Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ |
(Thập
Nhị Niên) |
Tòa
Thánh Tây Ninh |
|
Nhóm tại Tòa Thánh ngày
mùng 8 tháng Giêng năm Mậu Dần (07-02-1938).
Khi Lễ Viện rước Đức Hộ
Pháp đến nhà Hội, chư Chức Sắc Thiên Phong Nam Nữ đồng đứng dậy chào mừng.
Có mặt:
HIỆP
THIÊN ĐÀI |
||
|
Đức
Hộ Pháp |
|
|
Ông
Khai Pháp Trần Duy Nghĩa |
|
|
Ông
Tiếp Lễ Nhạc Quân Trần Quang Thế |
|
|
Ông
Tả Phan Quân Trang văn Giáo |
|
|
Ông
Truyền Trạng Nguyễn Tấn Chức |
|
|
Ông
Sĩ Tải Đổ Quang Hiển |
|
|
Ông
Sĩ Tải Huỳnh văn Đại |
|
|
Ông
Sĩ Tải Nguyễn văn Hợi |
|
|
Ông
Sĩ Tải Võ Thành Quốc |
|
|
Luật
Sự Nguyễn văn Hoa |
|
CỬU
TRÙNG ĐÀI |
||
|
Nam
Phái: |
|
|
Ông
Qu. Ngọc Chánh Phối Sư Ngọc Trọng Thanh |
|
|
Ông
Qu. Thượng Chánh Phối Sư Thượng Chữ Thanh |
|
|
Ông
Qu. Thái Chánh Phối Sư Thái Phấn Thanh |
|
|
Giáo
Sư |
9
vị |
|
Giáo
Hữu |
13
vị |
|
Lễ
Sanh |
187
vị |
|
Nữ
Phái: |
|
|
Bà
Phối Sư Hương Hiếu |
|
|
Bà
Giáo Sư Hương Nhiều |
|
|
Bà
Giáo Sư Hương Quế |
|
|
Bà
Giáo Sư Hương Châu |
|
|
Giáo
Hữu |
6
vị |
|
Lễ
Sanh |
... |
Đức Hộ Pháp mời Chư
Thánh đứng dậy tụng kinh nhập hội, rồi để lời cám ơn chư Chức Sắc đương quyền
tựu về dự hội đông đủ, và dẫn giải các cơ quan trong nền Chánh Trị Đạo, tóm tắt
đại ý như vầy:
Hiện nay trong nền
Chánh Trị Đạo của Đức Chí Tôn có 4 cơ quan là:
1.
Hành Chánh
2.
Phước Thiện
3.
Tòa Đạo
4.
Phổ Tế
HÀNH CHÁNH là cơ quan để thi hành
các luật lịnh của Hội Thánh hoặc của chúng sanh dâng lên mà đã có Quyền Chí Tôn
phê chuẩn, nghĩa là buộc chúng sanh phải tuân y Luật Pháp mà đi trên con đường
Đạo Đức cho đặng thong dong, hòa bình, trật tự, hạnh phúc, an nhàn, tức là thật
hành cả khuôn viên luật pháp cho ra thiệt tướng.
PHƯỚC THIỆN là cơ quan bảo tồn
sanh chúng trên đường sanh hoạt nuôi sống thi hài, tức là cơ quan giải khổ cho
chúng sanh, tầm phương bảo bọc những kẻ tật nguyền, cô độc, dốt nát, ít oi,
hoặc giúp tay cho bên hành chánh thi hành Luật Pháp cho đặng dễ dàng trọn vẹn.
TÒA ĐẠO là cơ quan bảo thủ
Chơn Truyền, gìn giữ Luật Pháp, chăm nom chư Chức Sắc, Chức Việc và Đạo Hữu thi
hành phận sự, chở che những kẻ yếu tha, bênh vực những người cô thế, hoặc tiếp
cả sự uất ức bất công của toàn sanh chúng, tức là giữ nét công bình trên mặt
Đạo; lại cũng là một cơ quan giúp cho Hành Chánh, Phước Thiện và Phổ Tế thêm
oai quyền mạnh mẻ, tôn nghiêm đặc sắc.
Tóm lại là lập phương
bảo toàn sanh chúng khỏi điều thống thiết đau khổ với nét oai nghiêm của Chức
Sắc đương quyền hành chánh.
PHỔ TẾ là cơ quan để cứu vớt
hoặc độ rỗi những người lạc bước thối tâm, cùng an ủi khuyên lơn những kẻ đã bị
luật pháp buộc ràng mà phế vong phận sự, hay là độ rỗi những kẻ hữu tâm tầm
Đạo.
Tổng hợp 4 cơ quan nầy
lại gọi là toàn thể Chánh Trị Đạo.
Mỗi năm, ngày vía Đức
Chí Tôn, cả Chức Sắc Thiên Phong Nam Nữ có trách nhậm trong nền Chánh Trị Đạo
phải hội nhóm lại, đặng chia ra quan sát tờ Vi Bằng của Quyền Vạn Linh ước
vọng, cùng tầm phương pháp thật hành cho nên mặt Đạo.
Sau khi 4 cơ quan hiện
hữu của toàn thể Chánh Trị Đạo hiệp nhau lập Luật và quyết định phương pháp
thật hành thì buộc Hội Thánh phải thi hành y theo, tức nhiên nó sẽ thành Luật ,
vì bởi theo Thiên ý của Đức Chí Tôn là để trọn quyền cho Chúng sanh tự lập Luật
mà tu, nên các nguyện ước của Quyền Vạn Linh cầu nài và Quyền Chí Tôn công nhận
nhập thành với Tân Luật, gọi là Luật Hội Thánh.
Ấy vậy, bên Hành Chánh
Ông Ngọc Chánh Phối Sư hiệp cùng nhị vị Thái và Thượng Chánh Phối Sư lo sắp đặt
đặng quan sát.
Bên Phước Thiện thì có
Ông Khai Pháp H.T.Đ. làm đầu.
Bên Tòa Đạo thì chư vị
Sĩ Tải H.T.Đ. hiệp nhau lập Luật và định phương pháp thật hành.
Bên Phổ Tế thì có Giáo
Sư Thượng Đức Thanh và Bà Giáo Sư Hương Quế hiệp nhau lo lắng.
Đến ngày 14 nầy, phải
hội hiệp lại đặng chung nhau bàn định.
Tới đây hết điều bàn
tính, Đức Hộ Pháp truyền tụng kinh xuất hội.
Bãi Hội 11 giờ rưởi.
KỲ HỘI NGÀY 14 THÁNG
GIÊNG NĂM MẬU DẦN
Cũng như ngày hội
trước, khi Đức Hộ Pháp đến thì Chư Chức Sắc Thiên Phong đứng dậy chào mừng.
Đức Hộ Pháp đáp lời và
truyền tụng kinh nhập hội.
Sau khi Chư Chức Sắc
Thiên Phong an tọa, Đức Hộ Pháp bèn thuyết minh đại ý như vầy:
''Theo Pháp Chánh
Truyền thì buổi hội nầy Đầu Sư phải làm Chủ Tọa, đặng kiểm duyệt các lời quyết
định của 4 cơ quan trong toàn thể Chánh Trị Đạo, hầu dâng lên cho Quyền Chí Tôn
phê chuẩn. Song phẩm Đầu Sư không có, nên Bần Đạo phải tạm thay quyền Chủ Tọa.
Lại nữa, ngày nay Bần Đạo nắm Quyền Thống Nhứt thì Quyền Đầu Sư cũng thuộc về
Bần Đạo nữa".
Dứt lời, Ngài dạy chư
vị Sĩ Tải H.T.Đ. đọc Luật và các phương pháp thật hành, rồi Ngài dạy bên Hành
Chánh, bên Phước Thiện, và bên Phổ Tế, mỗi cơ quan luân phiên nhau đọc lời
quyết nghị đặng xem coi có phản khắc cùng nhau chăng, hay là đồng ý kiến.
Trọn hai ngày bàn cải,
đã đặng chư Chức Sắc Thiên Phong Nam Nữ trong toàn thể Chánh Trị Đạo bỏ thăm
công nhận Bộ Đạo Luật nầy, rồi Đức Hộ Pháp cầm Bộ Đạo Luật đưa lên tuyên bố
rằng:
"Ngày nay, trong
nền Đại Đạo của Đức Chí Tôn đã có cho Hội Thánh một bộ Đạo Luật nữa.
Vậy từ đây, mỗi năm sau
khi tom góp các nguyện ước của Quyền Vạn Linh rồi, thì mỗi cơ quan trong nền
Chánh Trị Đạo cũng do theo để mà định Luật cho Hội Thánh thi hành, hầu khỏi
điều phản khắc".
Đến đây hoàn tất mọi
việc, Đức Hộ Pháp để lời khen toàn thể Chức Sắc Thiên Phong Nam Nữ và truyền
tụng kinh xuất hội.
Bãi hội 8 giờ tối ngày
rằm.
Lập tại Tòa Thánh Tây
Ninh, ngày 16 tháng Giêng năm Mậu Dần (le 16 Février 1938).
