Trang

Thứ Sáu, 3 tháng 10, 2025

6040. Phân tích & Nhận định về niên biểu Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh.

 

Phân tích & Nhận định về niên biểu Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh.

Sau khi Ban Phổ Tế 257 trả lời trang fb Lưu Dấu Tiền Nhân về Vi Bằng Thượng Hội ngày 16-4-1933, Vi bằng Đại Hội Vạn Linh ngày 11-6-1933, Vi bằng Hội tại Thánh Thất Từ Vân … khán thính giả yêu cầu liệt kê những pháp lý từ Hội Thánh Cao Đài có liên quan đến Ba Hội Lập Quyền Vạn linh để tạo thành một bảng tư liệu. Do vậy Tôi soạn lại để tạ lòng tin tưởng và yêu mến của quý vị.


Bài soạn chắc chắn là còn thiếu sót nhưng Chúng tôi tin rằng đây là những điều căn bản để soi sáng rất nhiều việc và trả lời sòng phẳng cho những người đã hiểu sai hay nói xấu Hội Thánh Cao Đài. Đặc biệt là trong khi Hội Thánh bị xóa bỏ năm 1983 thì bảo vệ tính chính danh của Đạo là nghĩa vụ thiết yếu của người Đạo.

Trong bài viết nầy Chúng tôi tóm lược những điểm pháp lý căn bản để hồi đáp những vấn nạn và soi sáng bước đường tương lai: Phải có Đại Hội Nhơn Sanh tại Tòa Thánh Tây Ninh để công cử nhân sự cầm quyền hành chánh tôn giáo và từ đó khôi phục lại nhân sự của Hội Thánh Cao Đài.

Phát xuất từ Lời Minh Thệ: … Từ đây biết MỘT Đạo Cao Đài Ngọc Đế … thì chữ MỘT là số ít nên chỉ có duy nhất MỘT Đạo Cao Đài do Đức Thượng Đế lập ra, tổ chức Lễ Khai Đạo ngày 18-11-1926 tại Chùa Gò Kén, Tây Ninh. Bất cứ nơi nào khác xưng danh Cao Đài đều không phải của Ngọc Đế lập ra.

Đức Thượng Đế dùng cơ bút lập ra Đạo Cao Đài thì Ngài cũng cho phép Quỉ vương, tà quái dùng cơ bút mượn danh Ngài để cám dỗ; để phong chức tước cho những người có lòng bất chánh. Đó là luật công bằng.

Cơ bút thì hữu hình nhưng Đức Chí Tôn hay các Đấng Thiêng Liêng là vô hình (Xiển giáo); Quỉ vương hay Tà quái cũng vô hình (Triệt giáo). Do vậy khi phò cơ thì người phàm làm sao biết được Xiển giáo hay Triệt giáo nhập cơ?

Thượng Đế dạy cho môn sinh biết điều kiện ắt có và đủ để nhận biết cơ bút của Xiển giáo: phải do Hội Thánh Cao Đài ban hành. Khi đã xác định được cơ bút của Xiển giáo phải phát xuất từ Hội Thánh Cao Đài thì cứ theo đó để học đạo và hành đạo thì tránh được mồi nhử của Triệt giáo. (1)

Theo Ngài Thượng Chánh Phối Sư, Thượng Tương Thanh thì mồi nhữ của Quỉ vương là những bài thơ hay, những mồi danh lợi vật chất và phong cho chức phẩm … (2). Ngài Thượng Tương Thanh đã đưa ra nhận định rất thực tế, dễ hiểu và kiểm chứng được.

Đặc biệt là Thượng Đế chỉ ra cái tử huyệt của Đạo Cao Đài cho Quỉ vương, cho Tà quái biết: Muốn phá Đạo Cao Đài thì phải phá được pháp luật Đạo, hể phá được pháp luật Đạo Cao Đài thì phá tiêu được nền Đạo.

Vậy Đức Thượng Đế giao cho ai gìn giữ pháp luật Đạo Cao Đài?

Theo Pháp Chánh Truyền và Tân Luật Hội Thánh Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ (ĐĐTKPĐ) nói tắt là Hội Thánh Cao Đài thay mặt Đức Chí Tôn để dìu dắt môn đệ của Thầy trên đường Đạo và đường Đời. Hội Thánh chơn truyền đó hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh cho đến năm 1983 thì bị nhà nước Việt Nam xóa bỏ. Do vậy pháp lý từ Hội Thánh Cao Đài là căn bản để xem xét mọi vấn đề của Đạo Cao Đài.

Bằng chứng: Khi mới khai Đạo, Đức Chí Tôn hay Đức Lý Thái Bạch trực tiếp thu nhận môn đệ. Nhưng khi Tân Luật ban hành (tháng 6-1927) thì Đức Chí Tôn giao quyền thâu nhận môn đệ lại cho Hội Thánh Cao Đài. (Ngưng cơ bút truyền Đạo vào cuối tháng 6-1927). Đây là chứng cứ rất rõ ràng là Hội Thánh Cao Đài thay mặt cho Đức Chí Tôn để dìu dẫn môn sinh trên đường Đạo và đường Đời. (3)

Đến ngày 23-12-1931 Đức Thượng Đế dạy: … Thầy đã lập hình-thể hữu-vi của Thầy, nghĩa là Hội-Thánh của Đại-Đạo ngày nay rồi thì Thầy cũng phải ban quyền-hành trọn-vẹn của Thầy cho hình-thể ấy, đặng đủ phương tận-độ chúng-sanh … (Phụ đính 1).

Lời dạy trên đây xác nhận Hội Thánh Cao Đài là Thánh Thể của Thầy và Thầy làm cho Thánh Thể ấy được oai quyền hơn nữa nên dạy lập ra Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh là Hội Nhơn Sanh, Hội Hội Thánh và Thượng Hội. Đây là Chánh Trị Đạo là chánh thể của đạo nên Đức Thượng Đế ban quyền cho Giáo Tông và Hộ Pháp được hiệp một để tạo ra quyền Chí Tôn tại thế.

Khi Hội Thánh bị cốt thì Thánh Lịnh 257 (1957) của Đức Hộ Pháp Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng được kích hoạt. Thánh Lịnh 257 viết rõ Hội Thánh Cao Đài chẳng hế bị tuyệt, và dạy Bàn Trị Sự và Tín Đồ hiệp nhau công cử người cầm quyền hành chánh đạo.

