Trang

Thứ Hai, 25 tháng 11, 2019

2948. TÌM HIỂU PHÁP CHÁNH TRUYỀN.



Nam Mô Cao Đài Tiên Ông
Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Năm Đạo 82.
Tòa Thánh – Tây Ninh. 

TÌM HIỂU
PHÁP CHÁNH TRUYỀN:

           - KIẾN THẾT HIẾN PHÁP.
-            XÂY DỰNG DÂN QUYỀN.
-            THÁI CỰC TỪ THÁI CỰC.
  
CHỦ NGHĨA CAO ĐÀI.
05-5 – MẬU TÝ. (2008).
HẠNH ĐƯỜNG TỰ HỌC.
(HỘI THÁNH CHƯA KIỂM DUYỆT).

TRANG WEB. chonphapcaodai.net.

Chúng tôi đã đăng năm 2008. Nay đăng lại theo yêu cầu bạn đọc. Chúng tôi có thêm một vài đoạn và đánh dấu CT 2019. Xưa rất khó khăn và nguy hiểm nên chúng tôi không để tên thật. Nay xin đề tên thật để chịu trách nhiệm. Nay kính.)
Đạo Hữu Dương Xuân Lương.


LỜI MỞ ĐẦU.

Thế giới ngày xưa thì mênh mông, còn nay nhờ vào các phương tiện thông tin liên lạc như: màn ảnh truyền hình, internet, điện thoại di động … nên hầu như hiện ra trước mắt tức thì nếu muốn…
Con người đã đặt chân đến nguyệt cầu, đã cho phi thuyền hạ cánh xuống sao hỏa thành công.
Buổi càn khôn dĩ tận thức đã hiển hiện ra trước mắt.
Đường hàng không, hàng hải… đã đưa nhân loại bước vào giai đoạn năm châu chung chợ bốn biển chung nhà.
Nhưng nhân loại vẫn còn những khổ cảnh do chính tầng lớp có quyền hành với nhân loại tạo ra.  Những tội ác chống nhân loại vẫn diễn ra dưới mọi hình thức tinh vi và xão quyệt và rất có bài bản…
Do vậy mà các tổ chức phi chính phủ như:  Thầy thuốc không biên giới, ký giả không biên giới, các tổ chức theo dõi nhân quyền, các hội nghị tôn giáo …ra đời để giúp đở cho phần nhân loại kém may mắn.
Điều đó cho thấy nhân loại vẫn có những người hào hiệp đáng trân trọng.  Người đã muốn điều phải, điều lành đến cho đồng loại ấy là ước muốn phù hợp với ý tình  tạo hóa.
 Thượng Đế đã đến với nhơn loại bằng cách dùng cơ bút để hoằng khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (1926).
Thượng Đế đã chỉ ra cách lập pháp và cách thức áp dụng nó trong tôn giáo Cao Đài để làm mẩu cho trí thức, đạo tâm nghiên cứu.
Cách lập pháp của Thượng Đế là lập quyền cho nhân loại.
Cách lập quyền cho nhân loại được lộ rõ qua Pháp Chánh Truyền.
Tiếc vì 30 năm nay (1979- 2008) không có Hội Thánh Cao Đài  để giới thiệu điều mật thiết đến với quí hiền nhân, quân tử đang nặng  mang hoài bão: Góp phần tạo ra cảnh sống công bình và bác ái cho nhân loại.
Do vậy mà khối tín đồ Cao Đài chúng tôi mạo muội “lấy ra từ kho chí bữu” một vài món báu giới thiệu đến quí vị.
Ngọc có quí mà tay thợ không đủ tài cũng không thể hiện cái đẹp của ngọc. Chúng tôi cũng tự biết chưa thể hiện được cái vi diệu của Pháp Chánh Truyền. Chúng tôi chỉ dám nói với quí vị rằng:  có kho chí bữu trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ để quí vị đến lấy ra mà phụng sự cho nhân loại.
Tâm nguyện chúng tôi chỉ có thế nên xin được niệm tình tha thứ mọi điều thiếu xót.
Nay kính.








TÓM LƯỢC.

LỜI MỞ ĐẦU.
TIẾT MỘT: NGUỒN GỐC.

A- XUẤT XỨ CỦA PHÁP CHÁNH TRUYỀN.
B- TIẾN TRÌNH THÀNH LẬP.

TIẾT HAI: NỘI DUNG PCT.
A-      CỬU TRÙNG ĐÀI.
I-        Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Đài Nam Phái.
1-              Chức Sắc Nam Phái “Hội Thánh Anh”:
2- Chức việc Nam phái “Hội Thánh Em”:
3- Đạo phục.
II-      Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Đài Nữ Phái.
1- Chức Sắc Nữ Phái.
2- Chức Việc Nữ phái.
III- Luật công cử.
B- HIỆP THIÊN ĐÀI.
I-   Sở dụng thiêng liêng “Phần nầy Thầy giử”:
II- Sở dụng phàm trần. “Hộ Pháp chưởng quản”.
1- Chi Pháp.
2- Chi Đạo.
3- Chi Thế.

TIẾT BA: PHÁP CHÁNH TRUYỀN CHÚ GIẢI.

A- Ý NGHĨA CỦA CHÚ GIẢI.
B- NHỮNG ĐIỀU CẦN NÊN BIẾT.
I-                Đảo ngược thứ tự các vị Thời Quân
II- Ý nghĩa câu: Hễ Đạo còn thì Hiệp Thiên Đài còn.
III- Quyền hành Đầu Sư Nam và Nữ.
IV- Quyền chánh trị và luật lệ.
V- Không đưa Phước Thiện vào Pháp Chánh Truyền.
* PHẦN HỘI THÁNH EM.
* CHÚ GIẢI HOÀN THÀNH NĂM NÀO?
* PHÁP CHÁNH TRUYỀN CHÚ GIẢI VÀ CÁC CHI PHÁI.

TIẾT BỐN: QUYỀN LẬP LUẬT VÀ QUYÊN ĐỐI NGOẠI TRONG PCT.

A- QUYỀN LẬP LUẬT THEO PHÁP CHÁNH TRUYỀN.
I-                Phẩm Giáo Tông có quyền lập Luật.      
II-              Phẩm Ðầu Sư có quyền lập Luật. 
III-            Trường hợp đặc biệt: (Hộ Pháp tham gia làm luật). 


B-      QUYỀN ĐỐI NGOẠI.
I- Quyền đối ngoại:
II- Quyền thông công và Quyền giao thông:
1-      Đạo Nghị Định thứ 02 (1930).
2-      Đạo Nghị Định thứ Tư (1930).
III Quyền thân thiện.
IV- Quyền giao thiệp.
Việc ngoại giao phân công cho ai?