Chứng
kiến |
Từ
Hàn |
|
Chủ
Tọa |
Sĩ
Tải H.T.Đ |
|
Phạm
Hộ Pháp |
Nguyễn
Văn Hợi |
|
|
|
|
Chư
Chức Sắc Thiên Phong toàn thể Chánh Trị Đạo đồng ký tên: |
||
CHỨC SẮC HÀNH CHÁNH: |
||
Quyền
Thái Chánh Phối Sư |
Thái Phấn Thanh |
|
Quyền
Thượng Chánh Phối Sư |
Thượng Chữ Thanh |
|
Quyền
Ngọc Chánh Phối Sư |
Ngọc Trọng Thanh |
|
Nữ
Phối Sư |
Hương Hiếu |
|
|
||
Khai Pháp H.T.Đ. |
|
|
CHỨC SẮC PHỔ TẾ: |
||
Chủ
Trưởng Nam Phái |
|
|
Phó
Chủ Trưởng Nữ Phái |
|
|
TÒA ĐẠO HIỆP THIÊN
ĐÀI: |
||
1./ |
Truyền
Trạng |
Nguyễn Tấn Chức |
2./ |
Sĩ-Tải
|
Đỗ Quang Hiển |
3./ |
Sĩ-Tải
|
Huỳnh Văn Đại |
4./ |
Sĩ-Tải
|
Nguyễn Văn Kiết |
5./ |
Sĩ-Tải
|
Nguyễn Văn Hợi |
6./
|
Sĩ-Tải
|
Võ Thành Quốc |
7./ |
Luật
Sự |
Nguyễn Văn Hoa |
CHƯƠNG THỨ I: HÀNH
CHÁNH
ĐẠO LUẬT
CHƯƠNG THỨ I: HÀNH
CHÁNH
ĐIỀU THỨ NHẤT:
Cầu Phong
LUẬT
Chức Sắc Thiên Phong
Nam Nữ toàn Đạo phải chịu dưới quyền công nhận của Vạn Linh mới đặng thăng chức
hay là Vạn Linh buộc tội mà bị sa thải.
1.
Chiếu
theo Thánh Giáo của Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, thì Chánh Trị Sự phải
có 5 năm công nghiệp đầy đủ với chức trách của mình, sau nữa phải có tờ kiết
chứng công nghiệp, tờ tánh hạnh, trường trai, đạo đức, đủ tư cách và phải độ
đặng 300 người nhập môn (chẳng kể số Đạo Hữu của cựu Chánh Trị Sự đã độ đặng)
thì mới đặng đem vào sổ cầu phong.
2.
Ngoài
ra, nếu còn vị nào có công nghiệp vĩ đại mà có đủ bằng cớ và chiếm đặng lòng
tín nhiệm của chúng sanh đồng dâng lên, hoặc công chúng hoan nghinh, thì cũng
đặng dự vào sổ cầu phong, nhưng buộc phải là người có chơn trong Đạo.
3.
Những
thông qui cầu phong phải gởi về Hội Thánh trước ngày 30 tháng 8 là ngày khóa
sổ. Sau khi thông qui cầu phong đã thành lập mà trong hàng Chức Việc xét mình
đủ công nghiệp, nhưng bị im ẩn hay là vì một duyên cớ nào khác mà phải bị lọt
sổ, thì đặng quyền kêu nài đến Tòa Đạo minh xét cho.
4.
Khi
đắc phong rồi phải về Hạnh Đường học Đạo, hoặc đi tập sự một thời gian, chừng
có đủ tài đức cầm quyền Hành Chánh rồi mới đặng thuyên bổ.
5.
Còn
vị nào đã đủ 5 năm công nghiệp mà bị phạm Luật Pháp mắc tội với Hội Thánh, thì
chẳng đặng dự vào sổ cầu phong.
6.
Thảng
như Chức Sắc nào vì tư tình tư nghĩa đem một người không xứng đáng, thì vị Chức
Sắc ấy phải chịu một hình phạt của Hội Thánh định tội.
7.
Vậy
khoản cầu phong năm tới, bên quyền Hành Chánh của Hội Thánh sẽ ra Châu Tri rành
rẽ cho các nơi dễ bề lựa chọn, hầu tìm phương tuyển đức lọc tài cho nên người
ra cầm giềng mối Đạo.
II.- THĂNG THƯỞNG
1.
Mỗi
vị Chức Sắc đã đủ 5 năm công nghiệp và xứng đáng với chức trách của mình, mới
đặng đệ ra Quyền Vạn Linh công nhận.
2.
Nếu
những vị nào dưới 5 năm công nghiệp mà có lập đặng đại công, toàn công chúng
đều hoan nghinh và Tòa Đạo minh tra đủ lẽ, thì sẽ đặng đệ lên Quyền Chí Tôn cầu
xin thăng thưởng. (Thăng thưởng về công nghiệp phi thường thì duy có Quyền Chí
Tôn mới ban cho đặng mà thôi).
3.
Còn
những vị nào trong 5 năm hành sự mà có phạm Pháp và phạm Luật, thì sẽ bị đình
lại lâu hay mau tùy theo tội nặng hay nhẹ, hoặc những vị nào không tròn trách
nhậm, cũng phải chịu dưới quyền lực ấy.
4.
Những
vị nào hết tâm vì Đạo mà phải chịu khổ hạnh, hoặc bị tù tội ngục hình, hoặc bị
khổ sở tai họa, cũng đặng Hội Thánh cho dự vào sổ cầu phong, ngoài luật định 5
năm công nghiệp.
III.- HÀM PHONG
1.
Những
vị nào đủ công nghiệp mà đã quá lục tuần, đặng đem vào thông qui cầu Hàm phong,
nhưng phải chịu các điều kiện buộc như những vị đặng hưởng ân phong vậy.
2.
Còn
những Chức Sắc Thiên Phong trong khi hành chánh mà tuổi đã quá lục tuần, nếu
còn sức lực lập công thêm nữa thì tùy ý, nhược bằng liệu sức mình già yếu thì
đặng xin vào hạng hàm phong. Trong lúc đã hàm phong rồi, mà có thể lập công quả
xứng đáng chi khác, thì đúng lệ 5 năm cũng đặng dự cầu thăng hàm phong theo
đẳng cắp.
IV.- TRUY PHONG
1.
Những
vị nào đầy đủ công nghiệp mà qui vị trước ngày cầu phong, thì đặng Hội Thánh
đem vào sổ cầu truy phong đưa ra Quyền Vạn Linh công nhận, nhưng cũng phải có
công chúng hoan nghinh và Tòa Đạo minh tra đủ cớ mới đặng.
2.
Những
vị Hàm Phong mà còn lập nên công nghiệp vĩ đại, nhưng liễu Đạo trước ngày cầu
thăng thưởng, cũng đặng Hội Thánh xét công nghiệp cầu truy phong thăng thưởng.
3.
Khi
đặng truy phong rồi, con cháu hoặc anh em phải đem long vị về Tòa Thánh với một
vài vị Chức Sắc sở tại đưa lên. Khi về đến Tòa Thánh, có Đức Hộ Pháp ban quyền
và làm lễ long trọng.
Sau khi hành lễ đưa
long vị trở về địa phương, Hội Thánh đưa ra đến cửa ngỏ Tòa Thánh rồi phái vài
vị Chức Sắc đưa đi tùy theo phẩm tước, đến tận nơi Thánh Thất sở tại. Đầu Tỉnh,
Đầu Họ và Đầu Quận Đạo phải thiết lễ và dựng mộ bia cho long trọng.
V.- CÁCH TỔ CHỨC HỘI
QUYỀN VẠN LINH
1.
Chương-trình
về Hội Quyền Vạn Linh phải gởi các nơi trước ngày hội ít nữa là ba tháng, và
phải phân biệt vấn đề theo mỗi Phái.
2.
Luật
công cử Nghị Viên thì phải hội hiệp tất cả Chức Việc trong Quận bỏ thăm, để
tuyển chọn một vị Chánh Trị sự, một vị Phó Trị sự, một vị Thông Sự, Nam Nữ cũng
vậy.
3.
Cứ
500 Đạo Hữu trường trai đặng quyền tuyển cử lên một vị Phái Viên thay mặt.
4.
Chư
Nghị Viên và Phái Viên, sau khi đắc cử rồi, phải có giấy chứng của Đầu Quận,
Đầu Họ và Đầu Tỉnh Đạo. Phải nhóm nhau tại Quận Đạo đặng giải quyết những vấn
đề trong chương trình rồi lập lời quyết nghị.
5.
Chư
Nghị Viên và Phái Viên phải có mặt tại Tòa Thánh ít nữa là năm ngày trước ngày
dự hội, phải trình giấy chứng nhận tại Tòa Nội Chánh đặng đổi giấy dự hội.
6.
Trước
khi vào dự hội, phải trình giấy ấy cho Ban Kiểm Soát và nhứt nhứt tùng lệnh
Kiểm Soát Viên sắp đặt trật tự theo mỗi Họ Đạo và Quận Đạo riêng nhau, cho dễ
bề quan sát những điều sơ sót. Ấy là phép khảo dượt quyền hành (contrôle des
pouvoirs).
7.
Ngoại
trừ ra những người đến dự thính thì phải có chỗ nơi đặc biệt, chẳng đặng trà
trộn, hay là thông công cùng chư Nghị Viên một điều chi mà làm cho mất trật tự
trong khi hội nhóm.
8.
Còn
Chức Sắc Thiên Phong Nam Nữ từ Lễ Sanh đổ lên đặng trọn quyền vào dự hội.
ĐIỀU THỨ NHÌ: Ý Kiến Về
Chính Trị Đạo Đương Thời
LUẬT
Quyền Thống Nhất của
Đức Hộ Pháp và Quyền Hội Thánh Nam Nữ đã cầm giềng mối nền Chánh Trị Đạo của
Đạo y theo khuôn viên Luật Pháp, nên buộc toàn Đạo phải tùng quyền không đặng
một việc chi nghịch mạng.
PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH
Nghĩ vì bấy lâu nay nền
Chánh Trị Đạo đặng trang nghiêm đặc sắc, là nhờ chư Chức Sắc đương quyền trong
nền Chánh Trị biết tuân y mạng lệnh Quyền Thống Nhất của Đức Hộ-Pháp mà thi
hành phận sự, chớ cũng chưa đủ tài liệu biện tô điểm cho lịch xinh vẻ Đạo.
Ây vậy về phần Chức Sắc
Hành Chánh, cần phải có đủ lòng chơn thật để thi hành phận sự, hoặc tìm phương
nâng đỡ, bảo toàn, dìu dẫn, an ủi, khuyên lơn, chỉ dạy con cái của Đức Chí Tôn
trổi bước trên đường chí thiện, nghĩa là:
1.
Thấy
người lâm cơn hoạn nạn, nguy nan phải tận tâm điều độ, lo lắng, châu toàn cũng
như anh em ruột lo cho nhau vậy.
2.
Thấy
kẻ đói khó tật nguyền phải tìm phương trợ giúp.
3.
Mỗi
kỳ Sóc Vọng tại Thánh Thất hoặc các đàn lệ khác, vị Chức Sắc đương quyền phải
thuyết Đạo hoặc đọc Châu Tri, Bố Cáo, hay là dẫn giải những điều khuyết điểm,
cùng là khuyến khích, nhắc nhở chư Đạo Hữu trong đường đạo đức. Nói tóm lại, là
làm thế nào cho Chúng sanh đặng kết chặt dải đồng tâm, tương thân hòa ái cùng
nhau, hầu nâng đỡ cho nhau đặng phấn tâm lo Đạo, chẳng để sót một ai phải bất
bình vì một việc chi mà phải khổ tâm thối bước, vì bởi Chánh Trị Đạo lập ra
chẳng những để trị mà thôi, mà cũng là một cơ quan để bảo tồn sanh chúng tầm
nguồn hạnh phúc.
4.
Thảng
như Chức Sắc nào chẳng vì chủ nghĩa hóa dân qui thiện, làm cho mất tín nhiệm
của chúng sanh thì phải chiếu y Thập Hình của Đức Lý Giáo Tông mà định tội tùy
theo nặng nhẹ.
5.
Muốn
cho toàn Đạo kết chặt dải đồng tâm tương thân hòa ái, thì cần năng hội hiệp
nhau cho thường để kết tình thân mật, hầu chia vui sớt thảm cho nhau mà gầy
khối yêu thương chơn thật.
Vậy mỗi kỳ Sóc Vọng nơi
Thánh Thất, toàn chư Chức Sắc, Chức Việc Nam Nữ bên Hành Chánh hay là bên Phước
Thiện cũng phải đến chầu lễ Đức Chí Tôn, trước là học hỏi lẫn nhau, sau nghe
đọc các Châu Tri, Bố Cáo về sự hành động của Đạo.
6.
Mỗi
Thánh Thất phải lập một tấm bảng biên tên Chức Việc, đặng sau khi biên vào sổ
kỷ niệm rồi ghi vào bảng ấy cho dể bề xem xét, coi những vị nào siêng năng sốt
sắng và những vị nào biếng nhác không đến hầu Đàn.
7.
Còn
trong hàng Đạo Hữu thì cũng cứ biên vào sổ kỷ niệm như xưa nay, nhưng buộc
Chánh Trị Sự phải chăm nom nhắc nhở.
8.
Trong
một năm là 24 kỳ Đàn, mà những con cái biếng nhác của Đức Chí-Tôn không đến
thăm viếng Người ít nữa là 20 kỳ Đàn, thì Hội Thánh sẽ không ngó ngàng đến nữa,
dầu cho trong đường Đời hay là trong đường Đạo của họ cũng vậy. Nếu như có bận
việc chi phải buộc mình vắng mặt, thì phải có tờ giấy Chức Sắc Thiên Phong vi
chứng mới đặng.
ĐIỀU THỨ BA: Những
Phương Pháp Hay Đặng Chỉnh Đốn Thêm Nữa
LUẬT
Hội Thánh thuyên bổ
thêm Chức Sắc Thiên Phong đi cùng khắp các nơi đặng chỉnh đốn Chánh Trị Đạo lại
và phổ thông nền Chơn Giáo ra ngoại quốc.
PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH
1.
Từ
đây Đầu Tỉnh, Đầu Họ và Đầu Quận Đạo sẽ chỉnh đốn y theo như Quyền Vạn linh đã
định.
2.
Bắt
đầu năm Mậu Dần thì các Văn Phòng Đầu Tỉnh, Đầu Họ và Đầu Quận Đạo phải có một
vị Đầu Phòng chỉnh đốn lại cho trang hoàn hơn nữa, nghĩa là:
a.
Phải
lập đủ các sổ sách thâu xuất lại cho kỹ càng.
b.
Phải
lập cho đủ các hồ sơ đặng để lưu chiếu các giấy tờ của Đạo.
3.
Mỗi
Văn Phòng của Đầu Tỉnh Đạo phải có một vị Giáo Hữu làm Đầu Phòng.
Mỗi Văn Phòng của Đầu Họ Đạo phải có một vị Lễ Sanh làm Đầu Phòng.
Mỗi Văn Phòng Đầu Quận Đạo phải có một vị Chánh Trị Sự làm Đầu Phòng.
4.
Nếu
vị Chức Sắc nào muốn làm Đầu Phòng, thì phải có khoa mục tuyển chọn, chứng rằng
mình là ngưới có học thức, đủ sức làm tròn bổn phận.
Còn Bàn Trị sự cũng
vậy, nhưng khi thi đậu rồi thì buộc phải làm tờ giao ước rõ ràng trọn hiến thân
cho Hội Thánh và phế đời hành Đạo, mới đặng thuyên bổ lãnh chức trách Đầu
Phòng.
Khoa mục ấy sẽ định thi
ở tại Tòa Thánh.
5.
Từ
ngày đã có Đầu Phòng thì giao hết các việc trong văn phòng cho người lo chỉnh
đốn, còn Chức Sắc Hành Chánh thì cần phải đi châu lưu cùng khắp trong địa phận
mình, trước là xem xét sự hành động của Chức Sắc hoặc Chức Việc dưới quyền, sau
nữa gần gũi thân mật để cảm hóa nhơn sanh.
6.
Bàn
Trị Sự nên chọn cử hạng người có tài đức, bất luận là hạng thanh niên hay là
bậc trưởng lão, miễn vị ấy đặng phần đông tín nhiệm là đủ.
7.
Nếu
như một ai còn đương quyền Đời mà muồn vào hàng phẩm Chức Việc, thì phải từ bỏ
quyền Đời đặng để trọn tâm lo tròn trách nhậm Đạo.
Mỗi
khi khuyết Chánh Trị Sự thì chỉ có hàng Phó Trị Sự và Thông Sự đặng quyền dự cử
mà thôi, trừ ra những vị nào đã bị phạm Luật Pháp có hình phạt của Hội Thánh.
Còn như khuyết Phó Trị Sự, Thông Sự thì chọn những vị nào có đạo đức, đủ tư
cách, hoặc dày công; ngoài ra những vị trên đây, thì Đạo Hữu nào dầu mới nhập
môn cũng đặng dự cử, miễn là đủ sức tín nhiệm của toàn Đạo trong địa phận thì
đặng. Nhưng trừ ra những vị nào đã bị phạm luật pháp có hình phạt của Hội Thánh
và người trong các Chi Phái mới trở lại.
Trong
mỗi hạn kỳ 6 tháng, xin Hội Thánh phái một Ban Thanh Tra đi xem xét các sự hành
động trong Đạo, nào là Hành Chánh, Phước Thiện, Phổ Tế và Tòa Đạo đặng am hiểu
các cơ quan trong nền Chánh Trị Đạo, hầu tìm phương giúp hay cho Hội Thánh chấn
chỉnh lại cho đặc sắc.
Phải
chỉnh đốn Y Viện cho có lương y chăm nom săn sóc những Chức Sắc Thiên Phong
bệnh hoạn và bổ đi các nơi trong Thánh Thất.
Hội
Thánh phải thuyên bổ Chức Sắc Phổ Tế trong các quận Đạo và công cử Chức Việc
Phổ Tế trong mỗi làng Đạo.
ĐIỀU THỨ TƯ: Những Ước
Vọng Của Toàn Tín Đồ Trong Đạo
LUẬT
Hội Thánh phải tạo Đền
Thờ của Đức Chí-Tôn đặng làm nền móng sự tín ngưởng của cả Chúng Sanh, vì Đạo
do nơi đó mà xuất hiện.
PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH
Bấy
lâu nay, sự tạo tác Đền Thờ của Đức Chí Tôn đã thành ra một lá bùa mê hoặc quả
tim của Nhơn Sanh, nên ngày nay chính mình Đức Hộ Pháp đứng ra tạo tác, đặng
chuộc sự tín nhiệm lại cho Hội Thánh. Ngài để trọn cả sự hảo tâm của Chúng Sanh
đặng bồi đắp vào Đền Thánh, nên chưa bao lâu mà Tòa Thánh sắp hoàn thành. Vậy
thì dầu cho phải hao tổn, khổ nhọc bao nhiêu mà còn có một năm nữa là đoạt
thành hy vọng, thì xin toàn Đạo cũng vì mục đích cao thượng ấy, để cả đức tin
vào đặng tạo lập Toà Thánh trong một năm nữa cho hoàn tất, hầu thiết lễ khánh
thành trong năm nay, là năm Kỷ Niệm Khai Đạo và cũng là năm đáo ngươn hội 12
con giáp Đức Chí Tôn lập thành Đại Đạo. Vậy thì làm thế nào ngày Rằm tháng 10
năm Mậu Dần nầy cũng phải đem quả Càn Khôn vào Bát Quái Đài mới đặng.