Bàn Trị Sự là Hội Thánh Em và Tín Đồ đối quyền với Trời thì công cuộc khôi phục lại Hội Thánh Cao Đài chắc chắn phải thành công.

Liệt kê và phân tích về niên biểu Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh.

Trong bảng liệt kê nầy có hai phần: Các kỳ Hội Quyền Vạn Linh diễn ra trước khi Hội Thánh ban hành luật như Luật Lệ Chung Các Hội (22-12-1934), Hội Nhơn Sanh Nội Luật (22-12-1934), Hội Thánh Nội Luật (22-12-1934), Thượng Hội Nội Luật (27-02-1932).

1/- Giai đoạn trước khi ban hành luật về Hội Quyền Vạn Linh.

Hội Thánh căn cứ theo lời dạy của Sáu Đạo Nghị Định (22-11-1930) và Lời dạy của Đức Chí Tôn (23-12-1930).

Điều nầy cũng giống như trước khi ban hành Tân Luật (01-6-1927) thì Đức Chí Tôn đã dạy thi hành theo Tân Luật.

Ngày 31-5-1926: Trung – Con phải lên nhà G … bây giờ mà xem sóc, sắp đặt sự thờ phượng theo bây giờ, cho tới ngày tác thành Tân Luật. (TNHT Q1, trang 18; 1972)

Ngày 27-6-1926: Lịch, Tân Luật con soạn có Thầy giáng đủ lễ hết, vậy con truyền cho chư môn đệ, đặng chúng nó y theo mà hành lễ … Con Trung, con phải giữ y như Tân Luật mà hành lễ. (TNHT Q1, trang 22, 23; 1972).

Sâu xa hơn nữa trước khi Đức Chí Tôn dạy về Chánh Trị Đạo (Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh “23-12-1931”) thì Pháp Chánh Truyền Chú Giải (Luật Công Cử, phẩm Giáo Tông) đã đề cập đến Thượng Hội.

CHÚ GIẢI: Phẩm Giáo Tông thì hai phẩm Chưởng Pháp và Đầu Sư tranh đặng, song phải chịu toàn cả Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài và chư Tín Đồ đồng tâm công cử. Vậy thì buộc phải có người của Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài chứng kiến cho cả chư Tín Đồ công cử. Khi đắc số thăm mỗi vị phải gởi về Tòa Thánh có Thượng Hội kiểm soát. Bàn Thượng Hội ấy phải chọn người của Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài hiệp một kể từ Đầu Sư, Thượng Phẩm, Thượng Sanh đổ lên, trừ người ra tranh cử.

Theo đó Thầy và Đức Lý Giáo đã dạy cho Đức Hộ Pháp biết trước về Thượng Hội để chú giải Pháp Chánh Truyền. (Đây có thể là lần đầu tiên có danh từ Thượng Hội trong nền Đạo.)

Trước khi ban hành Pháp Chánh Truyền Chú Giải (02-4-1931) thì cả nền Đạo vẫn đi trong khuôn viên của Pháp Chánh Truyền.

Qua những mốc thời gian và sự kiện lịch sử trên hậu tấn thấy được: Ngay cả khi pháp luật đạo chưa hoàn thành, chưa được công bố Thầy và các Đấng vẫn dẫn dắt các vị Chức sắc Đại Thiên Phong hành đạo trong khuôn khổ pháp luật đạo. Cho dù ở giai đoạn nào mà Hội Thánh Cao Đài nhìn nhận thì đó chính là pháp lý của Đạo.

Ngược lại Hội Thánh Cao Đài không nhìn nhận thì dù cho của vị chức sắc Đại Thiên Phong nào hay bao nhiêu vị cũng không có pháp lý trong nền đạo.

Ngay cả 15 vị Chức sắc Hiệp Thiên Đài được ban Dây Sắc Lịnh, khi đeo Dây Sắc Lịnh vào để hành chánh thì bất cứ ai cũng không được cãi lịnh; nhưng Đức Chí Tôn vẫn giao quyền cho Hội Thánh quyết định việc hành chánh đó là phải hay quấy.  

Đó là quyền năng của Hội Thánh Cao Đài do Đức Chí Tôn ban cho.

Lịch sử đạo bao gồm tất cả những gì xảy ra trong nền đạo, trong đó có tốt, có xấu; có đúng với pháp luật đạo và sai với pháp luật đạo. Hội Thánh Cao Đài nhìn nhận hay không nhìn nhận chính là pháp lý của Đạo.   

Học đạo để phụng sự cho nền chánh giáo thì tôn trọng pháp lý của Hội Thánh Cao Đài, căn cứ vào đó để hóa giải những ngộ nhận trong quá khứ, chữa lành những vết thương trong quá khứ hướng đến tương lai; ấy là người hữu phước. Học đạo để phá đạo thì căn cứ vào những văn bút vô thừa nhận, vô trách nhiệm, không có pháp lý để công kích Hội Thánh, công kích tiền nhân để mưu đồ bất chánh, mưu đồ cho lợi ích nhóm không phù hợp với chánh giáo của Đức Chí Tôn; ấy là thành phần bất phước.

Mưu đồ này thường ẩn trong việc biện minh hay khoác lên lớp sơn chính nghĩa cho việc các vị Chức sắc của Tòa Thánh Tây Ninh tách ra lập thành chi phái. Từ đó làm căn cứ để hợp thức hóa việc chính các chi phái tách ra từ Tòa Thánh Tây Ninh đã tạo ra rất nhiều chi phái nữa ….

