Trang

Thứ Tư, 27 tháng 11, 2019

2954. THIỆT TƯỚNG CỦA ĐẠO CAO ĐÀI LÀ GÌ?

Bài đã đăng năm 2008 trên trang chonphapcaodai.net. Nay đăng lại theo yêu cầu bạn đọc. Xưa đang bị truy nã nên rất khó khăn và nguy hiểm do vậy chúng tôi không để tên thật. Nay xin đề tên thật để chịu trách nhiệm. Nay kính.
Đạo Hữu Dương Xuân Lương.


THIỆT TƯỚNG CAO ĐÀI.

LỜI TỰ SỰ
Cái lớn nhất mà chúng tôi học được khi tìm hiểu câu Ngày nào quyền-lực Chí-Tôn đặng hiệp một cùng Vạn-linh thì Đạo mới ra thiệt-tướng là:
Có những vấn đề tưởng chừng đã hiểu, tưởng rằng có thể giải đáp trong tích tắc nhưng hoá ra chúng tôi chưa chuẩn bị để trả lời một cách biện chứng và đầy đủ. Đó là sự thật 100%.
Sự tiến bộ bắt đầu từ chổ chúng ta không hài lòng với chính mình vì chưa thể giải đáp tường tận cho người muốn tìm hiểu vấn đề.
Cái yếu kém ở đây là chính chúng tôi đã không nhìn ra được là có một vấn đề cần phải làm rõ. Chúng tôi không thấy câu hỏi đó là một vấn đề nên chưa lưu tâm tìm hiểu …

Cái ý nghĩa quan trọng hàng đầu là nhận ra có một vấn đề …
Rồi thứ đến là cách thức giải quyết vấn đề.
Và cuối cùng mới là kết quả được thể hiện.
Khi một vấn đề được nêu lên có khi ta chỉ giải đáp được một phần hay không được phần nào nhưng các bạn đồng hành quan tâm đến sẽ tham gia giải quyết cho vấn đề được sáng tỏ, phong phú và đa dạng….
Theo thiễn nghĩ thì ý nghĩa của chữ Tướng Thiệt rất rộng mà lại cụ thể, gắn nó với lý thuyết hay là với hành động cũng đúng.
Tướng Thiệt nó bao gồm: mục đích, phương tiện và cứu cánh, bộ phận và toàn thể, cá nhân và tập thể, phương án, giáo án, cùng là mối tương quan giữa cá nhân với cá nhân giữa cá nhân với cộng đồng và cộng đồng nầy với cộng đồng khác …. Cho đến các giai đoạn tiến hành…
Nói bình dân là từ nhỏ đến lớn từ lớn đến nhỏ, từ thấp đến cao từ cao đến thấp, từ hữu hình đến vô vi, từ vô vi đến hữu hình… nghĩa là tất cả những gì mà Tôn giáo cũng như cá nhân phải làm theo đường hướng Chính Trị Đạo.
Chữ thiệt tướng là chữ rất Cao Đài cho nên dùng nó trong trường hợp nào cũng đúng và nghiêm chỉnh.
Xã hội có sự phân biệt chữ tiêu và chữ dùng nhưng xã hội cũng có chữ xài. Chữ XÀI trong xã hội muốn hiểu nó theo nghĩa là TIÊU hay DÙNG cũng đều đúng cả.
Tướng thiệt của một con người đã khó.
Tướng thiệt của một Tôn Giáo lại càng khó…
Cho nên ở đây chúng tôi xin nói rõ là tập sách nầy không có tham vọng thể hiện ĐẦY ĐỦ cái tướng thiệt hay thiệt tướng của Đạo Cao Đài.
Tập sách nầy giải quyết câu hỏi là: LÀM THẾ NÀO ĐỂ CHO ĐẠO CAO ĐÀI THỂ HIỆN ĐƯỢC THIỆT TƯỚNG…. “Về mặt luật pháp” mà thôi.
Nghĩa là giải quyết căn cơ câu hỏi “ tổ chức như thế nào” để cái thiệt tướng được thể hiện trong từng vấn đề.
Người tín đồ Cao Đài bình thường cũng như người có nhiệt tâm đều có nguyện vọng làm cho đạo Cao Đài ra thiệt tướng….
Tập sách nầy có giá trị chăng là ở chổ nêu lên một câu hỏi cơ bản: Nguyên tắc căn bản nào để làm cho Đạo lộ ra cái tướng thiệt.