Số
tiền của chư Đạo Hữu hỉ cúng tạo tác Tòa Thánh, thì để trọn vẹn về phần tạo tác
Tòa Thánh mà thôi.
Về
công quả tạo tác Tòa Thánh, thì dầu bên Phước Thiện hay Phổ Tế có thâu đặng
phải giao lại cho Đầu Tỉnh phát giấy công quả, hoặc Đầu Tỉnh Đạo Nữ Phái cũng
đặng phép thâu, nhưng phải chịu dưới quyền xem xét của Đầu Tỉnh Đạo Nam Phái và
giao số tiền ấy lại liền cho người chớ chẳng đặng lưu giữ, hay là nạp cho Hộ
Viện Tòa Thánh phát giấy công quả mà thôi.
ĐIỀU THỨ NĂM: Quan Sát
Gia Nghiệp Của Đạo
LUẬT
Cả sản nghiệp của Đạo
do Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh và Ông Nguyễn Ngọc Tương đứng bộ từ thử, thì
phải cải bộ lại cho Đức Hộ Pháp đứng tên thay mặt làm chủ cho Đạo.
Cấm nhặt không cho
những vị Chức Sắc bị Hội Thánh sa thải ra khỏi Đạo, hoặc đã bị ngưng quyền mà
còn lấy danh Chức Sắc của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, lợi dụng về mặt nào cả thảy,
dầu đối với Đời hay là Đạo cũng vậy.
PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH
Đất
cát và gia nghiệp của Đạo do Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh và Ông Nguyễn Ngọc
Tương đứng bộ từ thử, thì phải làm giấy tờ rành rẽ giao lại cho Đức Hộ Pháp
đứng bộ thay mặt cho Đạo. Việc cải bộ nầy xin giao cả hồ sơ nhờ Trạng Sư thi
hành.
Còn
đất lập Thánh Thất các nơi mà chỗ nào giấy tờ chưa rành rẽ, thì cũng phải lo
làm giấy bán đứt lại cho Hội Thánh trọn quyền làm chủ.
Lập
một Ban Ủy Viên thuộc dưới quyền của Thượng Chánh Phối Sư đi cùng khắp đặng
chỉnh đốn phép tắc và giấy tờ các Thánh Thất lại.
Mỗi
Thánh Thất phải lập một cuốn Bộ Từ Khí biên các vật dụng của Đạo. Hội Thánh có
quyền buộc bồi thường những của cải của Đạo bị hao hớt và trộm cắp, nếu có đủ
bằng cớ vị ấy là gian xảo.
ĐIỀU THỨ SÁU: Quan Sát
Sổ Thâu Xuất Hằng Niên và Định Phần Dự Trử
LUẬT
Mỗi năm, Quyền Vạn Linh
được quyền xem xét các sổ sách thâu xuất hằng niên tại Tòa Thánh hoặc các Thánh
Thất rồi định phần dự trử.
PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH
8.
Cả
số tiền thâu vào Hộ Viện thì vị Quản Lý phải làm biên lai nhận lãnh, có lót
giấy lọ (carbone) đặng thành ra 2 bổn, 1 bổn giao cho người nạp tiền và 1 bổn
để lưu chiếu cho Hội Thánh.
9.
Nơi
Văn Phòng Đầu Tỉnh Đạo cũng phải làm như vậy. Biên lai ấy phải nói rành rẽ do
thông qui số mấy của vị nạp tiền.
10.
Xuất
ra thì phải có đủ bằng cớ toa vé và cũng phải có lời phê của Chức Sắc bề trên.
11.
Mỗi
khi nhóm lệ thì vị Quản Lý Hộ-Viện hoặc vị Đầu Phòng phải đem sổ sách ra trình
Hội quan sát. Nếu có điều chi sơ thất thì chư vị ấy phải chịu phần trách cứ.
12.
Nơi
Thánh Thất thì Đầu Quận Đạo phải lập sổ thâu xuất hằng tháng hoặc nơi Văn Phòng
mình, đặng dâng lên Đầu Họ xem xét rồi đệ lên cho Đầu Tỉnh Đạo phê chuẩn.
ĐIỀU THỨ BẢY: Phương
Diện Giáo Dục, Cất Hạnh Đường và Học Đường Các Thánh Thất
LUẬT
Phải lập Hạnh Đường nơi
Tòa Thánh và Văn Phòng Đầu Tỉnh Đạo đặng giáo hóa Chức Sắc Thiên Phong và Chức
Việc, cùng lập Học Đường đặng dạy dỗ trẻ em cho rõ thông chữ nghĩa và kinh kệ.
Các Thánh Thất đều phải có Học Đường. Mỗi năm mở khoa mục khảo dượt một lần
đặng ban cấp bằng hay là giấy chứng nhận cho những vị thi đỗ.
PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH
Bắt
đầu năm Mậu Dần, xin Hội Thánh tái lập Hạnh Đường. Trường Hạnh Đường sẽ mở ra 2
lớp:
Một
lớp có 1 vị Giáo Sư dạy chư vị Giáo Hữu và Lễ Sanh.
Một
lớp có 1 vị Giáo Hữu dạy chư vị Chức Việc, dưới quyền của Hiệp Thiên Đài kiểm
soát vì về giáo huấn là thuộc quyền của Hiệp Thiên Đài.
Mỗi
kỳ nhập học là 30 vị trong mỗi lớp. Học trong hạn lệ là 1 tháng, khi thi đậu ra
trường thì phải có giấy chứng nhận của nhà trường ban cho, rồi mới đặng thuyên
bổ ra đi hành chánh.
Vị nào mãn kỳ học mà
chẳng đặng giấy cấp bằng tốt nghiệp của nhà trường, thì kỳ sau phải bị đòi về
học nữa.
Mãn
kỳ học nầy thì kế mời kỳ khác về học. Những vị nào muốn nhập học thì phải gởi
đơn xin trước rồi chừng đặng thơ mời mới đặng về nhập học.
Thảng
như vị nào đặng thơ mời mà không về, hoặc bê trể, hay là khi nhập học rồi mà bỏ
lớp vô bằng cớ, thì phải bị Hội Thánh định tội.
II.- HỌC ĐƯỜNG
Nhà
trường Đạo Đức phải chỉnh đốn lại cho hoàn toàn, mở thêm cho rộng lớn. Phải mở
thêm một Nữ Học Đường cho Nữ Phái.
Tu
bổ nhà trường cho có đủ lớp học, nhà ngủ giáo viên, nhà ngủ học sinh, nhà ăn,
bàn ghế và các vật dụng trong trường (fournitures classiques).
Mộ thêm giáo viên nam nữ và định phần
châu cấp mỗi tháng.
Con
nhà Đạo từ 6 tuổi đổ lên phải cho vào nhập học, bất luận là nhà trường nào; nếu
để cho con dốt thì sẽ bị Hội Thánh định tội.
Một
hạng được hưởng học bổng (boursiers) là con của Chức Sắc Thiên Phong đương
quyền hành chánh, những trẻ em mồ côi, hoặc con của Đạo hiến thân trọn vẹn.
Cha
mẹ có của cải và có bề thế làm ăn đủ thì phải đóng tiền học phí (payant) mỗi
tháng theo thể lệ nhà trường nhứt định.
Ty
giáo huấn nên lập cuốn sổ lạc quyên (caisse de charité) dưới quyền của Thượng
Chánh Phối Sư, để nhờ nơi lòng từ thiện của nhơn sanh trợ giúp cho các trẻ em
mồ côi ăn học.
ĐIỀU THỨ CHÍN: Tu Tạo
Tòa Thánh và Các Dinh Thự Nơi Thánh Địa
LUẬT
Toàn Đạo Nam Nữ mỗi năm
phải giúp cho Hội Thánh 5 ngày công quả đặng tu tạo Tòa Thánh và các dinh thự
nơi Thánh Địa cho đến ngày nào hoàn tất.
PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH
Mỗi
vị Đạo Hữu Nam Nữ phải giúp cho Hội Thánh 5 ngày công quả đặng tu tạo Đền Thờ
Đức Chí Tôn và các dinh thự.
Số
công quả ấy phải gởi cho Chức Sắc đệ về Tòa Thánh ít nữa là cuối tháng 6 cho
hoàn tất, ngoài ra những vị nào có lòng hiếu hạnh với Đại Từ Phụ, muốn lập công
lao vĩ đại thì tùy hỉ thêm bao nhiêu cũng đặng.
ĐIỀU THỨ MƯỜI HAI:
Phương Cách Thân Thiện Với Quyền Đời
LUẬT
Thiên Phong Chức Sắc
phải vào Hạnh Đường học thêm đạo lý, luật Đạo, luật Đời đặng dễ bề thân thiện
cùng Đời mà độ Đời cho biết Đạo. Phải giữ phẩm giá của mình cho đặng thanh cao
đạo đức.
PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH
Muốn
thân thiện với quyền Đời, thì chư Chức Sắc Thiên Phong phải có đủ tư cách đạo
hạnh, tánh tình thuần hậu, cùng là ăn mặc cho trang hoàng sạch sẽ.
