ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ.
&&&
THƯỢNG HỘI.
NỘI LUẬT.
Toàn Thế Giới Càn Khôn chính có hai quyền. Trên
thì là quyền hành CHÍ TÔN của ÐẤNG TẠO HOÁ. Dưới là quyền hành của VẠN LINH.
Nghĩa là sanh chúng.
Quyền hành CHÍ TÔN trọn nơi thế nầy thì là tại
quyền Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp một. Hai bên phản khắc nhau thì Chánh Trị Ðạo
phải bị đổ.
Quyền hành VẠN LINH nghĩa là của sanh chúng đều
có đủ trọn vẹn nơi THƯỢNG HỘI, HỘI THÁNH VÀ HỘI NHƠN SANH hiệp đồng. Nếu ba hội
phản khắc nhau thì quyền hành ấy tiêu huỷ.
Trong Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ có ba Ðài:
CỬU TRÙNG ÐÀI là hình thể phần xác vì Ðấng Chí
Tôn không có xuống thế với xác thân trong buổi khai Ðạo nơi miền Á Ðông kỳ thứ
ba nầy (3me Amnistie de DIEU en Orient).
Lại dùng huyền diệu vô vi bí mật cơ bút y theo
thiên thơ tiền định mà khai và truyền Ðạo.
HIỆP THIÊN ÐÀI là khí, là khí lực nghĩa là
luồng điển quang liên kết cả Thánh Ðức cùng xác thịt (Lien de relation ou
flamme divine) làm trung gian hiệp Cửu Trùng Ðài với Bát Quái Ðài.
BÁT QUÁI ĐÀI là Thiêng Liêng là Thần (Puissance
maitresse qui dirige l’Univers ou autrement dit “Sagesse ou intelligence
D’vine”).
Cửu Trùng Ðài là hình thể hửu vi của Ðấng Chí
Tôn chia ba hội:
1- Hội Nhơn Sanh.
2- Hội Thánh.
3- Thượng Hội.
Ba hội nầy hiệp cùng nhau là hình thể hữu vi
của Ðấng Chí Tôn nên phải có quyền đặc biệt đủ phương độ tận nhơn sanh vô nền
Ðại Ðạo lo tu hành ra bực Thượng Sanh.
THƯỢNG HỘI.
Ðiều Thứ Nhất: Thượng hội thì có.
1- Giáo Tông …. Hội Trưởng.
2- Hộ Pháp ... Phó Hội Trưởng.
3- Thượng Phẩm ... Nghị viên.
4- Thượng Sanh …. Nghị viên.
5- Ba vị Chưởng Pháp. .. Nghị viên.
6- Ba vị Ðầu Sư Nam Phái. … Nghị viên.
7- Ðầu Sư Nữ Phái. ….. Nghị viên.
Ðiều Thứ nhì:
Mổi khi Hội thì mổi vị phải có mặt trừ ra khi
nào vì việc Ðạo mà phải đi xa thì mới được phép vắng mặt, khi nào có bịnh không
dự Hội được thì phải có thơ xin kiếu và chọn vị nào trong Hội thay mặt cho
mình.
Ðiều Thứ Ba:
Thượng Hội để xem xét và phê chuẩn.
1- Các điều của Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh bàn
luận về việc Ðạo.
2- Các điều ước (voeux) của Hội Nhơn Sanh và
Hội Thánh. Trừ ra các điều nào hoặc của Hội Nhơn Sanh mà Hội Thánh đã đánh đổ
hay là của Hội Thánh mà đã bị Hội Nhơn Sanh đã đánh đổ thì không được phép đem
vào Thượng Hội nếu không có đơn của hai ông chủ hội kêu nài.
3- Thượng Hội bàn luận và định đoạt các việc
cần gấp hoặc yếu trọng phải ban hành trong Ðạo.
Ðiều Thứ Tư:
Trừ ra mấy vị Ðại Thiên Phong có quyền trong
Thượng Hội chỉ trong điều thứ nhất thì không có ai khác được dự thính Thượng
Hội.
Ðiều Thứ Năm:
Thượng Hội chọn một vị Từ Hàng trong hàng Thiên
Phong Cửu Trùng Ðài từ Giáo Sư đổ lên.
Từ Hàng lo giử gìn giấy tờ sổ sách của Thượng
Hội và trước mổi kỳ Hội phải tùng Giáo Tông đặng lập chương trình và viết thơ
mời Hội khi Thượng Hội nhóm thì dự thính và lo biên các lời luận của mổi Hội
viên đặng chừng mãn hội tức cấp làm tờ kiết nhận mổi kỳ Hội với phải nhắc nhở
những điều Thượng Hội đã có định trước mà Hội viên quên trong lúc Hội nhóm.
Sau khi Hội nhóm phải lo phụ giúp Giáo Tông thi
hành các điều đã bàn định.
Ðiều Thứ Sáu:
Từ Hàng được lãnh phận sự công quả trong bốn
năm kể từ ngày Thượng Hội chọn.