Cầm đầu để thực hiện mưu đồ nầy là Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý 171B Cống Quỳnh Sài Gòn do ông Đinh Văn Đệ là Dân biểu Việt Nam Cộng Hòa nhưng làm điệp viên cho cộng sản có bí danh U4, cũng chính là Đạo Trưởng Thiên Vương Tinh điều phối. Những giáo sư đại học, bác sĩ, kỹ sư, tiến sĩ … trong tổ chức nầy đang đội lốp Đạo Cao Đài (để che giấu căn cước thật của họ là cộng sản lập ra năm 1965 để hoạt động thành); họ đang viết lại lịch sử, giáo lý, triết lý …  của Đạo theo quan điểm của Bản án ngày 20-7-1978 do Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam tỉnh Tây Ninh ban hành. (4)

Rất nhiều học giả về Đạo Cao Đài hay cơ quan truyền thông đã dính bẫy như Giáo Sư Janet Hoskins (Đại Học Nam California), Giáo Sư Nguyễn Khắc Tiến Tùng (Đức Quốc), Tiến Sĩ Huỳnh Ngọc Thu (Trường Đại Học KHXH&NV, ĐHQG-HCM), Luật Khoa Tạp Chí …

 1.1/- Sáu Đạo Nghị Định (22-11-1930).

Thầy giao quyền Giáo Tông cho Đức Lý Thái Bạch (Nhứt Trấn) ngày 29-10-1926. Đức Lý Giáo Tông thọ lịnh Thầy, dạy lập ra Tân Luật và ban hành vào tháng 6-1927.

Sau đó Đức Lý Giáo Tông thấy nội bộ bất hòa và Đạo bị bất lực nên muốn dùng pháp luật đạo để chấn chỉnh, Đại Từ phụ không chịu muốn dùng tình thương để dạy dỗ, không cho làm mất lòng nhau; do bất đồng quan điểm trong việc điều hành nên Đức Lý Giao Tông từ nhiệm.

Bát Quái Đài và Cửu Trùng Đài không đồng quan điểm, Hiệp Thiên Đài không biết làm sao. Đức Chí Tôn dạy đừng nghe lời Đức Lý còn Đức Lý giải thích nếu Đức Hộ Pháp bất lực thì nên lui chơn thối bước, còn như để cho nền Đạo bị hư hoại thì Hộ Pháp phải chịu trách nhiệm. Đức Hộ Pháp thơ thẩn suốt mấy tháng trường, cuối cùng Hộ Pháp quyết định chọn theo quan điểm của Đức Lý Giáo Tông.

Hai Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng hiệp nhau dâng sớ lên Bát Quái Đài xin dùng pháp luật để chấn chỉnh cơ Đạo nên Bát Quái Đài chấp nhận, Đức Chí Tôn rất buồn nhưng dạy sắp soạn tổ chức Lễ đăng điện cho Đức Lý tái thủ quyền hành.

Ngày 22-11-1930 trong đàn cơ lập sáu Đạo Nghị Định, Ngài Thượng Đầu Sư Thượng Trung Nhựt xin Đức Lý từ bi tái thủ quyền hành có nguyên nhân sâu xa là như vậy. Trong phần Tiểu dẫn Đức Lý Giáo Tông dạy:

 … Ðã trót 5 năm để đủ cơ đời dạy ngoan chư Hiền Hữu, chư Hiền Muội, ngày nay Lão định trừ diệt quỉ quyền, không cho rối loạn nền Ðạo mà thử thách Thiên Phong nữa….

Lão nói thiệt rằng: Ðạo vốn của toàn cả chúng sanh. Lão chẳng lẽ lấy tư mà làm công cho đặng. Lão phải chấp chánh quyền hành, công thưởng, tội trừng cho đáng lý, chẳng phải bởi ngửa nghiêng cơ Ðạo, mà buộc đặng Lão tùng Ðời. Lão lấy quyền vô vi Càn khôn làm biểu hiệu, Lão chỉ vì tình nhau, mà cho chư Hiền Hữu chư Hiền Muội biết trước rằng: Ðừng ỷ công mà cả lòng khi lịnh. Lão nhứt định chẳng hề tha thứ bao giờ, nên thì để, hư thì trừ, chư Hiền Hữu, chư Hiền Muội đừng trách Lão quá ư nghiêm khắc nghe!... (5)

1.1.1/ Đạo Nghị Định Số 2.

Ðiều thứ nhứt: - Ban quyền hành cho Thượng Ðầu Sư thay mặt cho Lão mà thi hành các phận sự Giáo Tông về phần xác, còn phần Thiêng Liêng có Lão.

Ðiều thứ nhì: - Chức Sắc Cửu Trùng Ðài, duy bậc Chánh Phối Sư phải tùng quyền mà hành chánh về phần chánh trị của Ðạo, song đặng thế mặt cho Ðầu Sư, đương buổi Người cầm quyền Giáo Tông của Lão.

Ðiều thứ ba: - Mọi việc chi thuộc về quyền chánh trị, đều giao cho Chánh Phối Sư.

Ðiều thứ tư: - Chánh Phối Sư đặng trọn quyền thông công cùng chánh phủ và nhơn sanh; nhưng buộc phải có Hội Viên Nhơn Sanh và Hội Thánh chăm nom cơ hành động.

1.1.2/- Đạo Nghị Định Số 5 (22-11-1930 “03-10-Canh Ngọ”).

Ðiều thứ tư: - Thượng Chánh Phối Sư, đặng quyền thay mặt cho toàn Ðạo mà giao thông cùng Chánh Phủ và cả Tín đồ, quyền giáo dục nhơn sanh do nơi tay người nắm, làm Chủ Tọa Hội Nhơn Sanh.

Ðiều thứ sáu: - Thái Chánh Phối Sư, đặng quyền cầu xin Chức Sắc hành Ðạo tha phương, song tại nơi người điều độ, làm Chủ Tọa Hội Thánh.

Theo sự tìm hiểu của Chúng Tôi đây là hai văn bản pháp luật đầu tiên dạy về Hội Nhơn Sanh và Hội Hội Thánh, sáu Đạo Nghị Định không đề cấp đến Thượng Hội.

(Lưu ý Sáu Đạo Nghị Định lập năm 1930 trước khi Đức Hộ Pháp hoàn thành Pháp Chánh Truyền Chú Giải “02-4-1931”. Các Đạo Nghị Định sắp xếp trật tự trong Đạo rất rõ ràng đó là nguồn sáng để soi rất nhiều gốc khuất trong đạo sự những năm sau đó và mãi mãi trong nền đạo. Khi đó các vị Chánh Phối Sư vẫn chưa phế đời hành đạo nên Đạo Nghị Định số 5 mới dạy Phối Sư phải hành đạo tại Tòa Thánh) (6)

1.2/- Ngày 19-12-1930 “30-10-Canh Ngọ” Đức Hộ Pháp cầm quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài lập Đạo Nghị Định và Đức Lý Thái Bạch ký tên phê y.