Mỗi
khi đi hành Đạo nơi nào, phải cần liệu phương thân thiện với quyền Đời. Thảng như
có xảy ra điều chi Đạo Đời phản khắc, thì phải đủ năng lực bảo đảm thể diện của
Đạo.
Nếu
vị Chức Sắc nào chẳng vì danh thể Đạo, làm cho đến đổi Đời rẻ rúng, thì sẽ bị
Hội Thánh trừng trị nghiêm nhặt.
ĐIỀU THỨ MƯỜI BA:
Hành Vi Đương Thời Thế Nào, Và Sẽ Tới Phải Thế Nào?
LUẬT
Đương thời Đạo được
thạnh hành phát đạt, một phần ít Chức Sắc vì già yếu không lo tròn trách nhậm.
Vậy từ đây sắp tới xin Hội Thánh tuyển chọn nhơn tài và mở rộng cho hạng thanh
niên gia công giúp Đạo.
PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH
Đương
thời còn nhiều vị Chức Sắc Hành Chánh không biết chữ và lớn tuổi, không đủ sức
đảm nhiệm vai tuồng trọng hệ, xin Hội Thánh nên lựa chọn những vị khác cho có
đủ tài đức bặt thiệp để thay thế.
Bên
Nữ Phái thì đặng phần châm chế cho tới ngày đủ thông đạo lý mới đặng riêng
quyền, bằng chẳng vậy cứ tùng
Mỗi
khi thay đổi Chức Sắc thì vị Thiên Phong có quyền trong tỉnh phải lập lễ đưa và
rước cho long trọng, trừ ra những vị nào có tội bị Hội Thánh rút về thì không
được hưởng đặc ân ấy.
Mỗi
hạn kỳ 6 tháng, chư Đầu Tỉnh Đạo phải phúc sự về cho Ngọc Chánh Phối Sư biết rõ
cả hành động của mỗi vị Chức Sắc trong phần tỉnh của mình , đặng Hội Thánh biết
mà ban khen.
ĐIỀU THỨ MƯỜI SÁU: Bỏ
Thăm Tín Nhiệm Hay Là Không Tín Nhiệm Quyền Thống Nhứt Lại Một Lần Nữa
LUẬT
Toàn Đạo
PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH
Trong
mấy năm vừa qua, nền Đạo nhờ nương dưới Quyền Thống Nhứt của Đức Hộ-Pháp mà
đặng thạnh hành phát đạt một cách mau chóng, trên Hội Thánh đủ oai quyền vững
đạt, dưới chúng sanh đặng đầy đủ tinh thần nghị lực mà thực hành chủ nghĩa cao
thượng của Đức Chí Tôn. Vậy từ đây toàn Đạo Nam Nữ nên để cả đức tin nơi Ngài
hầu đủ phương pháp tạo Đời sửa thế.
ĐIỀU THỨ MƯỜI BẢY:
Nhượng Quyền Cho Quyền Vạn Linh Cầm Quyền Chánh Trị Của Đạo
LUẬT
Toàn Đạo
PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH
Theo
Pháp Chánh thì Quyền Chánh Trị Đạo là đặc quyền của Đầu Sư, nhưng hiện thời bên
Cửu Trùng Đài phẩm vị Đầu Sư không có, còn Quyền Vạn Linh thì không đủ sức, vì
thiếu bậc tài ba đạo đức, nên để cho Quyền Thống Nhứt đủ năng lực đặng lập
thành quyền Đạo đối với quyền Đời đương nhiên cùng các nền tôn giáo. Ấy là cái
hay làm cho Đạo ra thiệt tướng
CHƯƠNG THỨ II:
PHƯỚC THIỆN
I.- |
|
II.- |
|
III.- |
|
IV.- |
|
V.- |
|
VI.- |
|
VII.- |
|
CHƯƠNG THỨ II: PHƯỚC
THIỆN
ĐIỀU THỨ MUỜI:
Gầy Dựng Cơ Thể Phước Thiện Các Nơi, Và Những Phương Hay Đặng Châu Cấp Cho
Những Kẻ Tật Nguyền Cô Độc (*1)
LUẬT
Kỷ luật Thập nhị đẳng
cấp Thiêng liêng của Chức Sắc Phước Thiện định y như dưới đây: (*2)
1- Minh Đức
2- Tân Dân
3- Thính Thiện
4- Hành Thiện
5- Giáo Thiện
6- Chí Thiện
7- Đạo Nhơn
8- Chơn Nhơn
9- Hiền Nhơn
10- Thánh Nhơn
11- Tiên Tử
12- Phật Tử
(*1) Bản cũ ấn bản năm
Nhâm Thìn 1952 ghi là cơ sở Phước Thiện.
(*2) Bản cũ ấn bản năm Nhâm Thìn 1952 ghi là: Thập nhị đẳng cấp Thiêng liêng
của Chức Sắc Phước Thiện định như dưới đây: (Không có từ Kỷ luật)
I.- LUẬT TUYỂN CHỌN
Bất
luận Nam hay Nữ, ai ai cũng đặng dưới quyền tuyển chọn vào Phước Thiện của Đạo,
hoặc người có Đạo, hoặc người chưa có Đạo, muốn vào Phước Thiện thì phải lập tờ
hiến thân trọn đời, xin làm công quả cho cơ sở Phước Thiện.
Những
Chức Sắc hay Chức Việc đương quyền hành chánh mà muốn hiến thân làm công quả
vào cơ sở Phước Thiện, thì phải có giấy chứng nhận do đẳng cấp trật tự mình mới
đặng. Còn Tín Đồ thì phải có giấy chứng tánh hạnh tốt của Bàn Trị Sự cho thì
bên Phước Thiện mới thâu nhận.
Người
nào mới nhập vào Phước Thiện cũng phải khởi đầu làm công quả theo hạng Minh
Đức.
II- CẦU PHONG
Chức
Sắc Phước Thiện Nam Nữ phải chịu dưới quyền công nhận của toàn Hội Phước Thiện,
mới đặng thăng chức hay là buộc tội mà bị sa thải.
Bậc
Minh Đức muốn lên bậc Tân Dân phải có 3 năm công nghiệp đầy đủ với chức trách,
phải có tờ kiết chứng công nghiệp, tờ khai tánh đức tốt, trường trai và tư cách
xứng đáng mới đặng dự vào sổ cầu phong.
Sổ
cầu phong ấy phải đệ về Hội Thánh (Văn Phòng sở Phước Thiện tại Tòa Thánh)
trước ngày 30 tháng 8 thường niên.
Người
nào nhập vào Phước Thiện đều phải do đẳng cấp y theo trên đây mà hành sự, phải
có đủ 3 năm công nghiệp Minh Đức mới đặng cầu thăng thưởng lên bậc Tân Dân. Tân
Dân phải có đủ 3 năm công nghiệp mới đặng lên Thính Thiện, v...v...
Bậc
Hành Thiện mà muốn lên Giáo Thiện thì ngoài ra luật 3 năm công nghiệp, còn phải
nuôi dưỡng đủ 12 gia tộc mới đặng.
Mỗi
đẳng cấp phải có đủ 3 năm hành thiện mới mong bước qua đẳng cấp khác.
Ngoại
trừ ra ai có đại công mà có đủ bằng cớ và chiếm đặng lòng tín nhiệm của sanh
chúng dâng lên thì cũng đặng dự sổ cầu phong. Những vị nào để hết tâm vì Đạo mà
phải chịu khổ hạnh hoặc bị tù tội ngục hình cũng đặng dự vào sổ cầu phong ngoài
luật đã định.
III- HÀM PHONG
Hạng
Hàm Phong cũng vậy. Những vị nào đủ công nghiệp mà đã quá lục tuần thì cũng
đặng dự vào sổ cầu phong hàm phẩm, nhưng cũng phải chịu y theo điều kiện thuộc
về hạng ân phong vậy.
IV- TRUY PHONG
Hạng
truy phong công nghiệp những người đã quá vãng, mà có đủ bằng cớ đặng công
chúng hoan nghinh và Tòa Đạo minh xét rồi thì đặng đem vào sổ cầu phong cho
toàn Hội Phước Thiện công nhận.
Những
vị đắc phong hàm phẩm, lúc còn sanh tiền còn lập thêm công nghiệp xứng đáng mà
liễu Đạo trước ngày cầu phong thăng cấp thì cũng đặng đem vào sổ cầu truy phong
vậy.
V- QUYỀN PHONG THƯỞNG
Quyền
phong thưởng Chức Sắc Phước Thiện hay là buộc tội Chức Sắc ấy thì về quyền đặc
biệt của Đức Hộ Pháp mà thôi.
VI- THỂ LỆ HỘI PHƯỚC
THIỆN
13.
Mỗi
năm, sau ngày Hội Quyền Vạn Linh có Đại Hội Phước Thiện một lần.
14.
Về
phần tuyển chọn Phái Viên của hạng Minh Đức, Tân Dân và Thính Thiện tức là hạng
mới xin làm công quả học Thiện, hoặc theo Thiện, hoặc nghe Thiện.
Mỗi Quận Đạo nào có lập
cơ sở lương điền công nghệ, thương mãi thuộc về Phước Thiện, thì từ 1 đến 500
người hiến thân công quả đặng cử 1 vị Phái Viên ra thay mặt, từ 501 đến 1000
thì công cử 2 vị y theo thể lệ chọn Phái Viên Quyền Vạn Linh.