TIẾT NĂM: THÁNH THIỆN VÀ CHÁNH THIỆN.

TIẾT SÁU: TẦM QUAN TRỌNG CỦA PCT.

A- TÔN GIÁO
-              Là căn bản tối trọng của Tôn giáo Cao Đài.

B- XÃ HỘI.
1-              Pháp Chánh Truyền: “hiến pháp thành văn và cương tánh”.
2-              Pháp Chánh Truyền: ấn định rõ: Thành phần. Số lượng nhân sự bộ máy thượng tầng.
3- Pháp Chánh Truyền  cho hạ tầng nẫy nở rất linh hoạt.

C- THÁI CỰC TỪ THÁI CỰC.
1- Trong thế giới tự nhiên:
2- Xét về dịch lý:
3- Trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

TIẾT BẢY: HÒN ĐÁ TẢNG. “ĐIỂM NHẤN”.

Dụng khái niệm và nguyên tắc Quốc Đạo để hiểu Pháp Chánh Truyền.

LỜI BẠT.














TIẾT MỘT: NGUỒN GỐC.

A- XUẤT XỨ CỦA PHÁP CHÁNH TRUYỀN.
+ Phạm Hộ Pháp dạy rõ:
Pháp Chánh Truyền từ Thiên Thơ mà ra.
Thiên Thơ là Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
(Thông Tin số 77 có ghi rõ).
+ Về Thể Pháp: Bát Quái Đài tại Tòa Thánh Tây Ninh có bố trí hai cuốn thiên thơ tại Cung Khảm. Hướng Nam.
 Phương vị của Đại Tiên Lữ Đồng Tân trấn giữ.

B- TIẾN TRÌNH THÀNH LẬP.
Pháp Chánh Truyền được lập thành qua nhiều thời điểm : 
+ Ngày 16-10- Bính Dần (1926) Ðức Chí Tôn lập P.C.T. Nam phái Cửu Trùng Ðài.
+ Ngày 17-10- Ðức Chí Tôn lập phần công cử. 
+ Ngày 01-01- Ðinh Mão (1927) Ðức Lý Ðại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ lập P.C.T. Nữ phái Cửu Trùng Ðài. 
+ Ngày 12-01- Ðinh Mão (1927) Ðức Chí Tôn lập P.C.T. Hiệp Thiên Ðài. 
+ Ngày tháng Ðức Lý Ðại Tiên lập P.C.T Chức Việc Nam Nữ các cấp không thấy có trong T.N.H.T. và Ðạo Sử nên không xác định được thời gian.
Pháp Chánh Truyền hoàn toàn do quyền Thiêng Liêng định. Cho nên không cho phép cải sửa cho dù một dấu chấm một dấu phết cũng không đặng.






















TIẾT HAI: NỘI DUNG PCT.

A-     CỬU TRÙNG ĐÀI.

Chức Sắc Cửu Trùng Đài phân biệt theo Nam phái và Nữ phái.
Trong Nam phái thì chia làm 03 phái.
Nữ phái không chia phái.
I- PHÁP CHÁNH TRUYỀN CỬU TRÙNG ĐÀI NAM PHÁI.
1- Chức Sắc Nam Phái “Hội Thánh Anh”:
a-              Ấn định các bậc phẩm Chức Sắc từ Lễ Sanh đến Giáo Tông. (Lễ Sanh, Giáo Hữu, Giáo Sư, Phối Sư, Đầu Sư, Chưởng Pháp, Giáo Tông. Từ Lễ Sanh trở lên chia làm ba phái: Thái, Thượng, Ngọc).
b-              Ấn định số lượng nhân sự tầng phẩm. (Lễ Sanh: không giới hạn số lượng, Giáo Hữu: 3.000 vị “mỗi phái 1.000”, Giáo Sư: 72 vị “mỗi phái 24 vị”, Phối Sư: 36 vị “mỗi phái 12 vị- trong đó có 03 Chánh Phối Sư”, Đầu Sư: 03 vị, Chưởng Pháp: 03 vị, Giáo Tông: 01 vị.
c-              Quyền hành và trách nhiệm tầng phẩm “chức sắc”.
Từ Lễ Sanh đến Giáo Tông.
Lưu ý:
Phẩm Phối Sư tính chung là 36.
Nhưng phân quyền thì Chánh Phối Sư khác hơn Phối Sư nên phần chú giải tách làm hai và có ghi:
Số IV: Quyền hành Chánh Phối Sư.
Số V: Quyền hành Phối Sư.
2- Chức Việc Nam phái “Hội Thánh Em”:
a- Quyền hành và trách nhiệm Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự, Thông Sự.
b- Số lượng thành phần Chức Việc không giới hạn.
 3- Đạo phục.
Từ phẩm Thông Sự đến Giáo Tông.
+ Phần quyền hành Chức Sắc và đạo phục Chức Sắc Cửu Trùng Đài Nam Phái  được viết thành hai phần riêng.
 (Về đạo phục: Chú ý rằng bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu đã được hướng dẫn từ trước để may đạo phục cho một số phẩm).
Phần đạo phục của chức sắc, chức việc còn lại là do Hộ Pháp được dạy riêng và ghi vào.
II- PHÁP CHÁNH TRUYỀN CỬU TRÙNG ĐÀI NỮ PHÁI.
1- Chức Sắc Nữ Phái.
a- Các phẩm từ Lễ Sanh đến Đầu Sư. (không chia phái).
b- Số lượng không hạn chế.
c- Quyền hành từ Nữ Đầu Sư đến Lễ Sanh.
2- Chức Việc Nữ Phái.
Cũng y như Nam Phái song chưởng quản phần Nữ Phái mà thôi.
(Lưu ý là ngay sau phần chú giải quyền hành tầng phẩm thì có phần đạo phục của Lý Giáo Tông dạy. Hai phần nầy viết liền nhau theo tầng phẩm.
Hộ Pháp chú giải thêm phần đạo phục).

III- LUẬT CÔNG CỬ.
Luật công cử chức sắc, chức việc  Cửu Trùng Đài Nam và Nữ chung nhau.
(Chú ý phần chú giải Luật Công Cử có ghi rõ “của Chức Sắc Cửu Trùng Đài”.
Do vậy mà Chức Sắc Hiệp Thiên Đài và Phước Thiện không áp dụng luật công cử nầy. Mà các vị Chức Sắc Hiệp Thiên Đài và Phước Thiện thuộc quyền phong thưởng  riêng của Hộ Pháp.
Điều nầy liên quan đến việc chỉ có Chức Sắc Cửu Trùng Đài mới nắm quyền hành chánh… vì có sự công cử của Quyền Vạn Linh).