ĐIỀU THỨ NHỨT: Thượng Đầu Sư đã cầm quyền Giáo Tông về phần xác, tức là nắm quyền Tòa Tam Giáo Cửu Trùng Đài; vậy thì Thượng Đầu Sư là Chánh Tòa của Tòa Tam Giáo kỳ mùng 1 tháng chạp nầy cho tới ngày lập Nghị Định khác nữa.

ĐIỀU THỨ HAI: Ngọc Chánh Phối Sư quyền Ngọc Đầu Sư làm Tòa Tạp Tụng, cầm quyền Kiểm án và Buộc án cùng Thượng Sanh.

ĐIỀU THỨ HA: Chánh Thượng Phối Sư quyền Thượng Đầu Sư và Chánh Thái Phối Sư quyền Thái Đầu Sư làm nghị án.

ĐIỀU THỨ TƯ: Cửu Trùng Đài, Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh đặng trạch cử 2 người thay mặt làm Thẩm án. (7)

(Lưu ý cùng là Nghị Định nhưng chủ thể lập khác nhau: sáu Đạo Nghị Định do Đức Lý lập, Nghị Định trên đây do Đức Hộ Pháp lập)

1.3/- Châu Tri 01 của Thượng Chánh Phối Sư (Thượng Tương Thánh) ngày 02–02–1931 “15-12-Canh Ngọ” về việc chuẩn bị mở Đại Hội Nhơn Sanh lần đầu tiên.

4. Kỳ nhóm 15 tháng 7 mỗi năm, Hội Ngánh nhơn sanh công cử người thay mặt về Tòa Thánh mà nhóm Đại hội trong kỳ rằm tháng 10 mà bàn tính chung hết thảy việc đạo.

Người thay mặt nầy sẽ chọn trong hàng Chánh, Phó Trị Sự, Thông Sự hay là trong hàng tín đồ cũng được, miễn là người có đạo đức, trí thức thì tốt. Mỗi Họ cử từ 1 đến 5 người thay mặt là nhiều, tùy số tín đồ nhiều ít. ….

… Năm nay mới khởi sự sắp đặt nên kỳ nhóm 15 tháng giêng, hội Ngánh mỗi Thánh Thất hãy cử người thay mặt đặng sẽ có nhóm Đại Hội ngoại lệ nơi Tòa Thánh mà lập Hội Nhơn Sanh cho hoàn toàn. Người được cử thay mặt 1 năm, song đặng tái cử hoằi. Người được cử lần đầu nầy thay mặt tới ngày 15 tháng 7 năm Nhâm Thân.

Nhờ chư Hiền hữu ân cần giúp thi hành liền Châu Tri nầy. Tôi rất cám ơn. (8)

1.4/- Ngày 10-2-1931, (24-12-Canh Ngọ) Châu Tri 06 của Thượng Đầu Sư (Thượng Trung Nhựt).

Từ ngày khai Đạo tới giờ, nền Đạo biết bao khổ não truân chuyên, lớp bị đè nén, lớp bị phàm tâm của chúng ta vì mang nặng thi hài nên chưa hòa nhã êm tịnh, chưa sắp đặt Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh cho rành rẽ. Rồi đây sẽ có Hội Nhơn Sanh, mỗi việc chi phải thi hành trong năm đều bàn tính trước với Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh mới khỏi lầm lạc.

Lần lần chư vị sẽ được Châu Tri chỉ biểu cách sắp đặt Hội Nhơn Sanh của mỗi Họ Đạo. (9)

1.5/- Đại Hội Nhơn Sanh lần 1: Ngày 23-11-1931 “15-10-Tân Vị” mở Đại Hội Nhơn Sanh.

Diễn văn của Ngài Thượng Chánh Phối Sư, Thượng Tương Thanh.

Cách vài tháng sau khi mở cuộc Đại lễ Khai Đạo năm Dần nơi chùa Thiền Lâm tự (Gò Kén) thì bị người bức sách đòi chùa lại. Hội Thánh lo hối hả mua sở đất cất Tòa Thánh tạm hiện giờ, dời qua đây là ngày 12 tháng 2 năm Đinh Mẹo.

Có Thánh Ngôn khi đó Thầy đã dạy phải lập Tòa Thánh nơi Tây Ninh đây mà thôi vì là Thánh địa, không nên dời đi tỉnh khác. Thiệt quả như vậy, là tuy Đạo lúc đó còn ít, lại bị nhiều việc khó khăn, mà nhờ nơi đây mở mang thêm rất mau. Trong 4 năm rồi, dẫu bị nhiều lần khảo nặng, thế mà Đạo cũng cứ một ngày lên thêm một đồ sộ…

… Hội Thánh tới ngày nay có mua sắm được một số đất 96 mẫu để làm Thánh địa cất Tòa Thánh và các Viện, một sở kế cận 50 mẫu để cho Đạo hữu cất nhà ở và lập Nghĩa địa.

Hai sở đất nầy khi mua để tên bà Nữ Chánh Phối Sư là Lâm Thị Thanh và tên tôi là Nguyễn Ngọc Tương đứng bộ chung, thế mặt cho Đạo.

Muốn tránh sự bất hảo xảy đến ngày sau, tôi có làm cho Hội Thánh cầm một Tờ khai rằng: Tiền mua đất nầy Hội Thánh trả hết, tôi có đứng thế mặt mà thôi

… Tôi về Tòa Thánh gặp Đạo đương phải qua một lối rất khó khăn, trong ngoài đều công kích. Ngày nay đối với trong, thế coi hơi dịu, song than ôi! Một nhánh to đã sắp tách rã làm cho mình cội phải chịu nhiều đau đớn…

… TÓM LẠI.

Các việc khó khăn, giận hờn, kích bác, chia rẽ, là cái nạn khảo về thất tình của Đạo đương buổi nầy.

Thương hại thay một phần Chức sắc Thiên phong và tín đồ, vì vội nghe, vội tin rồi vội giận, mà đã phải bị ngã tại tình nầy, cũng như đời Mạt Thương, chư Tiên bị nghe Thân Công Báo mà phải vào Bảng Phong Thần vậy.