Về
phần công cử Nghị Viên của hạng Hành Thiện tức là hạng Chủ Sở và Chức việc Bàn
Cai Quản nhà sở Phước Thiện chánh.
Mỗi Quận Đạo nào có lập
cơ sở lương điền công nghệ, thương mãi thuộc về Phước Thiện, thì cả Chủ Sở nơi
ấy và Chức việc Bàn Cai Quản hiệp nhau công cử Nghị Viên.
a.) |
Cả
Chủ Sở Lương điền, Công nghệ, Thương mãi thì đặng chọn cử 1 vị thay mặt. |
b.) |
Cả
Chức Việc, Bàn Cai Quản nhà sở Phước Thiện chánh thì đặng chọn cử ra 1 vị
thay mặt. |
Nghị Viên và Phái Viên
hiệp lại gọi là Ban Ủy Viên thay mặt cho toàn Phước Thiện nơi mỗi Quận.
Người
đắc cử phải là hạng trường trai, có tánh đức tốt mới xứng là người thay mặt cho
Phước Thiện.
Khi
được tuyển chọn rồi, Đầu Quận phải giao cho người đắc cử ấy tờ kiết chứng y như
kiểu nhứt định của Hội Thánh.
Lúc
về Tòa Thánh dự Hội thì phải trình tờ kiết chứng ấy mới đặng vào dự Hội.
Cuộc
chọn cử Ban Ủy Viên thay mặt cho toàn Phước Thiện nơi mỗi Quận, thì phải có mặt
vị Giáo Thiện Đầu Quận Phước Thiện làm Chủ Tọa.
Ban
Ủy-Viên phải có mặt tại Tòa Thánh trước ngày dự hội ít nữa là 5 ngày.
Còn
phần Chức Sắc chánh danh Phước Thiện Nam Nữ từ Giáo Thiện đổ lên đều có quyền
đến dự Hội toàn Phước Thiện.
VII- PHẦN TAÏO CƠ SỞ
3.
Mỗi
Quận Đạo phải lập ra một nhà sở Phước Thiện chánh thức, nơi nhà sở ấy mới đặng
phép hội hiệp lo thương lượng làm ăn thuộc về Phước Thiện.
4.
Mỗi
Làng Đạo phải khai mở nhiều sở lương điền công nghệ, thương mãi. Các sở Lương
điền, Công nghệ, Thương mãi ấy phải chịu dưới quyền của sở Phước Thiện chánh.
5.
Nơi
mỗi nhà sở Phước Thiện chánh phải lập một cơ quan thiết dụng như là:
a.) |
Bảo
Sanh Viện |
b.) |
Y
Viện |
c.) |
Ấu
Trỉ Viện |
d.) |
Dưỡng
Lão Đường |
e.) |
Học
Viện |
Mỗi
sở lương điền công nghệ phải có 1 vị Chủ Sở làm đầu. Vị nào muốn đặng chọn cử
làm Chủ Sở thì phải là hạng Hành Thiện mới đặng.
Mỗi
nhà Sở Phước Thiện trong Quận Đạo phải cử ra 1 Bàn Cai Quản để lãnh trách nhiệm
Chủ Trưởng nhà sở ấy.
Mỗi Bàn Cai Quản phải
có ít nữa là 12 người Chức Việc:
1 |
Chủ
Trưởng |
1 |
Phó
Chủ Trưởng |
1 |
Thủ
Bổn |
1 |
Phó
Thủ Bổn |
1 |
Từ
Hàn |
1 |
Phó
Từ Hàn |
6 |
Nghị
Viên. |
PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH
Trong
hàng 6 Nghị Viên phải chọn cử ra 2 viên Kiểm Soát. Chức Việc nầy phải chọn
trong hạng người hiến thân trọn đời vào sở Phước Thiện, có tâm đức, tư cách
xứng đáng, trừ ra chức Chủ Trưởng thì phải lựa chọn công cử trong hạng Chủ Sở
Lương điền Công nghệ mà thôi.
Cuộc
công cử nầy phải có mặt Đầu Họ, Đầu Quận, Chủ Tọa và Sĩ Tải hay Luật Sự chứng
kiến. Mỗi khi công cử phải lập Vi Bằng.
Phận sự Bàn Cai Quản
Phận
sự Bàn Cai Quản là lo chăm nom xem xét các cơ sở Lương điền, Công nghệ thuộc về
sở Phước Thiện của mình cai quản.
Mỗi
tháng, Bàn Cai Quản phải hội nhóm ít nữa là 2 kỳ trong khi có đàn lệ tại Thánh
Thất sở tại.
Nếu
xa Thánh Thất thì được nhóm tại nhà sở Phước Thiện.
Phận sự Chủ Trưởng
Khi
nhóm, Chủ Trưởng làm Chủ Tọa, người đem các vấn đề cơ sở Phước Thiện, sắp đặt
có thứ tự trong chương trình cho chư Nghị Viên bàn định.
Nghị
Viên không đặng bàn tính việc gì khác hơn là vấn đề đã lập trong chương trình.
Khi Chủ Trưởng xướng đề ra thì phải giải rành rẽ cho chư Nghị Viên được thông
hiểu, rồi để cho chư Nghị Viên tự do bàn định. Chủ Trưởng không nên bàn cải chi
với Nghị Viên. Sau khi chư Nghị Viên bàn cải rồi, Chủ Trưởng gom tất cả ý kiến
hay của phần đông chư Nghị Viên mà lập thành Quyết Nghị.
Phận sự Phó Chủ Trưởng
Phó
Chủ Trưởng phải chung trí giúp Chủ Trưởng lập chương trình và bàn định các vấn
đề trước khi đem ra nhóm hội.
Khi
Chủ Trưởng vắng mặt thì Phó Chủ Trưởng đặng quyền thay thế cũng như Chủ Trưởng
vậy.
Phận sự Thủ Bổn
Thủ
Bổn lãnh phần việc bút toán và biên bản sổ thâu xuất cho Bàn Cai Quản xem xét
trong mỗi kỳ nhóm lệ. Thủ Bổn chịu trách cứ về số tiền mình giữ và không đặng
phép xuất chi phí nào mà không có Chủ Trưởng, hay là Phó Chủ Trưởng thế quyền
chứng kiến.
Thủ
Bổn gìn giữ sổ Thâu Xuất (Thâu Xuất phải biên hằng ngày và cộng chung mỗi
tháng).
Một
cuốn sổ ghi công quả
Một
cuốn sổ biên tài sản.
Một
cuốn sổ Cấp tế những người cô quả, bệnh hoạn, đói khổ, già cả, tật nguyền, góa
bụa và quan, hôn, tang, tế.
Lúc
nào Bàn Cai Quản muốn xem xét, thì Thủ Bổn phải bày các sổ sách. Bất hạng là
lúc nào, Chủ Trưởng cũng có quyền xem xét sổ sách và tiền bạc.
Mỗi
kỳ nhóm thường lệ, Thủ Bổn phải lược thuật sự quản xuất tài chánh cho rõ ràng.
Phận sự Phó Thủ Bổn
Phó
Thủ Bổn lãnh phần giúp Thủ Bổn trong phần giấy tờ sổ sách về tài chánh và thay
mặt cho Thủ Bổn trong khi người vắng mặt.
Phận sự Từ Hàn
Từ
Hàn lãnh phần lập Vi Bằng trong mỗi kỳ hội nhóm. Người giữ:
1
cuốn sổ biên tên họ những Đạo Hữu hiến thân trọn đời vào sở Phước Thiện, có đủ
ngày tháng hiến thân và những điều cần yếu thuộc về gia tộc Đạo Hữu ấy.
1
cuốn sổ biên nhận các thơ tín tiếp đặng.
1
cuốn sổ biên nhận các thơ tín gởi đi.
1
cuốn sổ biên tên các Chức Việc Bàn Cai Quản và tên các Đạo Hữu có công sáng tạo
cơ sở Phước Thiện.
Phận sự Phó Từ Hàn
Phó
Từ Hàn lãnh phần giúp Từ Hàn trong các phận sự.
Phận sự Nghị Viên
Nghị
Viên lo chăm nom quyền lợi chung để giúp hay cho cơ sở Phước Thiện được mau
chóng thạnh hành phát triển.
Các
vị nầy giúp Chủ Trưởng việc trật tự trong các kỳ nhóm.
Phải
chọn lựa trong hàng Nghị Viên cử ra 2 vị Kiểm Soát, trong hạn lệ là 1 năm để
lãnh phận sự tra xét sổ sách của Thủ Bổn và Từ Hàn.
Giấy
tờ nào cần ích trong cuộc điều tra sổ sách, thì Thủ Bổn phải giao cho Kiểm-Soát
Viên xem xét.
Tờ
lược thuật về việc quản xuất tài chánh và sản vật của Thủ Bổn, phải đủ 2
Kiểm-Soát Viên xem xét và ký tên.
Kiểm-Soát
Viên được tự quyền lập phúc sự các việc điều tra sổ sách đệ về cho Hội Thánh
biết.
Trước
khi xướng lập cơ sở Lương điền, Công nghệ, thì chỉ nhờ nơi lòng từ thiện của
toàn Đạo Hữu trợ giúp. Ngoài ra, những vị nào hảo tâm dâng thêm tài vật chi
xứng đáng thì đặng nêu tên vào bảng danh dự để làm kỷ niệm nơi cơ-sở.
Những
vị nào hảo tâm hiến nhà hiến đất, hoặc các tài vật khác, thì phải làm giấy tờ
cho rành rẽ, đóng bách phần cải bộ đặng giao trọn quyền cho Phước Thiện làm
chủ.