B- HIỆP THIÊN ĐÀI.
Đức Chí Tôn chủ quản Hiệp Thiên Đài.
Đức Hộ Pháp chưởng quản Hiệp Thiên Đài.
Hiệp Thiên Đài là bán hữu hình.
Có 02 sở dụng: thiêng liêng và phàm trần.
I-   SỞ DỤNG THIÊNG LIÊNG. “Phần nầy Thầy giử”:
-              Thầy ngự cầm quyền thiêng liêng mối đạo.
-              Có liên đới đến việc thông công của Giáo Tông khi đến Hiệp Thiên Đài.
II- SỞ DỤNG PHÀM TRẦN.   
Phần hữu hình Thầy giao cho Hộ Pháp chưởng quản.
Tả có Thượng Sanh.
Hữu có Thượng Phẩm.
Chức Sắc Hiệp Thiên Đài chia làm ba chi.
1- Chi Pháp.
Hộ Pháp chưởng quản.
Dưới có 04 vị thời quân:
-              Tiếp Pháp, Khai Pháp, Hiến Pháp, Bảo Pháp.
2- Chi Đạo.
Thượng phẩm trông coi Chi Đạo.
Dưới có 04 vị thời quân:
-               Tiếp Đạo, Khai Đạo, Hiến Đạo, Bảo Đạo.
3- Chi Thế.
Thượng Sanh coi chi thế.
Dưới có 04 vị thời quân:
-              Tiếp Thế, Khai Thế, Hiến Thế, Bảo Thế.
Trên đây là phần nhân sự và trách nhiệm của Chức Sắc Hiệp Thiên Đài.
Theo phần chú giải thì nơi Hiệp Thiên Đài còn có Thập Nhị Bảo Quân.
(Các Chức Sắc Hiệp Thiên Đài từ Tiếp Dẫn Đạo Nhơn trở xuống không có trong Pháp Chánh Truyền … đến sau  mới có).
* Phần đạo phục của Chức Sắc Hiệp Thiên Đài được ghi tiếp sau đó.







TIẾT BA: PHÁP CHÁNH TRUYỀN CHÚ GIẢI.