Đặt vấn đề:
Sau khi chúng tôi hiểu và định hướng được rằng Tôn Giáo Cao Đài là một phát minh mới để xây dựng một xã hội đại đồng trên nền tảng bác ái và công bằng; hiểu rằng một thế giới mới trong hoà bình và an lạc đã có mô hình tại Châu Thành Thánh Địa Toà Thánh Tây Ninh và đang tiệm nhập vào phần còn lại của thế giới… từ trong nước lẫn ngoài nước…
(Tùng theo chơn pháp độ lần chúng sinh)
Ngoài phần tìm hiểu về công thức xây dựng thế giới đại đồng cùng mô hình, cấu trúc và bộ máy thực thi… một cách cơ bản thì có một câu hỏi nêu lên:
CÁI TƯỚNG THIỆT CỦA ĐẠO CAO ĐÀI LÀ GÌ?
Chúng tôi trả lời chung chung theo kiểu chỉ cả 5 ngón tay lên bụng và quơ một vòng để báo vùng đau bụng thì được… còn như dùng một ngón tay để chỉ ngay chổ đau bụng thì chúng tôi chịu thua.
Anh nào, chị nào… cũng có câu trả lời nhưng xét ra thì câu nào cũng chỉ có một phần căn cứ…. Câu nào cũng theo cảm tính và theo ý kiến chủ quan ….
Chúng tôi hiểu ra rằng bấy lâu nay chúng tôi đã quá dễ dãi với chính mình và dễ dãi với nhau.
Dễ dãi với chính mình vì một câu hỏi cơ bản như thế mà không lưu ý để có một kiến giải thoả đáng. Dễ dãi với nhau vì đã biết bao nhiêu lần ngồi lại với nhau để trao đổi bài vở mà cũng chưa có anh nào có một đáp án rành mạch cho vấn đề.
Khi dò tìm lại những văn bản gốc để xác định câu trả lời cơ bản cho vấn đề nêu lên, chúng tôi càng thắm thía rằng không có vấn đề nào là nan giải trong Tôn Giáo Cao Đài, mà cái nan giải đây là ở chính quan niệm của chúng ta khi tiếp cận vấn đề.
Nay Kính

                                            @@@


















THIỆT TƯỚNG CỦA ĐẠO CAO ĐÀI
“Về nguyên lý đạo pháp”.

Muốn hiểu được căn cơ vấn đề nầy thiết tưởng phải căn cứ vào Thánh Ngôn hay văn bút của Hội Thánh Cao Đài ban hành.