Trong bốn năm nếu Từ Hàng không tròn phận sự
thì Thượng Hội chọn người khác thế. Nếu tròn công quả siêng năng đạo đức đủ khi
mãn bốn năm thì Thượng Hội cũng chọn cử lại nửa.
Ðiều Thứ Bảy:
Ba vị Ðầu Sư Nam phái và Ðầu Sư Nữ phái có
quyền cai trị về phần Ðạo và phần Ðời của chư môn đệ Chí Tôn thì phải lập tờ
phúc những điều bàn tính của Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh. Tờ phúc ấy phải đệ lên
cho Giáo Tông xét nét rồi đem ra Thượng Hội bàn tính trước Hội thường niên ít
nữa là 15 ngày.
Ðiều Thứ Tám:
Cả tờ giấy chi đem ra cho Thượng Hội phải cho
cả hội viên quan sát xét nét trước khi ngày Hội nhóm ít nửa là 7 ngày.
Ðiều Thứ chín:
Mổi vị hội viên có trọn quyền bàn cải các việc
đem ra hội đặng cho Giáo Tông và Hộ Pháp rõ thấu chân lý mà định quyền Chánh
trị của Ðạo. Thượng Hội cốt yếu là giúp Giáo Tông và Hộ Pháp hiểu thấu tâm lý
Nhơn Sanh và Hội Thánh đặng xây chuyển quyền hành Chí Tôn theo vạn linh ước
vọng.
Nếu muốn bàn cải việc chi thì xin phép ông Hội
Trưởng rồi chờ được phép mới mở lời bàn tính chớ nên cản lời của Hội viên khác
đương luận và tỏ ý kiến.
Thoản như có nghe một Hội viên bàn tính điều
chi không phù hạp với mình thì biên cho nhớ; rồi khi Hội viên ấy dứt tiếng mới
xin phép Hội trưởng đặng tỏ ý kiến của mình. Trong mổi việc đem ra bàn luận mổi
Hội viên được xin nói đến ba lần mổi lần không quá 5 phút đồng hồ hay là một
lần không quá 15 phút.
Ðiều Thứ Mười:
Trong mổi việc chừng cả Hội viên tỏ hết ý kiến
và bàn luận rồi thì Hộ Pháp và Giáo Tông có ý kiến chi thì mới bày tỏ ra sau
rốt. Chừng rồi Hội trưởng định bỏ thăm bên nào phần đông thì Thượng Hội tuân
theo.
Ðiều Thứ Mười Một:
Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp một thì là quyền Chí
Tôn nên không có bỏ thăm. Nếu cả ba hội phản khắc nhau thì quyền Chí Tôn nghĩa
là của Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp một chủ định thể nào thì Chánh Trị của Ðạo y theo
thế ấy.
Còn như quyền hành Giáo Tông và Hộ Pháp phản
khắc nhau nửa thì cả thảy về chánh trị và chúng sanh đều bị huỷ bỏ.
Chừng ấy Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh, Thượng Hội
phải nhóm lại mà định đoạt sửa cải lại nửa.
Nếu có việc chi trái Luật Ðạo thì Giáo Tông và
Hộ Pháp hiệp cùng nhau đặng trọn quyền ban truyền xuống cho Ðầu Sư định đoạt
lại.
Ðiều Thứ Mười Hai:
Mổi năm sau ngày lễ Noel thì nhóm Thượng Hội
thường lệ đặng xem xét và phê chuẩn:
Các việc Ðạo đã ban hành trong năm.
Các việc của Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh đệ lên.
Các việc Ðạo sẽ ban hành năm tới.
Sổ sách thâu xuất năm qua rồi.
Sổ thâu xuất và phỏng định năm tới.
Sổ trục xuất Tín đồ; án Toà Tam Giáo hình phạt;
và các việc tạp tụng Hoà Viện.
Cầu Phong.
Ðiều Thứ Mười Ba:
Ngoài Hội thường lệ thì ba tháng Thượng Hội
nhóm một lần.
Còn có việc gấp rút thì Hội Trưởng gởi tờ giấy
mời hội liền hay là gởi tờ hỏi ý kiến của chư Hội viên.
Ðiều Thứ Mười Bốn:
Sau khi hội Thượng Hội thì Giáo Tông và Hộ Pháp
phải đình Hội lại 15 phút đồng hồ đặng hai người vào Ðại Ðiện mật nghị rồi phải
trở ra cho Thượng Hội hay những điều của hai đàng nhứt tâm quyết định.
Ðiều Thứ Mười lăm:
Ngày sau có điều chi cần ích cho Thượng Hội thì
sẽ đem thêm vô Nội Luật nầy.
Làm tại Toà Thánh Ngày 22-Giêng. Nhâm
Thân .
(27- Février 1932).
Hộ Pháp. Ký tên: Phạm Công Tắc. |
Quyền Giáo Tông. Ký tên: Thượng Trung Nhựt. |
Ðánh máy lại theo bản in năm Bính Tý (1936):
THÁI HOÀ ẤN QUÁN – TOÀ THÁNH TÂY NINH.
Ngày 04-3-Ất Dậu. (2005).