A- Ý NGHĨA CỦA CHÚ GIẢI.
Pháp Chánh Truyền nguyên văn thì rất cô đọng.
Cụ thể là:
-  Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Đài Nam Phái.
-  Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài.
-  Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Đài Nữ Phái.
Nguyên văn ba phần nầy có ghi rõ trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển (Thiên Thơ). Nghĩa là chỉ có phần của Hội Thánh Anh.
- Không có phần Hội Thánh Em. (Chánh, Phó và Thông Sự).
- Không có phần đạo phục của Chức Sắc.
Do vậy mà Đức Lý Giáo Tông mới chỉ dẫn cho Phạm Hộ Pháp chú giải Pháp Chánh Truyền.
 (Đạo Nghị Định thứ 6 “1930” có ghi: Nghĩ gì Pháp Chánh Truyền Lão đã dạy Hộ Pháp chú giải, chẳng thi hành từ thử; làm cho Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài phản khắc đạo quyền, gây nên rối loạn chánh giáo Chí Tôn….)
Trong quá trình chú giải có sự hướng dẫn thêm của các Đấng Thiêng Liêng khác.
(Phần đạo phục của Bảo Văn Pháp Quân có Nhựt Nguyệt Mạo là do Lục Nương Diêu Trì Cung chỉ dẫn…) 
Phạm Hộ Pháp là vị duy nhất chú giải. (không có bản chú giải Pháp Chánh Truyền thứ hai nào khác).
Nhờ có phần chú giải nầy mà Hội Thánh mới có cơ sở sắp xếp nguồn máy nhân sự và tổ chức.
 Chú giải trong trường hợp nầy có 02 việc:
-  Giải thích cho rõ nghĩa của nguyên văn.
-  Thêm vào một số phần khác cho đầy đủ.
Như vậy giá trị của Pháp Chánh Truyền chú giải đã tỏ rõ.
Cho nên với Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thì Pháp Chánh Truyền và phần chú giải không thể tách rời nhau.
B-     NHỮNG ĐIỀU CẦN NÊN BIẾT.
I-        ĐẢO NGƯỢC THỨ TỰ CÁC VỊ THỜI QUÂN.
Theo nguyên văn của Pháp Chánh Truyền phẩm của các vị thời quân ở ba chi Pháp, Đạo, Thế Thầy xếp lần lượt là: Bảo, Hiến, Khai, Tiếp.
Thầy còn giải thích.
Bảo là giữ gìn.
Hiến là dâng.
Khai là mở, bày ra.
Tiếp là rước.
Nếu đứng về diện công thức thì đây là 04 công thức mà Thầy truyền cho Hiệp Thiên Đài. (Bảo, Hiến, Khai, Tiếp)
Khi chú giải Phạm Hộ Pháp đã đảo ngược 180o thành Tiếp, Khai, Hiến, Bảo để tạo nên chuỗi công thức đặc trưng về pháp luật cho Hiệp Thiên Đài. 
II- Ý NGHĨA CÂU: Hễ Đạo còn thì Hiệp Thiên Đài còn.
Nguyên văn của Pháp Chánh Truyền phần Hiệp Thiên Đài đã ghi như vậy.
Ý nghĩa Hiệp Thiên Đài phần chú giải có ghi rõ:
-  Hiệp Thiên Đài là nơi Thầy ngự cầm quyền thiêng liêng mối Đạo.
-  Hiệp Thiên Đài là chơn thần của Đạo. (là trung gian của Bát Quái Đài và Cửu Trùng Đài)
-  Hiệp Thiên Đài là tay vén màn bí mật cho sự hữu hình và vô vi hiệp làm một.
-  Hiệp Thiên Đài là luật lệ. (đối với Cửu Trùng Đài là chánh trị).
Trong 04 nghĩa trích dẫn từ phần chú giải thì không có trường hợp nào chữ Hiệp Thiên Đài dành cho cá nhân hay tập thể.
Tại sao phải nói rõ chữ Hiệp Thiên Đài không chỉ một cá nhân nào hết?
Bởi vì trong cơ thử thách hiện nay (2008) phần lớn Chức Sắc Cửu Trùng Đài đã chạy theo chi phái Nguyễn Thành Tám lập ra vào năm 1997.
Chức Sắc Hiệp Thiên Đài phần lớn trở về tu tại gia.
Do vậy mà nhiều người cả nghĩ rằng Chức Sắc Hiệp Thiên Đài còn thì Đạo còn. Đó là cách nghĩ không phù hợp với văn bút phần Hiệp Thiên Đài và cũng không phù hợp với nguyên tắc của Đạo.
(Năm 1930 Phạm Hộ Pháp đã than phiền rằng nhơn sanh chỉ biết tin theo Chức Sắc chớ chưa biết theo Đạo… do vậy mà Chức Sắc thiên phong lộng phép… “hêt trích”. Mà xem ra cái bịnh theo người hãy còn khá phổ biến …nguyên do sâu xa của bịnh tin theo người mà không tin theo Đạo là không để tâm trau dồi kinh sách trong Đạo…)
Chúng ta vui mừng thấy có nhiều Chức Sắc Hiệp Thiên Đài không chạy theo chi phái nhưng vẫn phải nhớ: chúng ta theo đạo chớ không có theo người.
Chức Sắc A hay B dĩ nhiên là xứng đáng mới được thiêng liêng phong thưởng phẩm X hay Y, nhưng cuộc sống là một môi trường đa dạng và đầy thử thách. Biết đâu sau khi phong thưởng thì có những thử thách mới mà các vị không qua được, do vậy mà Phạm Hộ Pháp dạy đi dạy lại là phải theo Đạo.
Mà muốn theo Đạo thì phải siêng năng học hỏi từ kinh sách do Hội thánh ban hành (Chương II- Điều 10 Tân Luật: … Buộc phải thuộc kinh và thông hiểu luật pháp của Đại Đạo truyền ra).
Trong 04 nghĩa đã trích ra thì không có khoản nào xác định Hiệp Thiên Đài là Chức Sắc Hiệp Thiên Đài.
Vậy thiết tưởng nên hiểu rằng: Luật Pháp của Đạo còn thì Đạo còn là chính xác, thực tế và dễ hiểu hơn hết. (vì Hiệp Thiên Đài là luật lệ).
(cũng giống như chữ tướng lễ không chỉ một cá nhân mà là hình tướng của Lễ tức văn bản của Hội Thánh biên soạn và ban hành. Nói thiết thực thì Quyển Quan Hôn Tang Lễ ban hành năm 1976 chính là Tướng Lễ. Tuy có thể cần điều chỉnh song đó đã là Tướng Lễ).
[[[ Xin phép liên hệ thêm:
*1: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy:
Bắt ấn trừ yêu đã tới kỳ,
Ngọc Hư định sửa mối thiên thơ.
Cửu Trùng không kế an thiên hạ,
Phải để Hiệp Thiên đứng trị vì…
Có nhiều cách hiểu.
Theo chúng tôi hiểu thì Cửu Trùng Đài là chính trị, là giáo hóa… nên  không thể đem lại sự thái bình thạnh trị được.
Lý do thời hạ ngươn mạt pháp, lòng người bị vật chất làm cho đảo lộn … nên phải dùng luật để trị.
Mà Luật lệ là Hiệp Thiên Đài.
Có nghĩa là phải dùng Pháp-Luật mới trị được nội bộ có trị được từ trong nội bộ thì có sự trong sáng và vững mạnh thì mới quyết thắng được trong cơ tận độ và độ tận… (Tân Luật mở đầu bằng Đạo Pháp “Luật Trị”; và trị Chức Sắc trước sau mới tới người giữ Đạo…)
(Cho nên nhân sự tôn giáo Cao Đài ngay từ nhập môn đã thề phải hiệp đồng chư môn đệ gìn luật lệ Cao Đài… Mỗi phẩm trong hành chánh tôn giáo đều thề phải giử luật khi hành đạo…).
Công việc trị an là của Cửu Trùng Đài mà Cửu Trùng Đài là chính trị là giáo hóa nên không thể trị an. Muốn trị an thì Cửu Trùng Đài phải dụng Pháp luật lên hàng đầu.