A- VĂN BÚT HỘI THÁNH: CƠ SỞ XÁC ĐỊNH.
Văn bút của Hội Thánh có thể chia làm hai diện:
* Phần tổng quát:
Giúp cho người học đạo hiểu và tin rằng khai mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là để hoá giải tất cả những nhu cầu chính đáng về vật chất và tinh thần của nhân loại trong minh triết.
Tôn giáo Cao Đài là một phát minh mới, tự trong lòng tôn giáo ẩn chứa nguồn cung vô tận cho nhân loại đang có nhu cầu xây dựng một cuộc sống trong bác ái công bằng.
* Phần cụ thể:
Trích từ Thiên Thơ định nghĩa thế nào là Tướng thiệt của Đạo Cao Đài.
Tiếp theo là phần trích lục các văn bút chính thống của quí vị tiền bối.
I- PHẦN TỔNG QUÁT.
1- Thánh Ngôn Hiệp Tuyển “TNHT”.
a- Q.1. 18. 24 Avril 1926 “13-3- Bính Dần”.
Vốn từ trước Thầy lập ra Ngũ chi Đại-Đạo là: Nhơn-đạo,Thần-đạo, Thánh-đạo, Tiên-đạo, Phật-đạo.
Tuỳ theo phong hoá cuả nhân loại mà gầy Chánh-Giáo, là vì khi trước Càn-vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt, thì nhơn-loại duy có hành đạo nội tư phương mình mà thôi.
Còn nay thì nhơn-loại đã hiệp đồng. Càn-Khôn dĩ tận thức, thì lại bị phần nhiều đạo ấy mà nhơn-loại nghịch lẫn nhau: nên Thầy mới nhứt định quy nguyên phục nhứt ...
b- (((TNHT Q.1.T.45. 12 tháng 8 năm Bính Dần
…. Bính - Thầy giao cho con lo một trái Càn-Khôn; con hiểu nghĩa gì không?... Cười... Một trái như trái đất tròn quay, hiểu không? Bề Kính tâm ba thước ba tấc, nghe con, lớn quá mà phải vậy mới đặng, vì là cơ mầu nhiệm Tạo-Hóa trong ấy, mà sơn màu xanh da trời; cung Bắc-Đẩu và Tinh-Tú vẽ lên Càn-Khôn ấy. Thầy kể Tam-Thập-Lục-Thiên, Tứ-Đại-Bộ- Châu ở không-không trên không khí, tức là không phải Tinh-Tú, còn lại Thất-thập-nhị-Địa và Tam-Thiên thế giái thì đều là Tinh-Tú. Tính lại ba ngàn bảy mươi hai ngôi sao, con phải biểu vẽ lên đó cho đủ. Con giở sách thiên-văn Tây ra coi mà bắt chước. Tại ngôi Bắc-Đẩu con phải vẽ hai cái bánh lái cho đủ và sao Bắc-Đẩu cho rõ ràng. Trên vì sao Bắc-Đẩu vẽ con mắt Thầy; hiểu chăng? Đáng lẽ trái ấy phải bằng chai, đúc trong một ngọn đèn cho nó thường sáng; ấy là lời cầu nguyện rất qúi báu cho cả nhơn-loại Càn-Khôn Thế-Giới đó; nhưng mà làm chẳng kịp, thì tùy con tiện làm thế nào cho kịp đại-hội - Nghe à!
Còn chư Phật, chư Tiên, Thánh, Thần đã lên cốt thì để dài theo dưới, hiểu không con?
Đọc hai đoạn Thánh Ngôn trích ra trên đây thiết tưởng môn đệ của Chí Tôn đủ tự tin rằng: Cơ mầu nhiệm của tạo hoá đã đem xuống cho thế gian nầy & đặc để trong Tôn giáo Cao Đài.
Vậy thì mọi vấn đề chi nhân loại thắc mắc nói chung và cái thiệt tướng của Đạo Cao Đài nói riêng .... phải có trong văn bút Cao Đài vậy.
2- Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo .
PMCK:
Hội nguơn hữu Chí Linh huấn chúng
(Nguơn hội nầy “Tam Kỳ” do Đấng Chí Linh dạy… mà Đấng Chí Linh thì bày từ a đến z, từ thậm thâm đến vô thượng đều chỉ tường tận… chỉ có môn sinh chịu học cùng không mà thôi...)
Kỳ khai tạo nhứt linh đài...
Dạy lần nầy nhứt định tạo ra sự khôn ngoan và tinh tấn… khi trãi bước trên đường tấn hoá…
- Khai cửu Đại Tường và Tiểu Tường:
Nắm cây huệ kiếm gươm thần,
Dứt tan sự thế nợ trần từ đây .
Nhứt Cửu: …Khá tỉnh thức tiền duyên nhớ lại…
Nhị Cửu: ….Thần im lìm dường nét thiều quang…
Tam Cửu: …Hội Thánh minh giao sách trường xuân…
Tứ Cửu: …Trừ quái khí roi thần chớp nhoáng
Bộ Lôi Công giải tán trược quang…
Ngũ Cửu: …Đắc văn sách thông thiên định địa….
Lục Cửu: …Cung Lập Khuyết tìm duyên định ngự…
Thất Cửu: …Kiến Chuẩn Đề thạch xá giải thi…
Bát Cửu: …Cung Tận Thức thần thông biến hoá….
Cửu Cửu: …Cung Trí Giác trụ tinh thần…
Tiểu Tường: … Bồ Đề dạ dẫn hồn thượng tấn
Đại Tường: … Khai cơ tận độ cửu tuyền diệt vong ….
3 - Đạo Sử Q.2: T. 237: 29-7-B.D.
Như Nhãn hiền đồ Thầy không muốn nói với con bằng tiếng Hớn Ngôn vì tiếng An Nam từ đây Thầy cho là Chánh Tự đặng lập Đạo của Thầy nên buộc phải nói rõ ràng với con.
Thời kỳ dấu diếm Thiên cơ đã qua rồi…
II- ĐỊNH NGHĨA “thiệt tướng Cao Đài” .
TNHT. Q. 2. T 83: Tây-Ninh(Thảo-xá Hiền-Cung), ngày 23 Décembre 1931
….. Các con phải nhớ rằng toàn Thế-giới Càn-khôn, chỉnh có hai quyền: trên là quyền-hành Chí-Tôn của Thầy, dưới là quyền-hành của sanh-chúng. Thầy đã lập hình-thể hữu-vi của Thầy, nghĩa là Hội-Thánh của Đại-Đạo ngày nay rồi thì Thầy cũng phải ban quyền-hành trọn-vẹn của Thầy cho hình-thể ấy, đặng đủ phương tận-độ chúng-sanh, còn các con cả thảy đều đứng vào hàng sanh-chúng, dưới quyền-hành chuyển thế của đời, nghĩa là toàn nhơn-loại đồng quyền cùng Thầy, mà tạo-hóa vạn-linh vốn là con-cái của Thầy, vậy thì vạn-linh cũng có thể đoạt-vị vào hàng Thần, Thánh, Tiên, Phật đặng.
Trong quyền-hành ấy có nhiều đẳng-cấp, nên khỏi phải chịu phẩm Người: ấy vậy Người là chủ-quyền của vạn-linh. Thầy nói rõ: quyền Chí-Tôn là Thầy, quyền Vạn-linh là sanh-chúng, ngày nào quyền-lực Chí-Tôn đặng hiệp một cùng Vạn-linh thì Đạo mới ra thiệt-tướng. Thầy đã ban quyền-hành Chí-Tôn của Thầy cho hai đứa làm đầu Hội-Thánh là Giáo-Tông cùng Hộ-Pháp. Vậy thì quyền-hành Chí-Tôn của Thầy đặng trọn-vẹn khi Giáo-Tông cùng Hộ-Pháp hiệp một. Còn cả nhơn-loại thì là quyền lực Vạn-linh. Quyền-hành Chí-Tôn của Thầy, duy có quyền-hành Vạn-linh đối-phó mà thôi.