Những
vị đã trọn hiến thân vào sở thì Chủ Sở phải bảo toàn gia tộc của vị hiến thân
ấy như chồng, vợ, con, cha mẹ ruột, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng và cắt phận sự cho
mỗi người. Mỗi sở Hành Thiện phải bảo toàn cho đủ 12 gia tộc mới đúng phép hành
thiện theo luật Phước Thiện.
Chư
Chức Việc bên Hành Chánh cũng phải để tâm giúp ích cho bên Phước Thiện đặng mau
kết quả mỹ mãn.
Nếu
trong sở có xảy ra điều chi bất hòa mà điều đình không đặng, thì phải lập Hội
Công Đồng y như bên Hành Chánh mà trừng trị. Kỳ dư xảy ra với các cơ quan trong
nền Chánh Trị Đạo, thì buộc phải giải ra Tòa Đạo phân xử.
Phải
tìm phương châu cấp những gia đình nghèo nàn của chư Chức Sắc đắc lịnh Hội
Thánh thuyên bổ đi hành Đạo phương xa.
Khi
các cơ sở đã thành lập, mỗi năm phải tùy theo huê lợi trong sở đặng giúp lương
thực trong các Thánh Thất, hoăc mỗi Văn Phòng trong nền Chánh Trị Đạo và phải
định riêng ra một phần để châu cấp cho những kẻ tật nguyền cô độc.
Về
khoản cấp tế của Phước Thiện, chẳng nên phân biệt người trong Đạo hay là ngoài
Đời, nghĩa là mỗi phen nơi nào bị tai nạn khổ tâm khổ trí thì lẽ cố nhiên người
hành thiện chẳng thế nào bỏ qua cho đặng, chẳng những trợ giúp về mặt vật chất
hình thức bên ngoài mà thôi, mà lẫn đến tinh thần bên trong cũng phải có sự an
ủi tâm hồn cho người được an vui bình tâm định trí.
Nếu
một ai vì cảnh bi thương trong gia-đình, hoặc vì đau thảm về phần xác thịt, mà
đến nhà Phước Thiện cầu xin cứu giúp, hay là một tấn kịch khốc hại đã phô bày
trước mắt mà người hành thiện lại nỡ đành làm ngơ, để cho người khốn khổ ấy
phải cam tâm tủi phận, chẳng nhờ nơi lòng ái truất của nhà lương thiện đoái đến
mà có đủ bằng cớ, thì vị Hành Thiện ấy phải bị lỗi nặng với danh giá nhà Phước
Thiện và phải chịu phần trách cứ.
ĐIỀU THỨ MƯỜI MỘT:
Phương Chỉnh Đốn Về Mặt Nghi Tiết Của Đạo Nơi Các Thánh Thất Và Về Phần Quan,
Hôn, Tang, Tế
LUẬT
Hội Thánh phải bổ đến
mỗi Quận Đạo: Lễ Sĩ, Cai Nhạc và Giáo Nhi có cấp bằng của Hội Thánh, đặng chỉnh
đốn về mặt nghi tiết nơi các Thánh Thất và các cuộc quan hôn, tang tế.
PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH
Muốn
cho y theo một kiểu mẫu, xin Hội Thánh lập một bổn lễ quan hôn, tang tế, đặng
ban hành cho toàn Đạo. Bên Hành Chánh và bên Phước Thiện phải tìm phương sửa
cải các điều lệ của Lễ Viện và chỉnh đốn lễ quan hôn, tang tế, lại cho đẹp đẻ y
theo cổ tục của nước
Cả
thức lệ về mặt nghi tiết và phương pháp thật hành về quan hôn, tang tế đều
thuộc về quyền của Phước Thiện sắp đặt, nhưng bên Hành Chánh, Phổ Tế và Tòa Đạo
cũng phải chung lo cho đặng trang hoàng.
Mỗi
Quận Đạo thường phải chọn người hiến thân có thông thạo chút ít về lễ nhạc đặng
gởi về Hội Thánh học tập, đến khi thành tài có cấp bằng của nhà trường ban cho
rồi mới đặng thuyên bổ đi hành sự, tùy theo lịnh Hội Thánh nhứt định.
Sau
khi trong mỗi Quận Đạo có người rành rẽ chăm nom dạy về Lễ Nhạc thì con nhà Đạo
đặng đến học thong thả, nhưng phải làm tờ tình nguyện lập công đặng hiến lễ
trong các Thánh Thất. Như trò nào có thiên tư về khoa ấy, muốn thi lấy cấp bằng
thì phải làm tờ hiến thân trọn vẹn gởi về Hội Thánh xin cho dự thí. Khi thi đỗ
có cấp bằng của nhà trường ban cho rồi, thì phải tuân theo luật của Hội Thánh
thuyên bổ đi các nơi hành sự.
CHƯƠNG THỨ III: PHỔ TẾ
ĐIỀU THỨ MƯỜI BỐN:
Phương Cách Đối Phó Cùng Các Chi Phái Phản Đạo
LUẬT
Chiếu theo Thánh Giáo
của Đức Chí Tôn và Đạo Nghị Định số 8 của Đức Lý Giáo Tông, thì toàn cả Chúng
Sanh nhứt định không nhìn nhận các Chi Phái phản Đạo và phải định quyết là Bàn
Môn Tả Đạo.
PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH
1-
Phần đông con cái của Đức Chí Tôn có một hạng biết rõ mối Đạo là một cơ bí mật
của Trời sáng tạo, đặng cứu vớt sanh linh khỏi trầm luân khổ hải, song vì còn
yếu ớt đức tin nên hãy còn đứng ngoài vòng để mắt xem chừng vào cửa Đạo, còn
một hạng nữa thì lại đang mê mẩn trong vòng vật chất, lầm tưởng cho nền Đạo là
một cơ quan xảo kế của phàm nhơn sáng tạo để mê hoặc tâm lý của người Đời mà
xem dường như rẻ rúng; thành thử con cái của Đức Chí Tôn vẫn còn mịt mờ trong
màn hắc ám. Vậy phương diện Phổ Tế Nhơn Sanh là một hành vi cần cấp để dẫn dắt
người Đời vào trường học Đạo của Trời cho mau chóng, đặng sớm tầm con đường
siêu rỗi tội tình cho nhân loại.
2-
Hội Thánh phải tuyển chọn những Chức Sắc Thiên Phong đủ tài đủ đức đặng thuyên
bổ qua cơ-quan Phổ Tế.
3-
Chư vị Chức Sắc lãnh phần Phổ Tế phải kể mình như các vị Quan Phương Bá nhà
Châu buổi nọ, nghĩa là mảnh thân gánh nặng nghĩa vụ nơi vai, thì phải châu lưu
cùng khắp trong chốn thôn quê sằn dã, vào tận nơi nào có lấp loáng bóng người
đặng đem chơn lý Đạo mầu thức tỉnh cho thế gian hồi tâm giác ngộ, kẻo một ngày
trễ là một ngày hại cho nhơn sanh chưa biết Đạo.
4-
Đối với các Chi Phái do Đại Đạo lập thành mà phản loạn Chơn Truyền, ngày nay đã
lỗi thệ cùng Thầy, thì xin Hội Thánh thể lòng đại từ đại bi của Đức Chí Tôn, mở
kỳ ân xá cho họ đặng nhập môn tái thệ y theo Châu Tri số 31 đề ngày 18 tháng 9
năm Bính Tý, duy trong Châu Thành Tòa Thánh, những kẻ phản Đạo không đặng nhập
môn trở lại mà thôi.
5-
Hiện thời đương lo tạo tác Tòa Thánh, cấm nhặt các Chi Phái vào Thánh Địa toan
mưu khuấy rối. Chừng nào Toà Thánh lập xong, dầu Chức Sắc các Chi Phái muốn
nhập môn làm Tín Đồ đi nữa, thì cũng phải có Quyền Vạn Linh và Quyền Chí Tôn
công nhận mới đặng.
6-
Ngoài ra các vị Phổ Tế, nếu có Chức Việc hoặc Đạo Hữu nào độ đặng 500 tới 1.000
người ngoại đạo nhập môn, thì vị ấy sẽ đặng Hội Thánh đem ra Quyền Vạn Linh cầu
xin phong thưởng vào phẩm Lễ Sanh, độ đặng từ 1.000 tới 3.000 người thì được
vào phẩm Giáo Hữu, độ đặng từ 3.000 tới 10.000 người thì đặng vào phẩm Giáo Sư.
7-
Những Thánh Thất thuộc về các Chi Phái mà muốn hiến về cho Hội Thánh, thì phải
làm giấy tờ rành rẽ giao cho vị Phổ Tế đem về thương lượng với Hội Thánh.
8-
Chức Sắc Phổ Tế, khi gặp đặng những điều bất hợp pháp, cùng việc bất hòa xảy ra
giữa các cơ-quan có đủ bằng cớ, hoặc bên quyền Hành Chánh, bên Phước Thiện, bên
Tòa Đạo, thì đặng quyền dâng sớ kêu ca ngay cho mỗi vị Chưởng Quản 3 cơ-quan
ấy.