Muốn qua khỏi cái nạn khảo Thất Tình, phải tập tâm tánh theo gương từ bi bác ái của Thầy mới đặng. Sự thương bao trùm là Đạo, làm cho rực rỡ linh hồn đem vào đường chánh, còn sự tham lam giận hờn ganh ghét, kích bác nghịch lẫn nhau, lại làm cho linh hồn thêm lu lờ mà dẫn đến nẻo tà, dắt vào nơi u khổ cùng đồ. Tiên Thánh nhiều khi cũng bị giận mà phải đọa xuống trần, huống chi mình ở nơi trần mà còn chác giận nữa thì làm sao mà mong lên Tiên cảnh đặng.

Phải tập bỏ cho được cái tham, sân, ố; ai kêu phong Hiền phong Thánh cũng đừng ham, nói nặng nhẹ chửi mắng cũng đừng giận. Kích bác nghịch hẳn với mình cũng đừng ghét. Hễ nhẫn được như vậy thì cái lòng thương nó được thong thả mà vượt lên cao, rồi tràn ra bao phủ từ nhơn loại thú cầm cho tới côn trùng thảo mộc. Cái thương bao trùm là chìa khóa mở cửa Bạch Ngọc Kinh đó.

Vậy tôi khuyên chư Hiền hữu nhóm rồi, mỗi vị về truyền lại Đạo hữu trong Họ mình hay biết, phải tránh cái thất tình, nhứt là cái tham với cái giận, phải hành theo Tân Luật, đừng nghịch với một ai và cũng phải lấy lòng bác ái mà khuyên nhủ xung quanh mình, ai lạc bước mau trở lại đường ngay nẻo sáng thì mới hưởng đặng ân xá của Đại Đạo Tam Kỳ. (10).

Lưu ý: Đây là bài diễn văn của Ngài Thượng Tương Thanh, chưa phải là Vi Bằng Đại Hội Nhơn Sanh. Theo Nội Luật Tòa Thánh cho biết Đại Hội Nhơn Sanh ngày 24-11-1931 đã thông qua Nội Luật Tòa Thánh, (sau đó Hội Thánh ban hành ngày 20-12-1932)

1.6- Đại Hội Hội Thánh 24, 26 tháng 11-1931.

Hội Thánh nhóm ngày 16 và 18 tháng 11 năm Tân Vì (24, 26 tháng 11-1931). Đại Hội Hội Thánh bàn nhiều việc trong đó của mục thông qua Nội Luật Tòa Thánh.

1.7/- Đức Chí Tôn dạy về Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh (23-12-1931)

Ngày 23-12-1931 (15-11-Tân Mùi), Thầy dạy về Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh (Hội Nhơn Sanh, Hội Hội Thánh và Thượng Hội): … Thầy đã lập hình-thể hữu-vi của Thầy, nghĩa là Hội-Thánh của Đại-Đạo ngày nay rồi thì Thầy cũng phải ban quyền-hành trọn-vẹn của Thầy cho hình-thể ấy, đặng đủ phương tận-độ chúng-sanh …

Phận biệt: Chánh Trị Đạo và Hành Chánh Đạo.

Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh là Chánh Trị Đạo hay Chánh thể của Đạo.

Pháp Chánh Truyền là dạy về Hành Chánh Đạo. (11)

(Xin xem nguyên văn ở phụ đính 1)

1.8/- Thượng Hội ngày 04-01-1932.

Thượng Hội nhóm ngày 27, 28, 29 tháng 11 năm Tân Vì (4, 5, 6 Janvier 1932). Thượng Hội bàn luận nhiều việc trong đó có mục thông qua Nội Luật Tòa Thánh.

Như vậy tính đến đây (06-01-1931) Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đã có đủ Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh lần đầu tiên.

Thời điểm nầy Hội Thánh chưa soạn xong nội luật cho các hội. Hội Nhơn Sanh và Hội Hội Thánh thì căn cứ vào Đạo Nghị Định số 2 và số 5. Thượng Hội thì căn cứ vào Thánh Ngôn ngày 23-12-1931 của Đức Chí Tôn. Cả ba hội đều do Hội Thánh tổ chức và nhìn nhận nên có đủ pháp lý trong nèn Đạo.

1.9/- Ban hành Nội luật Thượng Hội ngày 27-02-1932 (ngày 22-01-Nhâm Thân). (12)

(Lưu ý: Thượng Hội có Hội Trưởng, Phó Hội Trưởng và Hội viên nên quyền hành khác hẳn với Nghị Trưởng, Phó Nghị Trưởng và Nghị viên ở Hội Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh. 

Thí dụ: Không được phép điền thế Hội Trưởng và Phó Hội Trưởng vì hai quyền nầy hiệp lại là quyền Chí Tôn tại thế.

Quyền hành của hai vị Hội Trưởng và Phó Hội Trưởng là quyền Chí Tôn tại thế nên trên quyền của cả Ba Hội.) (13)

1.10/ Châu Tri 58 ngày 20-10-1932 (Chuẩn bị Đại Hội Nhơn Sanh lần 2).

Ngài Thượng Tương Thanh:

Chư Hiền hữu, Tôi xin nhắc cho chư Hiền hữu nhớ rằng, kỳ 15 tháng 10 An Nam tới đây sẽ có nhóm Hội Nhơn Sanh thường năm mà bàn tính việc Đạo.

Chiếu theo Châu Tri số 1 ngày 02–02–1931, tôi tưởng chư Hiền hữu các Thánh Thất đã lo cử lại rồi Phái viên thay mặt cho Họ Đạo đặng đi nhóm kỳ 15 tháng 10 nầy. … (14)

1.11/- Lời giảng của Thượng Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh.

Lời giảng: Của Thượng Chánh Phối sư tỏ bày việc Đạo trước Hội Nhơn Sanh nhóm tại Tòa Thánh Tây Ninh lần thứ nhì ngày 15–10 Nhâm Thân (12–11–1932) …

… Tôi mừng cho chư Đạo hữu đã lướt qua khỏi một cơn đại khảo rồi. Những Đạo hữu có phước nầy nên để cái tâm từ thiện mà đưa cái tư tưởng thương yêu, hòa hiệp luôn luôn cho những Đạo hữu vô phần, rủi bị ngã vì cơn khảo đảo.