Tóm lại kế sách “cẩm nang” để trị an trong tôn giáo lẫn xã hội:  pháp luật là yếu tố đầu tiên phải tuân theo rồi đến chính trị “giáo lý”.
*2: Trong Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống Phạm Hộ Pháp cho biết Lý Ngưng Dương (Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt) đánh với Kim Quan Sứ đánh hoài không thắng… đến khi Hộ Pháp dùng Kim Tiên vẽ một vòng khoanh vùng mặt trận lại thì Đức Quyền Giáo Tông mới thắng Kim Quan Sứ được.
Câu chuyện cho thấy chính trị không giải quyết được vấn đề.
Phải có luật pháp (Hiệp Thiên Đài- Kim Tiên) ra tay trợ giúp bằng công cụ đặc nhiệm (pháp luật) thì CHÍNH CỬU TRÙNG ĐÀI GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
Hiệp Thiên Đài không phải là người giải quyết mà Cửu Trùng Đài mới giải quyết.
Hiệp Thiên Đài là trợ thủ đắc lực, trợ giúp công cụ đắc lực là Pháp Luật và Cửu Trùng Đài giải quyết.]]]
Đức Lý Giáo Tông dạy: Pháp luật đạo là binh khí diệt tà quyền.
III- QUYỀN HÀNH ĐẦU SƯ NAM VÀ NỮ.
Quyền hành Đầu Sư Nam được chú giải trước.
Quyền hành Đầu Sư Nữ được chú giải sau. (Và cũng được ban sau).
Phần chú giải có ghi rõ: Nữ Đầu Sư quyền như Nam Phái song điều đình bên Nữ Phái mà thôi….
Nhưng đi sâu vào nội dung ta thấy:
- Khi ban hành luật thì phải có sự đồng ý “Ấn ký” của Đầu Sư Nam Phái (chỉ cần 01 vị Đầu Sư Nam phái đồng ý thì 02 vị còn lại phải tuân y) và luật được ban hành. Luật không qui định cho Nữ Đầu Sư có quyền  tham gia ý kiến trong việc ban hành.
IV- QUYỀN CHÁNH TRỊ VÀ LUẬT LỆ.
Pháp chánh truyền chú giải nhiều lần nhấn mạnh:
-  Cửu Trùng Đài là chánh trị.
-  Hiệp Thiên Đài là  luật lệ.
Nhưng đi sát vào nội dung quyền hạn các phẩm Cửu Trùng Đài từ phẩm Đầu Sư trở lên đến Giáo Tông thì các phẩm nầy đều có can hệ đến luật lệ hoặc Hiệp Thiên Đài. 
- Đầu Sư nắm 02 quyền: chánh trị và luật lệ.
- Chưởng pháp thay mặt Hiệp Thiên Đài nơi Cửu Trùng Đài.
- Giáo Tông đến Hiệp Thiên Đài để thông công…
Đây cũng là thành phần của Cửu Trùng Đài vào dự Thượng Hội.
(Theo luật ba hội Lập Quyền Vạn Linh đã ban hành thì sau nầy vào dự Thượng Hội chỉ còn có nhân sự của Cửu Trùng Đài. Vì nhân sự của Hiệp Thiên Đài là:  Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh đều về thiêng liêng vị. Mà các phẩm nầy thì Pháp Chánh Truyền không cho phép công cử nhân sự thay thế trong hành chánh).
Phẩm Giáo Tông hay Đầu Sư của Cửu Trùng Đài có quyền lập luật rồi đệ trình  theo qui định…(không qua con đường 03 Hội Lập Quyền Vạn Linh). Còn Chưởng Pháp thì có trách nhiệm xét nét luật nhưng không có quyền soạn luật.
Cho nên từ Đầu Sư trở lên không nắm quyền hành sự.
(vì nếu  các phẩm trên có quyền hành sự thì khác chi cảnh vừa đá bóng vừa thổi còi… mất lẽ công bằng).
Tóm lại hễ nhân sự Cửu Trùng Đài có liên quan đến Hiệp Thiên Đài thì cho dù ở vào diện nào cũng không được giao quyền hành sự.
(Hiến pháp Hiệp Thiên Đài và Quyền Nội Trị Tư Pháp Đạo cũng nói rõ nhân sự Hiệp Thiên Đài không ký tên trong Châu Tri… với Cửu Trùng Đài).
Chánh Phối Sư nắm quyền hành sự trọn vẹn. (từ Chánh Phối Sư trở xuống cá nhân không có thẩm quyền lập luật- Muốn trình điều luật chi phải đi theo trình tự của 03 Hội Lập Quyền Vạn Linh).
Theo Đạo Nghị Định thứ ba. Điều thứ hai.
Phối Sư phải hành đạo tại Tòa Thánh.
Phẩm Phối Sư hành đạo ở Tòa Thánh nhưng theo Nội Luật 03 Hội lập quyền Vạn Linh thì lại thuộc về Hội Nhơn Sanh và Hội Hội Thánh.
Vậy đây là gạch nối liền rất quan trọng giữa trung ương và địa phương vậy. 
(Theo đây thì các vị tiền bối từ Phối Sư trở lên ra khỏi Tòa Thánh hành đạo “lập ra các chi phái” là đã phạm pháp; không phải chờ đến Đạo Nghị Định thứ 8” CT 2019).
V- KHÔNG ĐƯA PHƯỚC THIỆN VÀO PHÁP CHÁNH TRUYỀN.
Đạo luật Mậu Dần 1938 xếp Phước Thiện vào tứ trụ của Hành Chánh Đạo.
Nhưng một số Chức Sắc không phục cho rằng Phước Thiện không có trong Pháp Chánh Truyền… các vị định đến Hội năm 1952 thì đưa ra 03 Hội lập quyền vạn linh để không nhìn nhận  Phước Thiện…
Ngài Thừa Sử Phạm Ngọc Trấn và Chơn Nhơn Trịnh Phong Cương vào Hộ Pháp Đường trình lại với Đức Hộ Pháp.
Phạm Hộ Pháp giải thích… Phước Thiện đúng là không có trong Pháp Chánh Truyền nhưng thử hỏi Pháp Chánh Truyền ở đâu mà ra?
Pháp Chánh Truyền từ Thiên Thơ mà ra vậy thì Phước Thiện cũng từ Thiên Thơ mà ra…
Thiên Thơ là Thánh Ngôn Hiệp Tuyển đó.
Ngày sau còn nhiều cơ quan trọng yếu nữa của Đạo cũng xuất phát từ Thiên Thơ mà ra. (Thông tin số 77).
Câu trả lời của Phạm Hộ Pháp được Ngài Thừa Sữ Trấn ghi lại và Hội Thánh nhìn nhận có tác dụng:
-  Mở rộng hiểu biết của môn sinh Cao Đài…nhờ đó mới biết Thánh Ngôn Hiệp Tuyển là Thiên Thơ.
-  Còn nhiều cơ quan trọng yếu  nữa có ghi trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển mà do nơi ngày giờ chưa đến nên chưa xuất hiện …
Điều nầy cho thấy hệ thống của Đạo Cao Đài là một hệ thống mở. Mở nhưng được báo trước trong Thiên Thơ.
Cơ quan nào xuất hiện sau nầy phải căn cứ vào Thánh Ngôn để biết nó hợp pháp hay không.
(Cho nên có một số vị nghiên cứu và đề xuất nhập chung Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Q. 1 và Q. 2 lại làm một gọi là Thánh Ngôn Hiệp Nhứt. Nhưng có 02 lý do không thể thực hiện được:
1/ Đạo Cao Đài lập nền văn minh Lưỡng Nghi. Nên Thiên Thơ có 02 quyển. Q. 1 có bài thi tịch đạo Nam Phái (dương). Q. 2 có bài thi tịch đạo Nữ Phái (âm). Phải đủ âm dương mới đúng nghĩa của Lưỡng Nghi. Cũng như một tháng có 02 kỳ dàn Sóc Vọng… Nền Văn minh Thiên Chúa Giáo là nền văn minh tứ tượng nên Kinh Thánh có 04 quyển. Một tháng thường thì đi nhà thờ 04 kỳ.
2/- Nơi Bát Quái Đài có bố trí 02 quyển Thiên Thơ. Nếu nhập hai quyển Thánh Ngôn làm một thì hai thể pháp không đồng bộ nhau (Kinh sách cũng là thể pháp). CT. 2019)