B- GIẢI ĐÁP VẤN ĐỀ
Phần làm rõ thiết tưởng nên chia làm 02 diện:
* Văn bút của các vị tiền bối.
* Các Luật Lệ liên quan.
I- Văn bút tiền nhân.
1- Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt.
Diễn văn ngày 08-4-Giáp Tuất “1934”.
Đạo Sử Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu Q.2 Trang 293. Bản in Hoa Kỳ.
... Bởi vậy mới rồi đây, Tệ Huynh có đắc lịnh dạy bảo phải chỉ rõ phương diện chánh thể của Ðạo, xin giải:
Trước đây, Tệ Huynh có nói Thầy lập Ðạo kỳ nầy phù hạp với dân trí ngày nay đã tăng tiến khỏi Ngươn Tấn Hóa đến địa vị tối cao, cho nên chủ nghĩa Cựu Luật của các Tôn Giáo hiện thời không đủ sức kềm chế đức tin của toàn nhơn loại.
Theo chánh thể của ÐÐTKPÐ thì có ba Hội đã định quyền hành đặc biệt:
a). Thứ nhứt là Hội Nhơn Sanh:
Trong Hội Nhơn Sanh thì Chánh Phối Sư phái Thượng là Chủ Trưởng.
Hội Viên thì từ Lễ Sanh đổ xuống Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự, Thông Sự và người Phái Viên thay mặt cho nhơn sanh.
Trong Nội Luật Hội Nhơn Sanh của ba Chánh Phối Sư lập ra có chỉ rõ luật lệ. Ấy vậy từ hàng Tín Ðồ cùng đồng nhi đều có người thay mặt đặng xem xét việc Ðạo rồi đệ lên Hội Thánh phán đoán.
Vạn vật cũng có ảnh hưởng trong Hội Nhơn Sanh vì người là Chúa của vạn vật. Xét kỹ thì Thầy công bình không xiết kể và lo việc hóa sanh không ngằn không tận.
b). Thứ nhì là Hội Thánh:
Trong Hội Thánh thì có Thái Chánh Phối Sư làm Chủ Trưởng. Hội Viên thì từ Giáo Hữu, Giáo Sư và Phối Sư thiệt thọ có trách nhậm hành chánh đặc biệt.
Trong Nội Luật Hội Thánh của ba Chánh Phối Sư lập ra có chỉ rõ thức lệ. Hội Thánh có quyền xem xét các việc của Hội Nhơn Sanh dâng lên và các việc hành chánh trong Ðạo, rồi đệ lên Thượng Hội.
c). Thứ ba là Thượng Hội:
Thượng Hội thì cũng có Nội Luật chỉ rõ thức lệ. Trong Thượng Hội thì Giáo Tông làm Chủ Trưởng, Hộ Pháp làm Phó Chủ Trưởng. Hội Viên thì có:
· Thượng Phẩm
· Thượng Sanh
· Ba vị Chưởng Pháp
· Ba vị Ðầu Sư
· Và Ðầu Sư Nữ Phái
Không cần nhắc thì chư Hiền Hữu Lưỡng Phái cũng hiểu rằng mấy Ðại Thiên Phong kể trên đây có hành chánh phận sự lớn lao của mình thì mới đặng vào Thượng Hội.
Thượng Hội để giúp Giáo Tông và Hộ Pháp điều đình cả nền Ðạo lớn lao của Thầy.
Thượng Hội có quyền xem xét các điều nghị luận của Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh rồi hoặc đệ lên cho Giáo Tông và Hộ Pháp phê chuẩn hay là trả lại cho Hội Thánh định đoạt lại.
Ba Hội (Thượng Hội, Hội Thánh, và Hội Nhơn Sanh) toàn nhập lại theo thức lệ rành rẽ thì gọi là Quyền Vạn Linh, chớ không phải ai muốn lập Hội Vạn Linh, tổ chức gì theo ý riêng của mình rồi muốn đem ai lên làm Chủ Trưởng tổ chức gì cũng được.
Như vậy thì có Luật lệ gì đâu? Mà không Luật lệ thì là không phải Ðạo.
Trên ba Hội, thì có Giáo Tông và Hộ Pháp.
Giáo Tông làm chủ Cửu Trùng Ðài thì lo việc Chánh Trị của Ðạo, có Chưởng Pháp và Ðầu Sư ở trung gian giúp sức điều đình các Luật lệ truyền xuống cho ba Chánh Phối Sư nắm trọn quyền hành chánh. Giáo Tông có quyền định đoạt trong việc Chánh Trị của Ðạo.
Hộ Pháp thì lo giữ Luật lệ của Ðạo cho khỏi sái Thiên Ðiều vì Luật lệ của ÐÐTKPÐ ngày nay thì thế cho Thiên Ðiều.
Hộ Pháp có quyền đặc biệt về ân xá cũng như Giáo Tông có quyền Chánh trị vậy.
Hộ Pháp chưởng quản Hiệp Thiên Ðài, có Thượng Phẩm, Thượng Sanh và Thập Nhị Thời Quân giúp sức.
Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp một là Quyền Chí Tôn.
Tệ Huynh có thọ lịnh chỉ rõ phương diện Chánh thể của ÐÐTKPÐ của Thầy khai trong buổi Hạ Ngươn chuyển thế đây y trên đó. Xin chư Hiền Hữu Lưỡng Phái rán nhớ và lo phận sự, đừng sai luật Ðạo mà bị tội, và mình tuân trọn Luật Ðạo của Thầy thì là món binh khí diệt tà quyền giả mị đó.
Tệ Huynh xin nhắc lời tuyên ngôn của Ðại Từ Phụ hồi buổi ban sơ, Thầy có nói: "Thầy lập Ðại Ðạo Tam Kỳ nầy là lập một cái trường công quả, nếu các con đi ngoài trường công quả ấy thì không trông mong gì về cùng Thầy đặng".
Trường công quả của Thầy có đôi bên: Một bên vô hình là các Ðấng Thiêng Liêng (Phật, Tiên, Thánh, Thần) cũng lập công quả trong buổi chuyển thế nầy. Các Ðấng Thiêng Liêng thường theo một bên chúng ta đặng ám trợ chúng ta về phần vô vi.