Chúng ta nhóm kỳ nầy là năm thứ nhì, chúng ta ngảnh lại nhớ mấy vị Đạo hữu đã qui liễu trong năm! Chúng ta hãy hiệp tâm một phút mà cầu nguyện chư linh hồn cả thảy được hưởng phước tiêu diêu. Có khi những chơn hồn ấy được thong thả cũng vui theo mà ám trợ chúng ta trong lúc chúng ta bàn tính việc Đạo…

… Nền Đạo thiệt đã chinh nghiêng cũng vì hạnh đức của một phần Chức sắc trong Hội Thánh còn thiếu kém nên nhơn tâm chưa trọn phục. Ấy cũng là lẽ thường vì khép vào việc tu hành mới có mấy năm làm sao mà đến bực trọn lành, không lầm lạc được. Cái xác phàm rèn tập còn non ngày tháng, chưa thoát khỏi những thất tình lục dục nên phải còn lâm vấp….

Việc Minh Chơn Lý: Nơi Hậu Giang, ông Phối Sư Thái Ca Thanh cũng vì giận hờn sự thiếu kém đạo đức đó, mà tách ra kích bác mấy vị Đại Thiên phong của Hội Thánh Tây Ninh… (15)

Lưu ý: Đại Hội Nhơn Sanh lần 2 diễn ra khi Hội Thánh chưa ban hành Nội Luật Hội Nhơn Sanh, nhưng do Hội Thanh căn cứ vào Đạo Nghị Định để tổ chức và nhìn nhận nên có pháp lý đầy đủ.

1.12/- Nội Luật Tòa Thánh

Ngày 20-12-1932 (15-02-Nhâm Thân) Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt ký tên và Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc chứng kiến đó là Quyền Chí Tôn tại thế. (16)

Nội luật được lập ra do Ban Ủy Viên lập Nội Luật, nhóm ngày 10-10- Tân Vì (19-11-1931). (Bước 1)

Sau đó Hội Nhơn Sanh nhóm ngày 15-10-Tân Vì (23-11-1931) thông qua.

Đây là Hội Nhơn Sanh đầu tiên của Đạo Cao Đài. Căn cứ vào Đạo Nghị Định Số 5 (24-11-1930). Điều thứ tư. Thượng Chánh Phối Sư Chủ Tọa Hội Nhơn Sanh. (Bước 2) (17)

Hội Thánh nhóm ngày 16 và 18 tháng 11 năm Tân Vì (24, 26 tháng 11-1931). (không tìm thấy vi bằng nầy). (Bước 3)

Đây là Hội Hội Thánh đầu tiên của Đạo Cao Đài. Căn cứ vào Đạo Nghị Định Số 5 (24-11-1930), Điều thứ sáu: Thái Chánh Sư, làm Chủ Tọa Hội Thánh.

Thượng Hội nhóm ngày 27, 28, 29 tháng 11 năm Tân Vì (4, 5, 6 Janvier 1932). (Bước 4).

Thượng Hội mở ngày 04-01-1931 có trước ngày ban hành Nội luật Thượng Hội (27-02-1932). Nhưng vẫn có giá trị đầy đủ bởi vì căn cứ vào Thánh Ngôn của Đức Chí Tôn dạy ngày 23-12-1931 và Hội Thánh Cao Đài đã nhìn nhận.

Ngày 20-02-1932 Đức Quyền Giáo Tông ký tên và Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc Chứng kiến. Đó là Quyền Chí Tôn tại thế thông qua. (Bước 5)  

05 bước trên đây là một cột mốc quan trọng để hiểu pháp lý về quyền của Hội Thánh trong giai đoạn cả Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh đều chưa ban hành Nội Luật.

(Lưu ý Cùng năm 1932 có hai lần mở Thượng Hội.

Thượng Hội lần một mở ngày 04-01-1932 có trước ngày ban hành Nội luật Thượng Hội (27-02-1932).

Thượng Hội lần hai do Hội Thánh tổ chức ngày 25-12-1932.

(Thượng Hội ngày 16-4-1933, sai với Nội luật và Hội Thánh cũng không nhìn nhận nên không có pháp lý trong Đạo)

1.13/- Họp Thượng Hội lần 2 (25-12-1932).

Theo trình tự sau Đại Hội Nhơn Sanh là Đại Hội Hội Thánh nhưng Chúng Tôi chưa tìm thấy vi bằng kỳ hội nầy. (Đại Hội Hội Thánh lần một, biết ngày tháng nhưng không tìm thấy Vi bằng. Đại Hội Hội Thánh lần hai không biết cả ngày tháng. Điều đó có nghĩa là Chúng Tôi bị giới hạn, còn hai kỳ Hội Hội Thánh đó vẫn diễn ra đúng pháp luật đạo)

Vi bằng Thượng Hội ngày 25-12-1932 đăng tại link (18)

Thượng Hội ngày 16-4-1933 sai Nội Luật và Hội Thánh Cao Đài không nhìn nhận.

Đại Hội Vạn Linh ngày 11-6-1933 do Ngọc Đầu Sư Ngọc Trang Thanh tổ chức sai pháp lý vì không có tên trong nền Đạo và không do Hội Thánh tổ chức.

1.14/- Ban hành ba bộ luật.

Ngày 22-12-1934 (16-11-Giáp Tuất), Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng ban hành ba bộ luật: Luật Lệ Chung Các Hội, Hội Nhơn Sanh Nội Luật và Hội Thánh Nội Luật.

Như vậy Đạo Cao Đài đã có đủ Luật Lệ của Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh.

Mốc lịch sử & pháp lý quan trọng: Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt đăng tiên 19-11-1934 (13-10-Giáp Tuất). Sáng ngày 02-12-1934 Liên Đài nhập bửu tháp. Chiều cùng ngày Hội Thánh mở phiên họp công cử Đức Hộ Pháp kiêm nhiệm Quyền Chưởng Quản Cửu Trùng Đài.

Châu tri số 21, ngày 16-12-1934 viết.