* PHẦN HỘI THÁNH EM.

Hội Thánh Em cũng không thấy Thánh Ngôn Hiệp Tuyển dạy.
Các văn bút khác chúng tôi cũng không thấy dạy.
Đây là phần Phạm Hộ Pháp được dạy riêng và ghi lại.

* CHÚ GIẢI HOÀN THÀNH NĂM NÀO?

Bài diễn văn của Đức Hộ Pháp sau Pháp Chánh Truyền chú giải không thấy ghi ngày tháng.
 +  Phần chú giải “đoạn sở dụng thiêng liêng của Hiệp Thiên Đài”   Phạm Hộ Pháp có nhắc đến bài diễn văn ngày 14-02- Mậu Thìn “1928” vậy thì phần chú giải Hiệp Thiên Đài  phải có sau 1928.
+ Theo Đạo Nghị Định thứ 6 thì năm 1930 đã có chú giải.
+ Theo phần đạo phục của Bảo Văn Pháp Quân thì đến ngày 13-3-1931 Bà Lục Nương còn dạy về Nhựt Nguyệt Mạo. (có nghĩa là chú giải chưa xong, chưa ban hành phần chú giải).
+ Ngay trong diễn văn có đoạn: … mà đã sáu năm chày rồi ….
Vậy mốc khởi đầu nào để tính:
a-      1925: là năm Đức Chí Tôn đến dạy Đạo (có Hội Yến lần đầu,).
b-      1926: là năm có cuộc thiên phong đầu tiên và sau đó là khai đạo với Chánh Phủ rồi tổ chức Lễ Khai Đạo ở Gò Kén.
Dù lấy mốc nào ta cũng thấy phải sau 1932.
Vậy thì Pháp Chánh Truyền chú giải được đầy đủ và ban hành khoản 1932 vậy.
(" Châu Tri số 11 của Tòa Thánh do Ngài Thượng Trung Nhựt  ngày rằm tháng 2 Tân Mùi (02.04.1931) có đoạn:

          " Ngày nay, Đại Đạo lại ban hành Pháp Chánh Truyền chú giải, thì Tân Pháp đã đọat đặng. Xin chư Đạo hữu, Đạo tỷ, Đạo muội lãnh mà coi, thì rõ huyền bí của Đạo." CT. 2019).

                                     
* PHÁP CHÁNH TRUYỀN CHÚ GIẢI VÀ CÁC CHI PHÁI.

Ngày nay các Chi Phái của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Coppy Pháp Chánh Truyền về dùng và Chi Phái nào cũng tự xác nhận là làm đúng theo Tân Luật, Pháp Chánh Truyền.
Mà cả hai đều có giấy trắng mực đen rõ ràng.
Bởi dùng thì phải công bố phải công bố, phải đối chiếu… đối chiếu với phần chú giải thì họ sai.
Điều nghịch lý là Chi Phái dùng rồi tự thấy “kẹt”.
(cũng giống như thiên thần có đôi cánh bằng sáp… bay cao thì thích nên bay riết đến gần mặt trời… sáp bị chảy ra và thiên thần rơi xuống đất…)
Do vậy nên họ tuyên bố:
-  Theo Pháp Chánh Truyền nguyên bản (đình chú giải). (Cao Đài Bến Tre là điển hình).
-  Chỉ chấp nhận một phần chú giải. (Như Vụ phó vụ ngoại giao của CQPTGL là Đạt Tường viết trên trang web caodaivn.com)
Xét ra họ cũng kẹt hơn nữa:
-  Theo Pháp Chánh Truyền nguyên bản thì không có Bàn Trị Sự.
Vậy hệ thống Bàn Trị Sự các Chi Phái căn cứ vào đâu mà có?
- Pháp Chánh Truyền nguyên văn không có đạo phục các cấp… vậy chi phái căn cứ vào đâu mà may đạo phục cho Chức Sắc…
-  Coppy về dùng rồi tuyên bố chỉ chấp nhận một phần.
Đây không phải là cách hành xử của người đứng đắn trong xã hội chớ đừng  nói chi đến tánh hạnh người học đạo và hành đạo. Của người khác làm ra, không ai ép anh dùng, anh tự ý lấy về dùng rồi bảo là sai thế nầy thế nọ. Điều đáng thẹn hơn nữa là các anh không dám công bố một bản chú giải khác.
Một ngày không xa thì Hội Thánh theo đúng với Tân Luật, Pháp Chánh Truyền sẽ được hồi phục.
Trong tính cách Quốc Đạo thì ngày kia Hội Thánh Cao Đài do “thiên hạ” lập ra sẽ thực thi các văn bản của Hội Thánh Cao Đài do “Thiên Thượng” lập nên.
Một trong các văn bản đó là Chương trình Hiến Pháp có từ năm Đạo thứ 02.
Trong đó qui định bản quyền danh hiệu: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (danh hiệu 06 chữ) chỉ có Hội Thánh Cửu Trùng Đài tại Tòa Thánh Tây Ninh được dùng thì các Chi phái sẽ phải tính sao?
Đây không phải là chuyện chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng mà là làm rõ sự việc  tiếng chuông đồng đang bị đôi chình bằng đất lấp mất.
Đức Lý Giáo Tông có dạy rõ: Pháp Luật Đại Đạo là binh khí để diệt tà quyền.
Chủ nghĩa Cao Đài sẽ đi vào con đường đấu tranh quyết liệt với nội bộ và bên ngoài để:
Cái đúng phải được thực thi.
Cái  sai sẽ phải được điều chỉnh và trừ bỏ.

TIẾT BỐN: LẬP LUẬT VÀ ĐỐI NGOẠI.

A- QUYỀN LẬP LUẬT THEO PHÁP CHÁNH TRUYỀN.
Pháp Chánh Truyền qui định 2 phẩm có quyền lập luật khi thấy cần thiết và hữu ích cho Tôn Giáo:
+ Giáo Tông.        
+ Ðầu Sư.   
Hai phẩm nầy cùng có quyền lập luật nhưng tiến trình lập Luật mỗi phẩm lại có khác nhau.  (Vì lập luật mà chưa thành luật nên xin tạm gọi là dự Luật).
I-                PHẨM GIÁO TÔNG LẬP LUẬT.
Khi Giáo Tông lập dự Luật xong thì phải giao cho Chưởng Pháp xét nét coi có phù hạp với nền Chánh Trị Ðạo đương thời hay không. 
Nếu điều dự Luật có được sự thị nhận của cả 3 vị Chưởng Pháp và có sự phê chuẩn của Hiệp Thiên Ðài thì điều dự Luật ấy mới thành luật. 
Khi luật đã thành thì Chưởng Pháp giao lại cho Giáo Tông để Giáo Tông truyền cho Ðầu Sư ban hành. 
II-              PHẨM ĐẦU SƯ LẬP LUẬT. 
Khi Ðầu Sư lập dự Luật phải dâng lên cho Giáo Tông phê chuẩn.        
Giáo Tông phê chuẩn xong thì điều dự luật từ Ðầu Sư dâng lên cũng chưa thành luật. Giáo Tông phải giao cho Chưởng Pháp xét nét lại nữa. 
Nếu điều dự Luật có được sự thị nhận của cả 3 vị Chưởng Pháp và có sự phê chuẩn của Hiệp Thiên Ðài thì điều dự Luật ấy mới thành luật. 
(Lưu ý là Ðầu Sư không đặng dâng dự Luật thẳng cho Chưởng Pháp- Nghĩa là Chưởng Pháp chỉ xét nét những dự luật nào đã có được sự phê chuẩn của Giáo Tông mà thôi).
* Chưởng Pháp: Chưởng Pháp là người xét nét Luật của Giáo Tông truyền xuống nhưng phẩm Chưởng Pháp không có quyền soạn dự Luật như phẩm Giáo Tông và Ðầu Sư. 
Khi dự luật đã có đủ 3 ấn của 3 vị Chưởng Pháp thị nhận và có sự phê chuẩn của Hiệp Thiên Ðài thì Luật đã thành.
Luật thành thì giao lại cho Giáo Tông. (Chưởng Pháp không có giao Luật cho Ðầu Sư). 
 Ban hành Luật: Quyền ban hành Luật thuộc về phẩm Ðầu Sư.
Luật thành là có đủ 3 Vị Chưởng Pháp thị nhận và Hiệp Thiên Ðài phê chuẩn. 
Luật đã thành thì Giáo Tông giao cho Phẩm Ðầu Sư ban hành.
Nếu cả 3 vị Ðầu Sư đồng ký tên không tuân mạng thì Luật ấy giao lại cho Giáo Tông.
Giáo Tông phải giao cho Chưởng Pháp xét nét lại nữa. 
Còn như có một trong 3 vị mà đồng ý thi hành thì 2 vị còn lại cũng phải chấp nhận ban hành nghĩa là phải đóng ấn và ký tên vào cho đủ. Hai vị còn lại không đặng phép từ chối nếu đã có 1 vị đồng ý.
(Lưu ý là trong P.C.T. không có ấn định phẩm Nữ Ðầu Sư tham gia vào tiến trình lập Luật hay ban hành Luật.).