Còn các việc hữu hình tại thế là các việc phải có thi hành như chúng ta bây giờ đây mới làm đặng thì về phần chúng ta phải lo làm rồi có các Ðấng Thiêng Liêng ám trợ.
Thí dụ như đi độ rỗi nhơn sanh phải nói Ðạo cho người nghe, như phải lập mấy cuộc để giúp thế đang nguy nan, như nhà trường dạy kẻ cô độc học, nhà thương, nhà dưỡng lão cùng các nghề nghiệp cho đạo hữu có phương làm ăn đặng cơm tẻ ngày hai, có áo quần che thân ấm cật.... thì chúng ta phải lo hết rồi các Ðấng Thiêng Liêng ám trợ cho thành tựu….
b- Diễn văn của Đức Hộ Pháp.
“ chủ toạ” kỳ Hội Nhơn Sanh năm Đinh Sữu (1937).
Ngày nay Đấng Chí Tôn đến lập Đạo đặng nhìn nhận cả con cái của Người là cả thảy Chúng Sanh. Thay vì lấy quyền hành Chí Linh mà làm chúa Người lại dụng tánh đức thương yêu lấy lòng từ bi quãng đại, tôn con cái của Người vi chủ.
Nghĩa là Người giao quyền hành của Người lại cho Chúng Sanh lập quyền cho con cái của Người là Quyền Vạn Linh.
Quyền Vạn Linh là gì?
Là Tổng hợp cả 3 quyền:
1- Quyền Hội Nhơn Sanh.
2- Quyền Hội Thánh.
3- Quyền Thượng Hội.
Quyền Hội Nhơn Sanh: Tức là quyền của bậc Tín Đồ tới bậc Lễ Sanh.
Nghĩa là từ phẩm hữu sanh tới Thượng Sanh.
Quyền Hội Thánh: Tức là Quyền của bậc Giáo Hữu tới Đầu Sư.
Nhưng Đầu Sư có đặc quyền làm đầu Chánh Trị Đạo. Vì đã vào Hội Thánh tức là bậc hữu phẩm tới Thượng Phẩm.
Quyền Thượng Hội: Tức là quyền Giáo Tông và Hộ Pháp. Còn dưới quyền Thượng Hội thì có Chưởng Pháp là Tể Tướng của Thượng Hội. Nếu có điều chi trắc trở thì Quyền Chí Tôn hỏi nơi Chưởng Pháp mà định đoạt chớ Chưởng Pháp không có quyền hành chi cả.
Chưởng Pháp phải hiểu cả tâm đức của Đời và Đạo mà liệu phương hoá giải (Conseil Juridique) .
Cả ba quyền hiệp lại thì đồng quyền cùng quyền Chí Linh Của Đấng Chí Tôn. Đối với quyền Chí Tôn mà nó còn ngang phẩm thì dầu cho các Đấng Thiêng Liêng cũng còn phải dưới quyền ấy nữa.
Ấy vậy ngoài ra quyền Chí Tôn thì chẳng ai có quyền hành nào phong thưởng Thiên Phong Chức Sắc của Hội Thánh. Duy có Đức Lý Giáo Tông và Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn là hai Đấng đã có lịnh Chí Tôn cho được quyền phong thưởng thì phẩm tước ấy mới nên giá trị.
Ngoài hai Đấng ấy ra dầu cho một vị Đại Giác Kim Tiên hay là Cái Thiên Cổ Phật mà không thừa mạng lịnh của Chí Tôn và không quyền hành nơi cửa Đạo nghĩa là không lãnh mạng lịnh trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ nầy thì không đặng quyền phép phong tước cho ai tất cả.
Ngày nay bọn Tã Đạo Bàn Môn phong thưởng chẳng do Thiên mạng đều là cơ quan tà giáo mà thôi.
Cơ phong thưởng là chỉ do nơi quyền Vạn Linh hiệp đồng hay là hay là quyền Chí Tôn chớ chẳng phải ai muốn phong thưởng cũng đặng…
Đức Hộ Pháp lại tiếp: Từ đây cả quyền thăng thưởng trong Hội Thánh hay là Nhơn Sanh cũng vậy Chí Tôn đã nấy giao quyền cho vạn linh. Đức Lý Giáo Tông đã mật lịnh cho Bần Đạo làm như vậy rồi mới đem lên cho quyền Chí Tôn phong thưởng mà thôi. Bần Đạo chỉ có quyền phong thưởng tới bậc Lễ Sanh còn từ bậc Giáo Hữu đổ lên Bần Đạo xin rữa tay không còn quyền hành chi hết.
Bần Đạo xin trạng vẽ ba quyền hành ấy ra đây cho toàn Đạo rõ thấy:
CHÍ LINH ĐỐI VỚI VẠN LINH.
Bát (CHÍ TÔN)
Quái (Các Đấng Thiêng Liêng) {Quyền Đạo}.
Đài. (Giáo Tông và Hộ Pháp)
Cữu Trùng (Giáo Tông và Hộ Pháp)
Đài và Hiệp (Hội Thánh) {Q.Thánh Thể
Thiên Đài. (Chúng Sanh) tức Q. Hội Thánh}.
(Lễ Sanh)
id Chức Việc) {Quyền Thế}.
(Tín Đồ)
Quyền Chí Tôn: Luật Thiên Điều tức là Thiên luật.
Quyền Hội Thánh: Luật Hội Thánh.
Quyền Nhơn sanh: Thế luật và Tân Luật.
a- Cả Thánh giáo tổng hợp lại là Luật của Chí Tôn tức Thiên Luật.
b- Lập Thánh Thể của Người rồi Người lại dạy Đức Lý Giáo Tông lập Tân Luật cùng Đạo Nghị Định ấy là Luật của Hội Thánh với Luật hành động từ 12 năm nay.
c- Luật của Chúng Sanh là Luật Đời (Code pénal), tổng hợp lại với Luật Đạo.
II- Xác Định Quyền Vạn Linh & Quyền Chí Tôn
Muốn dẫn chứng CHÍNH XÁC phải rút từ hai trích đoạn :
1- Đức Quyền Giáo Tông :
Trên ba Hội, thì có Giáo Tông và Hộ Pháp