Chiếu theo tờ vi bằng kỳ nhóm Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài tại Toà Thánh ngày 26-10- Giáp Tuất (dl:02-12-1934) thì quyền hành Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài đều giao cho Đức Hộ Pháp cầm, ấy là tuân theo thể pháp định cho Hộ Pháp phải kiêm quyền hành Giáo Tông khi Giáo Tông qui vị, cũng như Giáo Tông phải kiêm quyền hành Hộ Pháp khi Hộ Pháp qui vị.

Sự xây trở trong nền Chánh Trị của Đạo chẳng qua là vì Thiên Thơ tiền định, … (Hết trích)

Đây là lần thứ hai Đức Hộ Pháp cầm quyền Chí Tôn tại thế.

 Theo lịch sử Đạo Cao Đài, Đức Hộ Pháp cầm Quyền Chí Tôn tại thế lần nhứt khi chính Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt giao quyền Chưởng Quản Cửu Trùng Đài cho Đức Hộ Pháp.

Tờ Giao Quyền số 24, ngày 29-01-1934 viết:

1/- Tôi đã nhứt định an dưỡng một ít lâu thì cả trách nhiệm Quyền Giáo Tông của Tôi đều tạm giao cho Hiền Hữu. Vậy từ đây Hiền Hữu đã cầm trọn hai quyền Đạo nơi tay, thì việc chi cũng do Hiền Hữu tự quyền định liệu rồi ban mạng lịnh cho toàn đạo tuân cứ.

Ngày 22-2-1934 Đức Hộ Pháp giao trả quyền hành Giáo Tông lại cho Ngài Thượng Trung Nhựt. 

Thiêng Liêng nhìn nhận việc hành đạo của Đức Hộ Pháp.

Thượng Đế nhìn nhận: Tháng 8-1935 Thượng Đế ban Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo cho Hội Thánh Cao Đài. Thượng Đế cũng dạy lập Bàn Thờ Hộ Pháp với 11 lễ phẩm. Đức Hộ Pháp được lịnh viết Kinh Giải Oan (phần Thiên Đạo); viết 10 bài kinh trong phần Thế Đạo. Cộng chung 11 bài, tương ứng với 11 lễ phẩm trên Bàn Thờ Hộ Pháp.

Đức Lý Giáo Tông nhìn nhận: TNHT Q2, trang 200, bản 1972. Ngày 13-11-1935.

(Hộ-Pháp bạch: Thiên-thơ đã đổi, đệ-tử xin giao quyền hành của Quyền-Giáo-Tông lại cho Ngài đặng Ngài đủ oai cầm Thiên-thơ vững chặt.)

- Cuời, Lão e cho, một là Lão đã cho, không lẽ lấy lại, hai là hành-pháp thì dễ, hành-hình thì khó, không có nửa quyền trị thế của Lão nơi tay thì Hộ-Pháp có thế nào điều hành Hội-Thánh cho đặng. Ấy vậy cứ để y. (Hết trích).

Trên thực tế là Đức Lý cầm tay chỉ việc dạy Đức Hộ Pháp xây dụng Tòa Thánh Tây Ninh trong 20 năm (1936-1955) là một công trình không có bản vẽ. Đây là bằng chứng thực tế phù hợp với những bằng chứng khác.

Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh nhìn nhận: Năm 1937 Hội Thánh Cao Đài tổ chức Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh. Hội Quyền Vạn Linh tín nhiệm việc Đức Hộ Pháp cầm quyền Chí Tôn tại thế.

 Các chi phái gián tiếp nhìn nhận: Trong khi cầm Quyền Chí Tôn tại thế Đức Hộ Pháp đã ban hành Luật Lệ Chung Các Hội, Hội Nhơn Sanh Nội luật, Hội Thánh Nội Luật (1934). Lập ra phẩm Luật Sự Hiệp Thiên Đài (1935). Viết 11 bài kinh trong Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo. Phê duyệt Đạo Luật Mậu Dần (1938).

Nhiều chi phái đã sao chép Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo cũng như các điều luật trên đây về sử dụng; đó là cách gián tiếp nhìn nhận Đức Hộ Pháp cầm Quyền Chí Tôn tại thế.

Bài viết liệt kê vắn tắc như trên để quý vị kiểm chứng.

2/- Giai đoạn ban hành đầy đủ Luật Lệ của Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh.

Theo sự tìm hiểu của Chúng tôi sau khi ban hành luật về Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh đầy đủ có 06 kỳ Hội Quyền Vạn Linh.

Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh năm 1937.

(Căn cứ vào nguyện ước của Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh năm 1937 Hội Thánh soạn ra Đạo Luật Mậu Dần “1938” và Đức Hộ Pháp cầm quyền Chí Tôn tại thế để phê chuẩn. Điều nầy cũng giống như cách ban hành Nội Luật Tòa Thánh: Ba Hội Lập Quyền bàn định xong thì dâng lên cho Quyền Chí Tôn tại thế quyết định.)

Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh năm 1946.

Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh 1951.

Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh năm 1964.

Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh năm 1967.

Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh năm 1974.

3/- Kết luận.

 Đức Hộ Pháp day: …mình phải ráng học cần mẫn học. Ấy là một điều chẳng phải dễ nhưng phải làm cho đặng. Làm đặng thay thế ngôn ngữ cho Đức Chí Tôn, đem chơn truyền của Ngài để vào tinh thần của nhơn loại; nếu mình làm không đặng cũng như mình làm cho Đức Chí Tôn câm sao!!! Mình phải làm đặng thay thế cho ngôn ngữ cho Ngài, nếu mình làm không đặng thì thay thế cho Ngài không đặng. Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống bài 26, đêm 07-3-1949 (08-02-Kỷ Sửu).

Theo đó Đức Hộ Pháp phải ráng học cho kỳ được, nhưng không phải dễ; vậy chúng ta cũng nên trao đổi cách học với nhau.

Nguyên lý Đạo Cao Đài đi từ hữu hình đến vô vi nghĩa là bắt đầu đi từ cái cụ thể nhìn thấy được, kiểm chứng được để đi cái ý nghĩa sâu xa bên trong nghĩa là phần hiểu biết, mặc khải riêng của từng người. Hữu hình thì có hạn định còn vô vi thì không có hạn định.