CHƯƠNG THỨ IV:
TÒA ĐẠO
ĐIỀU THỨ MƯỜI
LĂM: Định Án Những Người Phạm Luật Pháp Và Hình Phạt Ra Thế Nào? |
||
I.- |
Phạm Pháp |
|
II.- |
Phạm Luật |
|
CHƯƠNG THỨ IV: TÒA
ĐẠO ĐIỀU THỨ MƯỜI LĂM: Định
Án Những Người Phạm Luật Pháp Và Hình Phạt Ra Thế Nào? LUẬT Những vị nào phạm
Luật Pháp, thì chiếu theo Thập Hình của Đức Lý Gìáo Tông mà định tội. Kẻ phạm
phải chịu dưới 2 quyền luật: 1- Luật: là Tân Luật
và Luật Hội Thánh. 2- Pháp: là Pháp
Chánh Truyền và Đạo Nghị Định. PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH Nghĩ vì Tòa Đạo là
một cơ quan bảo thủ Chơn Truyền y theo khuôn viên Đạo Pháp, bảo đảm sanh
chúng, trị loạn, phò nguy, gìn cân công lý cho toàn cả chúng sanh đặng sống
một cách thung dung thơ thới dưới mặt Luật Công Bình của Đạo. Tòa Đạo lập ra cốt
yếu để binh vực những người bị uất ức, trừng phạt những người phạm Luật Pháp,
gìn giữ quyền hành phân minh, đẳng cấp trật tự cho nền Chánh Trị Đạo. Trách nhiệm trọng hệ
hơn hết của Toà Đạo là vô tư vô vị. I- PHẠM PHÁP: - Đệ nhứt hình: Không
tuân Pháp Chánh Truyền và Đạo Nghị Định. Phản
loạn Chơn Truyền. Chia
phe phân phái và lập Tả Đạo Bàn Môn. Những vị
nào phạm các điều trên đây thì khép vào tội thứ nhứt trong Thập Hình của Đức
Lý Giáo Tông nghĩa là Trục Xuất. - Đệ nhị hình: Chư Chức Sắc Thiên
Phong không tùng mạng lịnh của Hội Thánh: Thuyên
bổ không đi. Không
trọn phế Đời hành Đạo. Bỏ
bê phận sự. Những vị
nào phạm vào các điều khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ hai trong Thập
Hình của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là Giáng Cấp tới Tín Đồ, hay là buộc
hành đạo ngoại quốc, trừ ra các xứ lân bang Nam Quốc như Ai Lao, Tần Quốc. - Đệ tam hình: Làm
nhơ danh Đạo. Mượn
danh Đạo tạo danh Đời. Lợi
dụng danh Đạo làm điều bất chánh. Những vị
nào phạm vào các điều khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ ba trong Thập
Hình của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là Giáng Cấp từ đương quyền xuống tới
2 hay là 1 cấp. - Đệ tứ hình: Lấn
quyền, giành quyền. Phạm
thượng. Tự
chuyên sửa cải Chơn Truyền. Những vị
nào phạm vào các khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ tư trong Thập Hình
của Đức Lý Giáo Tông nghĩa là Ngưng Quyền từ 3 năm tới 5 năm. - Đệ ngũ hình: Mê
hoặc Chúng sanh. Cám
dỗ. Những vị
nào phạm vào các khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ năm trong Thập Hình
của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là Ngưng Quyền từ 1 năm tới 3 năm và phạt
vào Tịnh Thất. II- PHẠM LUẬT - Đệ nhứt hình: Không
tuân Tân Luật và các Luật Lệ Hội Thánh. Công
kích Hội Thánh. Nghịch
mạng. Những vị
nào phạm vào các khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ nhứt trong Thập Hình
của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là Trục Xuất. - Đệ nhị hình: Tư
thông. Dấy
loạn Chúng sanh. Những vị
nào phạm vào các khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ nhì trong Thập Hình
của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là Giáng Cấp tới Tín Đồ hay là buộc hành
đạo ngoại quốc, trừ ra các xứ lân bang như Ai Lao, Tần Quốc… - Đệ tam hình: Thâm
lạm tài chánh. Giả
mạo văn từ. Những vị
nào phạm vào các khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ ba trong Thập Hình
của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là Giáng Cấp từ phẩm đương quyền xuống tới
2 hay là 1 cấp. - Đệ tứ hình: Khi
lịnh Hội Thánh. Lập
quyền riêng. Những vị
nào phạm vào các khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ tư trong Thập Hình
của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là Ngưng Quyền từ 3 năm tới 5 năm. - Đệ ngũ hình: Phạm
Ngũ Giới Cấm. Những vị
nào phạm vào luật nầy thì bị khép vào tội thứ năm trong Thập Hình của Đức Lý
Giáo Tông, nghĩa là Ngưng Quyền từ 1 năm tới 3 năm. - Đệ lục hình: Cường
ngạnh. Những vị
nào phạm vào luật nầy thì bị khép vào tội thứ sáu trong Thập Hình của Đức Lý
Giáo Tông, nghĩa là phạt vào Tịnh Thất từ 1 tháng tới 1 năm, mà còn hành
chánh như thường. - Đệ thất hình: Phạm
Tứ Đại Điều Qui. Những vị
nào phạm vào luật nầy thì bị khép vào tội thứ bảy trong Thập Hình của Đức Lý
Giáo Tông, nghĩa là thuyên bổ đi nơi khác chỗ của mình đương hành đạo. - Đệ bát hình: Bê
trễ phận sự. Biếng
nhác. Những vị
nào phạm vào các khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ tám trong Thập Hình
của Đức Lý GiáoTông, nghĩa là phải về Tòa Thánh đặng gần Giáo Tông và Hộ-Pháp
cầu học Đạo. - Đệ cửu hình: Ganh
ghét. Hung
bạo. Đố
kỵ. Xu
phụ. Những vị
nào phạm vào các khoản trên đây thì bị ghép vào tội thứ chín trong Thập Hình
của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là phải ăn-năn sám hối, thọ tội cùng chúng sanh. - Đệ thập hình: Phạm
Thế Luật: Những vị
nào phạm vào luật nầy thì bị khép vào tội thứ mười trong Thập Hình của Đức Lý
Giáo Tông, nghĩa là hầu kẻ đức hạnh của Hội Thánh định đặng cầu học Đạo. Những
vị nào đã bị luật ngoài Đời trừng trị, tùy theo tội hình nặng nhẹ, Tòa Đạo sẽ
chiếu theo Thập Hình mà trừng trị thêm nữa. Những
vị đã phạm tội mất phẩm vị Thiên Phong của mình, phải có Luật Ân Xá của Quyền
Vạn Linh và Quyền Chí-Tôn mới đặng; nhưng 4 cơ-quan toàn thể Chánh Trị Đạo
còn phương tế độ, là minh tra công nghiệp, khi những vị ấy đã biết ăn-năn,
lập nên công nghiệp phi thường, toàn công chúng hoan nghinh và Tòa Đạo minh
tra đủ lẽ, thì đặng phép phục sự với 1 vị Chức Sắc Thiên Phong nào của kẻ
phạm lựa chọn, hầu phục quyền đoái công chuộc tội, thì mới đặng cầu xin phục
chức. Bộ Luật nầy ban hành
kể từ ngày Rằm tháng Giêng năm Mậu Dần (14 Février 1938) và ngày sau còn thêm
vào nữa, tùy theo trình độ của Chúng sanh. HẾT |
|
|
Kiểm duyệt, ngày 11
tháng 10 năm Kỷ Dậu. Trưởng Ban Kiểm Duyệt
Kinh Sách Đạo |
|
|
PHỤ CHÚ: Sự khác biệt
giữa hai ấn bản năm Nhâm Thìn (1952) và ấn bản năm Kỷ Dậu (1969).
(*) Phụ
chú: Bản cũ ấn bản năm Nhâm Thìn 1952 có phần sau đây:
Những Khoản
Thêm Vào Bộ Đạo Luật và Ban Hành Kể Từ Ngày Hôm Nay:
1- Thủ tiêu
2 chữ Tuyệt Dục trong Tân Luật.
2- Rộng ơn
cho thỏa lời ước vọng của nhơn sanh, là để tự do cho hàng Lễ Sanh giữ trai tâm
bao nhiêu tùy ý, song chẳng đặng dưới 10 ngày.
3- Truất
quyền dự Hội Nhơn Sanh, quyền Hành Chánh và quyền Hành Pháp cho những vị Lễ
Sanh nào chưa trường trai.
4- Cho tự
do vợ chồng của Chức Sắc muốn theo cùng nhau cũng đặng, nhưng thuộc về phần Đời
mà thôi, chớ chẳng dính dấp chi với Đạo, vì Chúng Sanh duy biết nuôi người thay
mặt Chí Tôn, chứ chưa hề biết nuôi vợ chồng của vị Chức Sắc nào cả.
5- Vị Chức
Sắc Thiên Phong Nam Phái nào có vợ con nghèo nàn, nhỏ dại thì Hội Thánh sẽ định
cho 1 số tiền cứu giúp hằng niên, khi đã minh tra đủ bằng cớ rằng vợ con của vị
ấy không gia thế không phương làm, bần hàn, đói khó.
6- Còn bên
Chức Sắc Nữ Phái thì Hội Thánh không có định cấp dưỡng cho chồng con chi hết,
vì chẳng lẽ người chồng nuôi con không nổi, bất tài đến đổi phải nhờ vợ.
7- Nếu như
vị Chức Sắc Nữ Phái nào rủi góa bụa mà con còn thơ dại, khi đã minh tra đủ lẽ
thì Hội Thánh sẽ định 1 phần cấp dưỡng nuôi con.
Lập tại Toà
Thánh Tây Ninh, ngày 5-11-Mậu Dần
( Le 26 Décembre 1938 )
Tòa
Đạo Hiệp Thiên Đài