2- Đức Phạm Hộ Pháp :
Trừ hai vị Đại Thiên phong là Giáo Tông và Hộ Pháp đã thay quyền Chí Tôn tại thế ra, cả ba Hội Công Đồng mới có quyền Vạn linh đủ phép.
3- Kết Luận:
a- Quyền Chí Tôn là quyền của Hộ Pháp và Giáo Tông trong Thượng Hội. Đó là QUYỀN CHÍ TÔN TRONG NHÂN THẾ VẬY. “Hay Chí Linh trong nhân thế”
b- Quyền Vạn Linh từ Phẩm Chưởng Pháp trong Thượng Hội xuống cho đến Hội Nhơn Sanh.
4- Điều cần lưu ý: (Chứng minh từ Luật lệ có liên quan)
a- Danh xưng của Giáo Tông và Hộ Pháp trong Thượng Hội.
- Giáo Tông là Hội Trưởng của Thượng Hội.
- Hộ Pháp là Phó Hội Trưởng của Thượng Hội.
* Về cơ cấu nhân sự hai vị nầy ở trong Thượng Hội.
* Nhưng về quyền lực hai vị hiệp lại thì ở trên Thượng Hội.
(Ba Hội nhưng có thể đến 04 công đoạn …)
Điều nầy được chứng minh qua: Cách thức bỏ thăm của Thượng Hội.
[[[[[ Điều Thứ Mười:
Trong mổi việc chừng cả Hội viên tỏ hết ý kiến và bàn luận rồi thì Hộ Pháp và Giáo Tông có ý kiến chi thì mới bày tỏ ra sau rốt. Chừng rồi Hội trưởng định bỏ thăm, bên nào phần đông thì Thượng Hội tuân theo.
Điều Thứ Mười Một:
Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp một thì là quyền Chí Tôn nên không có bỏ thăm. Nếu cả ba hội phản khăc nhau thì quyền Chí Tôn nghĩa là của Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp một chủ định thể nào thì Chánh Trị của Đạo y theo thế ấy. Còn như quyền hành Giáo Tông và Hộ Pháp phản khắc nhau nữa thì cả thảy về chánh trị và chúng sanh đều bị huỷ bỏ.
Chừng ấy Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh, Thượng Hội phải nhóm lại mà định đoạt sửa cải lại na.
Nếu có việc chi trái Luật Đạo thì Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp cùng nhau đặng trọn quyền ban truyền xuống cho Đầu Sư định đoạt lại.
Điều Thứ Mười Bốn:
Sau khi hội Thượng Hội thì Giáo Tông và Hộ Pháp phải đình Hội lại 15 phút đồng hồ đặng hai người vào Đại Điện mật nghị rồi phải trở ra cho Thượng Hội hay những điều của hai đàng nhứt tâm quyết định.
Phân tích sẽ thấy thượng hội  có hai cấp: biểu quyết và phán quyết.
- Từng phần: khi thảo luận. “biểu quyết”.
- Chung cuộc: khi hội xong. “phán quyết”
a- Biểu quyết từng phần: “điều 10”.
Sau khi bàn luận theo thứ tự đã định xong rồi thì Giáo Tông cho bỏ thăm. Bên nào có số thăm nhiều thì thượng hội tuân theo.
Chỉ có các Nghị Viên Bỏ thăm còn Giáo Tông và Hộ Pháp thì không bỏ thăm”.
b- Biểu quyết chung cho cả cuộc hội: “Điều 11 và 14”
Theo điều 11:
+ Giáo Tông và Hộ Pháp không bỏ thăm nhưng lại phán quyết trong cả 2 trường hợp:
- Thượng Hội không thống nhất với quyết định hai hội trước.
- Thượng Hội thống nhất với quyết định hai hội trước.
+ Khi Giáo Tông và Hộ Pháp cùng phán quyết thì lại xảy ra hai trường hợp:
- Hai vị có cùng chung một phán quyết.
- Hai vị không cùng chung một phán quyết.
Theo điều 14:
Dù theo trường hợp nào thì trước khi bế mạc cả Thượng Hội cũng phải đình lại 15 phút để chờ hai vị Hộ Pháp và Giáo Tông vào đại điện mật nghị và công bố phán quyết ngay sau đó. (chú ý: Ở HNS và HHT khi điều gì đã được thông qua của toàn hội thì khi bế mạc được giữ y không có việc xét lại …)
Kết quả ở Thượng Hội không phụ thuộc vào biểu quyết của các Nghị Viên Thượng Hội mà tuỳ thuộc vào quyền Chí Tôn tại thế sau khi hai vị vào đại điện mật nghị. Đây là điều mà hai hội bên dưới không có và cũng là công đoạn thứ tư trong ba hội vậy]]]]]
b- Thái Chánh Phối Sư trong Hội Thánh. (Theo Nội Luật)
Khi bỏ thăm các Nghị Viên chia thành 02 hệ. (Cửu Trùng Đài & Hiệp Thiên Đài)
Hệ của Cửu Trùng Đài biểu quyết riêng.
Thái Chánh Phối Sư ở trong Hội Hội Thánh là nhân sự của Cửu Trùng Đài nên bỏ thăm theo luật lệ chung.
(Nghị Trưởng Hội Hội Thánh theo chổ chúng tôi hiểu thì chỉ có ¼ lá phiếu.
Tại sao là ¼ lá phiếu?
Vì Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài mổi bên ½ quyền quyết định .
Mà Nghị Trưởng Hội Hội Thánh là nhân sự Cửu Trùng Đài nên chỉ có ½ quyền quyết định cho ½ quyền của Cửu Trùng Đài .
[½ trong quyền riêng của Cửu Trùng Đài + ½ trong quyền chung= ¼]
Kết luận: ¼ lá phiếu có ý nghĩa như vậy).