Do vậy Đạo Cao Đài có Thể pháp và Bí pháp. Thầy dạy khai Thể pháp trước, bí pháp sau.

Theo thiển ý muốn hiểu đúng một sự việc chi, cho dù là đơn giản hay phức tạp phải gắn sự việc vào trong hệ thống Thể pháp của Đạo để quan sát, phân tích và nhận định. Khi nhận định xong thì phải tự đánh đổ, xô ngã nó; nếu mình đã tìm hết cách để phản biện chính mình mà nhận định của mình vẫn đứng vững thì có thể là nó đúng.

Trong quá trình căn cứ vào Thể pháp để tự phản biện thì yếu tố đầu tiên phải xét là có đúng pháp lý của Đạo Cao Đài do Hội Thánh ban hành hay không? Khi xét pháp lý của Đạo Cao Đài thì dĩ nhiên là chỉ có những kinh sách, công văn hay công trình kiến trúc được Hội Thánh ban hành hay nhìn nhận.

Nếu đúng pháp lý thì mới xét đến phần nội dung. Nói theo ngôn ngữ pháp lý hiện đại là qua được vòng gởi xe, mới xét tới vòng trong. Không qua được vòng gởi xe hay vòng loại thì không cần xét tới nội dung./.

 

Các chú thích.

(1)/- https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2025/07/5893-loi-minh-hay-tien-e-co-ban-cua-ao.html#more

(2)/- https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2025/09/6031-chau-tri-50-1932-thuong-chanh-phoi.html#more

(3)/- https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2021/09/3517-vi-bang-6096-uc-chi-ton-cam-co-but.html#more

(4)/- https://vietnamthoibao.org/vntb-co-quan-pho-thong-giao-ly-can-cuoc-nhiem-vu/

(5)/- https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2025/09/6028-tra-loi-ban-oc-uc-ly-thai-bach.html#more

(6)/- https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2020/12/3296-bat-ao-nghi-inh.html#more

(7)/- https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2024/10/5458-nghi-inh-phan-quyen-va-e-cap-en.html#more

(8)/- https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2024/10/5456-chau-tri-so-1-1931-chuan-bi-mo-ai.html#more

(9)/- https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2024/10/5451-chau-tri-so-6-tam-quan-trong-cua.html

(10)/- https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2024/10/5452-dien-van-cua-thuong-chanh-phoi-su.html#more

(11)/- https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2021/03/3398-vi-bang-1396-cua-hte-tkp.html#more

(12)/- https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2021/01/3301-thuong-hoi-noi-luat.html#more

(13)/- https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2019/11/2954-thiet-tuong-cua-ao-cao-ai-la-gi.html#more

(14)/- https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2025/09/6032-chau-tri-58-1932-thuong-chanh-phoi.html#more

(15)/- https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2025/09/6026-ai-hoi-nhon-sanh-12-11-1932-lan-2.html#more

(16)/- https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2020/01/3040-noi-luat-toa-thanh-1932_3.html#more

(17)/-  https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2024/10/5452-dien-van-cua-thuong-chanh-phoi-su.html#more

(18)/- https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2021/10/3567-hop-thuong-hoi-nam-1932.html#more

 

 

 

Phụ đính 1.

THÁNH NGÔN CỦA ĐỨC CHÍ TÔN.

Tây-Ninh (Thảo-xá Hiền-Cung), ngày 23 Décembre 1931.

Thầy, các con

Thầy lấy làm vui được gặp các con đủ mặt ngày-nay mà hầu Thầy.

Các con nghe lời dặn cần-yếu nầy, mà làm phận-sự các con cho vẹn vẻ cùng Thái-Bạch.

Các con phải nhớ rằng toàn Thế-giới Càn-khôn, chỉnh có hai quyền: trên là quyền-hành Chí-Tôn của Thầy, dưới là quyền-hành của sanh-chúng. Thầy đã lập hình-thể hữu-vi của Thầy, nghĩa là Hội-Thánh của Đại-Đạo ngày nay rồi thì Thầy cũng phải ban quyền-hành trọn-vẹn của Thầy cho hình-thể ấy, đặng đủ phương tận-độ chúng-sanh, còn các con cả thảy đều đứng vào hàng sanh-chúng, dưới quyền-hành chuyển thế của đời, nghĩa là toàn nhơn-loại đồng quyền cùng Thầy, mà tạo-hóa vạn-linh vốn là con-cái của Thầy, vậy thì vạn-linh cũng có thể đoạt-vị vào hàng Thần, Thánh, Tiên, Phật đặng.

Trong quyền-hành ấy có nhiều đẳng-cấp, nên khỏi phải chịu phẩm Người: ấy vậy Người là chủ-quyền của vạn-linh. Thầy nói rõ: quyền Chí-Tôn là Thầy, quyền Vạn-linh là sanh-chúng, ngày nào quyền-lực Chí-Tôn đặng hiệp một cùng Vạn-linh thì Đạo mới ra thiệt-tướng. Thầy đã ban quyền-hành Chí-Tôn của Thầy cho hai đứa làm đầu Hội-Thánh là Giáo-Tông cùng Hộ-Pháp. Vậy thì quyền-hành Chí-Tôn của Thầy đặng trọn-vẹn khi Giáo-Tông cùng Hộ-Pháp hiệp một. Còn cả nhơn-loại thì là quyền lực Vạn-linh. Quyền-hành Chí-Tôn của Thầy, duy có quyền-hành Vạn-linh đối-phó mà thôi.

Thái-Bạch hằng giận các con rằng: mọi điều chi nó đã hiệp đồng cùng Hộ-Pháp mà ban-hành, thì các con lại còn khi lịnh mà xem rẻ-rúng. Vậy thì từ đây hễ có mạng-lịnh chi đã đủ hai đứa nó hạ-truyền thì các con phải hội đủ nhơn-sanh Hội-Thánh và Thượng-Hội mà xét nét cho cặn-kẽ phân-minh, đặng thi hành phận-sự.

Thái-Bạch đã hứa cùng Thầy rằng, qua ngày Tòa Tam-Giáo nữ-phái rồi, thì nó sẽ phong Thánh thêm nữa, Các con rán mà chìu theo lòng nó nghe.

Thầy ban ơn cho các con.

 Thăng

HẾT.

 

 

 

 

.