “dân ta” hay “đất nước ta”,
nhưng mục đích không nhằm vào người Việt Nam mà vào người Pháp.
Phần
cuối cùng của bản văn, từ “Bởi thế cho nên…” cho đến hết, lời văn cho người ta
thấy Hồ Chí Minh không hướng về người Việt mà về cả thế giới. Trong phần này
ông xưng là “chúng tôi, Lâm thời Chính phủ, đại biểu cho toàn dân Việt -nam “
để tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, kêu gọi các nước Đồng Minh công nhận
quyền độc lập của dân Việt-nam… Phần này Hồ Chí Minh thay vì quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mọi – người – như – những – cá –
nhân do Tạo Hóa ban cho, những quyền phải hiểu là tự nhiên ai như là một cá
nhân đều có, đã nói về quyền hưởng tự do và độc lập của – cả – nước – Việt –
Nam. Điều này hoàn toàn trái với tinh thần của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Người
Mỹ và nhất là của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách mạng Pháp mà
danh xưng của nó đã nói lên một cách rõ ràng, không thể hiểu sai được vì độc
lập không phải luôn luôn đồng nghĩa với tự do, dân quyền và nhân quyền.
Không
những thế, thay vì coi những quyền này là do Tạo Hóa ban cho, Hồ Chí Minh lại
lý luận là vì dân tộc Việt Nam là “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của
Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống
phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc ấy phải được độc
lập!”.” Lý luận như vậy người ta phải hiểu, theo Hồ Chí Minh, rằng những dân
tộc không gan góc chống lại những thế lực đè nén, áp bức mình và không gan góc
đứng về phe Đồng Minh, chống phát-xít là không đáng được tự do, độc lập. Cũng
vậy, với các quyền độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc của con người như là
những cá nhân trong xã hội.
Chính
vì vậy Luật sư Trần thanh Hiệp,khi được Đài Á Châu Tự Do phỏng vấn ngày 2 tháng
9 năm 2007, đã có lý khi ông gọi bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh này là một bản
tuyên ngôn phi nhân quyền,[13] dù cho là nó đã được chính tác giả của nó trích
dẫn và soạn thảo theo tinh thần của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của
Cách mạng Pháp. Nhưng dù nói thế này hay thế khác sự kiện này đã phản ảnh chủ
trương cách mạng bạo lực của những người Cộng Sản mà Hồ Chí Minh ở đây là một
trường hợp điển hình.
Người
ta có thể giải thích sự thiếu rõ ràng trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hồ Chí
Minh kể trên là do nó đã được soạn thảo trong một thời gian quá ngắn và trong
tình trạng tác giả của nó còn phải bận rộn với nhiều vấn đề cấp bách khác. Điều
này không đúng vì trước đó từ lâu, khi tiếp xúc với một sĩ quan người Mỹ, Hồ
Chí Minh đã xin một bản tuyên ngôn nhân quyền của người Mỹ rồi. Nói cách khác,
Hồ Chí Minh đã nghĩ tới và đã thai nghén bản tuyên ngôn của ông từ lâu chứ
không phải chỉ ít ngày trước ngày 2 tháng 9 năm 1945. Do đó những gì ông nói
tới, những từ ngữ ông dùng đều được cân nhắc kỹ càng và đều có dụng ý riêng với
những mục tiêu riêng mà chỉ sau này phải phân tích kỹ, đối chiếu kỹ và có thể
sau này khi mọi việc liên hệ đã xảy ra rồi, người ta mới có thể hiểu được.
Phạm
Cao Dương
[1]
Dương Trung Quốc. Việt Nam : Những Sự Kiện Lịch Sử (1919-1945). HàNội: Nhà Xuất
Bản Giáo Dục, 202.tr. 388.
[2] Lệ
Thần Trần Trọng Kim. Một Cơn Gió Bụi (Kiến Văn Lục).Saigon, Nhà Xuất Bản Vĩnh
Sơn, 1969. tr. 49.
[3] –
nt – , tr. 51.
[4]
Dương Trung Quốc, Việt Nam…, tr. 388; Nguyễn Vỹ. Tuấn, Chàng Trai Nước Việt
(Chứng Tích Thời Đại Từ 1900 đến 1970, Quyển II. Saigon, ? , 1970. Fort Smith,
AR tái bản ở Hoa Kỳ, ?. tr. 512.; S.M. Bao Dai. Le Dragon d’Annam. Paris, Plon.
1990. Cameron, Allan W. Viet-Nam Crisis, A Documentary History, Volume I:
1940-1956. Ithaca, N.Y. Cornell University Press, 1971.. tr. 31-32. Hai bản
tiếng Việt in trong tác phẩm của Dương Trung Quốc và tác phẩm của Nguyễn Vỹ hơi
khác nhau về ngôn từ nhưng hoàn giống nhau về nội dung. David G. Marr trong
Vietnam 1945, The quest for Power (Berkeley, University of California Press,
1995, tr. 71) có nói tới các bản tiéng Việt và tiếng Pháp ở văn khố Pháp và bản
đăng trên tờ Dân Báo, ngày 12 tháng Ba. Vũ Ngự Chiêu cũng nói tới tờ Tin Mới,
nhưng nhất thời người viết bài này chưa đến được các nơi cần đến để tìm kiếm.
[5]
Taboulet, Georges. La Geste Francaise en Indochine,Histoire par les textes de
la France en Indochine des origines à 1914, tome II, Paris, Adrien –
Maisonneuve, 1956. tr. 809 – 812; Phan Khoang, Việt Nam Pháp Thuộc Sử, 1884 –
1945. Saigon,, ? ,1961. Tái bản ở Hoa Kỳ. tr. 322 – 328.
[6]
Phạm Khắc Hòe, Từ Triều Đình Huế Đến Chiến Khu Việt Bắc. Huế, Thuận Hóa, 1987,
tr. 16 -.
[7]
S.M.Bảo Đại, Le Dragon d’Annam, đã dẫn, tr. 103
[8] Võ
Nguyên Giáp, “Những Năm Tháng Không Thể Nào Quên”, trong Tổng Tập Hồi Ký. Hà
Nội, Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, 206, tr.. 255.
[9]
Phạm Khắc Hòe, Từ Triều Dình Huế…, tr. 76.
[10]
Phùng Quán, Ba Phút Sự Thật. Thành Phố Hồ Chí Minh, Nhà Xuất Bản Văn Nghệ,
2006, tr. 114 – 115.
[11] Hồ
Chí Minh, Tuyên Ngôn Độc Lập Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Hà Nội, Nhà Xuất
Bản Sự Thật, 1976, tr.13. Nguyễn Khánh Toàn và Lữ Huy Nguyên, Tổng
Tập Văn Học Việt Nam, Tập 36. Hà Nội, 1980. tr. 812 – 823.
[12] –
nt-, tr. 134.
[13]
Trần Thanh Hiệp và Trương Giang, “Một Bản Tuyên Ngôn Phi Nhân Quyền”, trên Nhật
Báo Người Việt, số 7940, ngày Thứ Hai, 3 tháng 9 năm 2007. Dương Trung Quốc.
Việt Nam : Những Sự Kiện Lịch Sử (1919-1945). HàNội: Nhà Xuất Bản Giáo Dục,
202.tr. 388.Việt, số 7940, ngày Thứ Hai, 3 tháng 9 năm 2007.
(*) Chú
thích của Tòa sọan: Tác gỉa Phạm Cao Dương là Giáo sư, Tiến sỹ dạy môn Lịch sử
và Văn hoá Việt Nam tại một số Đai học Mỹ.