c- Thượng Chánh Phối Sư trong Hội Nhơn Sanh:
Khi bỏ thăm: Toàn thể nghị viên của ĐHNS là một khối khi biểu quyết. Một vấn đề khi bỏ thăm thì cần 50% số người hiện diện cộng thêm vào một lá thăm nữa thì việc ấy được công nhận. Khi vấn đề đã được công nhận thì Nghị Trưởng không có quyền bỏ phiếu.
Nghị Trưởng của Hội Nhơn Sanh là Thượng Chánh Phối Sư chỉ tham gia biểu quyết khi nào cuộc biểu quyết rơi vào trường hợp 50% thuận và 50% không thuận.
Phiếu của Thượng Chánh Phối Sư là phiếu dự bị để giải quyết khi số phiếu hai bên ngang nhau. (Nghị Trưởng Hội Nhơn Sanh chỉ có ½ lá phiếu)
@ @ @
Kết luận: Từ lời dạy của Đức Chí Tôn trong TNHT về TƯỚNG THIỆT CAO ĐÀI chúng tôi đã căn cứ vào Pháp Luật Tôn giáo để hiểu:
1- Quyền Chí Linh trong nhân thế là Quyền Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp một.
2- Khi ý muốn của Quyền Vạn Linh phù hợp với ý của Quyền Chí Tôn  tại thế (Giáo Tông và Hộ Pháp) thì đạo ra thiệt tướng.
Đó là ý nghĩa của Tướng Thiệt Cao Đài “Về Luật Pháp & Tổ chức –  từ đó mới có quyết sách cho nội dung Chánh Trị Đạo” hầu giúp nhau gọi cho đúng tên.
Đạo Pháp Vô Biên cho nên hẳn nhiên là sẽ còn nhiều công trình tìm hiểu sâu xa hơn nữa vậy ./.

(XEM tiếp bài GIÁO TÔNG CẦM QUYỀN CHÍ TÔN TẠI THẾ ...)
                                      @@@



LỜI BỔ SUNG:
1- Tham khảo thêm:
Phần mở đầu Thượng Hội có đoạn: Cửu Trùng Ðài là hình thể hửu vi của Ðấng Chí Tôn chia ba hội: 1- Hội Nhơn Sanh. 2- Hội Thánh. 3- Thượng Hội.
Ba hội nầy hiệp cùng nhau là hình thể hữu vi của Ðấng Chí Tôn…
2- Sau khi trình bày đề tài một thời gian thì chúng tôi “ngộ” ra rằng: Tướng thiệt của Đạo là chánh trị đạo.
Chánh trị đạo có thể hiểu:
-         Cơ chế để nhóm họp, bàn thảo.
-         Nội dung bàn thảo.
-         Các cơ quan của chánh trị đạo.
-         Hành chánh tôn giáo.
Như vậy phần chúng tôi trình bày trên là cơ chế để ba hội lập quyền bàn thảo về nội dung của chánh trị đạo.
Từ có nội dung của chánh trị đạo thì các cơ quan của chánh trị đạo là Hành Chánh, Phước Thiện, Phổ Tế và Tòa Đạo tùy nhiệm vụ mà thực thi về mặt chuyên môn.
Còn mặt Hành Chánh tôn giáo thì tùy vào cấp Trung Ương, Trấn, Châu, Tộc hay Hương mà tiến hành theo khuôn viên đã định.