III-            TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT. (Hộ Pháp tham gia làm luật). 
Nếu một Ðạo Luật nào của Giáo Tông truyền xuống mà nghịch với sự sinh hoạt của nhơn sanh. Ðầu Sư định quyết là không thể thi hành đặng thì chính mình Ðầu Sư phải đệ lên cho Chưởng Pháp mà cầu người sửa cải. Còn như Giáo Tông tiếp đặng một Ðạo Luật nào của Ðầu Sư dâng lên mà phạm phép thiên điều thì chính mình Giáo Tông cũng phải truyền xuống cho Chưởng Pháp xét nét, hai bên không đặng ỷ quyền bỏ luật làm cho thất thể đôi đàng; phải phải phân phân để cho Chưởng Pháp định liệu. Như quyết định mà hai đàng không thuận thì người phải dâng lên cho Hộ Pháp đến Hiệp Thiên Ðài cầu Thầy sửa lại, hay là Hộ Pháp luận ý đôi bên mà lập lại. 

B- QUYỀN ĐỐI NGOẠI.
Khi nhân loại biết lập thành quốc gia xã hội thì quyền đối ngoại là quyền tất yếu phải có.
Đức Chí Tôn lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là lập nên quốc đạo cho nhân loại. Đã là quốc đạo thì đương nhiên phải có quyền đối ngoại.
Vậy trong tôn giáo thì phẩm nào chịu trách nhiệm đối ngoại?.
Cần phân biệt: Quyền đối ngoại; quyền giao thông; quyền thân thiện và quyền giao thiệp.
I- QUYỀN ĐỐI NGOẠI.
Pháp Chánh Truyền nguyên văn và chú giải phần quyền hành Chưởng Pháp có ghi rõ:
- Nguyên văn:
Vậy chúng nó có quyền xem xét kinh điển trước lúc phổ thông, như thảng có kinh luật làm cho hại phong hóa thì chúng nó phải trừ bỏ, chẳng cho xuất bản.
Chú giải:
- Dầu cho kinh sách  của người ngoại giáo làm ra nếu có thương phong bại tục thì buộc Hội Thánh phải vùa giúp Chưởng Pháp mà lo trừ diệt cho đặng….
Nguyên Văn:
"Buộc cả Tín Đồ phải vùa sức mà hành sự trước mặt luật Đời".
Chú giải:
- Dầu cho Luật lệ đời mà làm thống khổ nhơn sanh thì chưởng pháp cũng  liệu phương mà nài xin chế giảm. Cái quyền lực ấy phải nương nhờ  Đạo quyền mới đủ mạnh, nghĩa là Đạo mạnh thì quyền người mới mạnh…..
Như vậy quyền đối ngoại đầy đủ nhất thuộc trách nhiệm của Chưởng Pháp.
Quyền đối ngoại bao hàm có thẩm quyền thay mặt cho tôn giáo để bày tỏ lập trường, quan điểm… đối với những vấn đề lớn hay quốc kế dân sinh…
Đó là quan điểm chung, là tiếng nói chính thức của toàn đạo….
(Dĩ Nhiên quan điểm chung nầy phải có đủ ấn của 03 vị chưởng Pháp mới có hiệu lực)
+ Lưu ý : Chưởng Pháp là người thế quyền của Hiệp Thiên Đài nơi Cửu Trùng Đài hay Cửu Trùng Đài vẫn thuộc về Chánh Trị mà Chưởng Pháp lại thuộc về luật lệ, vậy thì Chưởng Pháp là người thay mặt Hiệp Thiên Đài nơi Cửu Trùng Đài.
-  Phần Chú giải quyền hành Chức Sắc Cửu Trùng Đài Nữ phái có đoạn Chưởng Pháp cũng là Giáo Tông mà còn trọng hệ hơn vì là người thay mặt cho Hộ Pháp nơi Cửu Trùng Đài.
- Các nhận xét trên có lẽ làm sáng tỏ phần nào nguyên do VÌ SAO các phẩm của Chức Sắc trong Tôn giáo Cao Đài chỉ có Phẩm Chưởng Pháp là có nhắc đến trong các bài kinh cửu. (Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo).
Kinh Đệ Thất Cửu. Câu số 5.
Cung Chưởng Pháp xây quyền tạo hóa.
II- QUYỀN THÔNG CÔNG VÀ QUYỀN GIAO THÔNG.
a.                      Đạo Nghị Định thứ 02 (1930).
  Điều thứ 04.
Ban quyền thông công với Chánh Phủ cho Chánh Phối Sư. (Nhưng phải có Hội Viên Nhơn Sanh và Hội Thánh chăm nom cơ hành động).(1).
b.                      Đạo Nghị Định thứ Tư (1930).
Điều thứ 4:
Chánh Thượng Phối Sư đặng quyền thay mặt cho toàn đạo mà giao thông cùng chánh phủ và cả tín đồ….
Theo thiễn ý thì  Quyền thông công và Quyền giao thông cũng tương tự nhau.
Có nghĩa là liên lạc, thông tin để cho biết những điều đã thống nhất nhau thi hành như thế nào.
Mọi vấn đề đã thống nhất thì quyền giao thông có trách nhiệm thảo luận để giải quyết cho ổn thỏa (quyền đối ngoại là thảo luận để thống nhất vấn đề và đi đến quyết định chung, quyền giao thông là liên lạc để thi hành quyết định chung)
Mọi vấn đề đã thống nhất thì quyền giao thông đều có trách nhiệm liên lạc để  thi hành.
Quyền thông công hay giao thông hẳn nhiên là phải tùng theo quyền đối ngoại.
III QUYỀN THÂN THIỆN.
Đạo luật Mậu Dần (1938). Chương một. Điều 12.
 Phương Cách Thân Thiện Với Quyền Đời.
LUẬT
Thiên Phong Chức Sắc phải vào Hạnh Đường học thêm đạo lý, luật Đạo, luật Đời đặng dễ bề thân thiện cùng Đời mà độ Đời cho biết Đạo. Phải giữ phẩm giá của mình cho đặng thanh cao đạo đức.

PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH
Muốn thân thiện với quyền Đời, thì chư Chức Sắc Thiên Phong phải có đủ tư cách đạo hạnh, tánh tình thuần hậu, cùng là ăn mặc cho trang hoàng sạch sẽ.
Mỗi khi đi hành Đạo nơi nào, phải cần liệu phương thân thiện với quyền Đời. Thảng như có xảy ra điều chi Đạo Đời phản khắc, thì phải đủ năng lực bảo đảm thể diện của Đạo.
Nếu vị Chức Sắc nào chẳng vì danh thể Đạo, làm cho đến đổi Đời rẻ rúng, thì sẽ bị Hội Thánh trừng trị nghiêm nhặt.
IV- QUYỀN GIAO THIỆP.
Tân Luật (1927). Phần Thế Luật.
Người được nhập môn hành đạo phải tuân y Thế Luật như sau nầy:
Điều thứ tư:
Ra giao thiệp với đời thì phải tập và giữ tánh ôn, lương, cung, khiêm, nhượng.
Trên đây là 04 quyền đã có sự hướng dẫn từ văn bút của Hội Thánh ban hành.
Tiếp theo là phần nêu vấn đề qua thực tế đạo sự.
Trong thực tế xã hội khi có sự gặp gỡ như  hội họp, thảo luận hay các buổi lễ:
-  Nội bộ tôn giáo với nhau.
-  Giữa Đạo và Đời.
-  Với Tôn giáo bạn.
-  Với các phái đoàn hay các đoàn thể đến viếng….
Thì đều phải có sự đón tiếp, sự sắp xếp… theo nghi lễ…  và có thể có việc “khánh tiết” sau đó…
Có thể gộp chung các việc trên vào diện ngoại giao.
Vậy thì việc ngoại giao phân công cho ai?. Phái Nam hay Nữ?
- Trên thực tế thì việc “ khánh tiết” hẳn nhiên là thuộc về phái Nữ.
- Vậy còn việc đón tiếp khách mời, sắp xếp vị trí cho phù hợp với tôn ti trong Đạo hay Đời giao cho ai?.
Đó là công việc mà Hội Thánh sẽ  sắp xếp vậy.
(((Trong Pháp Chánh Truyền chú giải phần Nữ Phái có đề cập đến:
-  Buộc phải có trật tự cho lắm.
-  Tôn ty phẩm trật.
-   Lễ nghĩa giao thiệp về phần đời …
Ấy  là những “phẩm chất đặc trưng” mà phái Nữ được “đặc biệt” đề cập đến
Vậy có lẽ phần ngoại giao sẽ giao cho Nữ Phái chăng?)))
[[[Có thể kiểm lại một vài thực tế nữa … (về thể pháp để nói lên vai trò của người Nữ trong Tôn giáo “ vai trò ngoại giao chăng?”).
*1: Tờ khai đạo 28 vị gởi cho chính phủ Pháp thì tên của Bà Lâm Hương Thanh đứng đầu tiên.
*2: Cổng Nữ Đầu Sư Đường khi xưa chính Đức Hộ Pháp cho xây “nhô ra” mặt lộ. (hàm ý ngoại giao phải đi trước…)
Sau đó chi phái Hội Đồng Chưởng Quản chiếm cứ Nội Ô và đập bỏ di tích của Phạm Hộ Pháp xây dựng để xây nên cái cổng hiện nay.
Đây là một trong những hành vi nằm trong chủ trương phá hoại di tích Phạm Hộ Pháp của chi phái.
*3: Ai có đi cúng đàn vào thời Tý ở Tòa Thánh trong những ngày sóc vọng “đặc biệt là khi có hoán đàn”…nếu có  để ý một chút thì đều biết bên phái Nữ rất ồn ào “do muốn vào hoán đàn”, cho nên giao công việc “ngoại giao” cho Nữ Phái cũng là một cách “giáo huấn hay rèn luyện” rất ngộ nghĩnh…
*4: Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo chấm dứt bằng bài:
Kinh  Tụng Khi Vợ Qui Liễu.
(Khi người Nữ xong phận sự là kể như XONG VIỆC).
*5: Trí Huệ Cung.
Là nhà Tu của Nữ Phái được mở ra trước Vạn Pháp Cung “Nhà Tu Nam Phái”.
Mà các Thánh khi xuống thế đều phải qua Diêu Trì Cung.
Mà Diêu Trì Cung trong thể pháp hữu hình là Trí Huệ Cung.
Trí Huệ Cung có nhiệm vụ độ rổi 92 ức nguyên nhân.
Có nghĩa giai đoạn thai giáo là giai đoạn hình thành trí tuệ và nhân cách của nhân tố sắp hiện sinh. (Khoa học ngày nay cũng đặc biệt quan tâm đến thai giáo).
Đúc kết mấy điểm trên đây lại ta thấy có nhiều lẽ để cảm nhận: vai trò NGOẠI GIAO trong tôn giáo sẽ thuộc về Nữ Phái vậy]]]
(1): Điều 4 có ghi rõ… buộc phải có Hội Viên nhơn sanh và Hội Thánh chăm nom cơ hành động.
Như vậy xét về thời gian thì năm 1930 đã có Hội Viên nhơn sanh sinh hoạt trong đạo sự.
Đến năm 1932 thì có Hội Nhơn Sanh lần đầu.
Đến năm 1934 thì Phạm Hộ Pháp Chưởng Quản Nhị hữu Hình Đài ban hành Nội Luật Hội Nhơn Sanh.
Ghi nhận cột mốc thời gian lại ta thấy: Làm việc trước rồi sau mới có đại hội và sau nữa mới có luật.





































TIẾT 5: THÁNH THIỆN VÀ CHÁNH THIỆN.

Xưa nay giáo lý của Tôn giáo thường dạy con người đi vào con đường thánh thiện. Phương cách chính của các tôn giáo là dụng giáo lý hướng môn sinh làm lành lánh dữ.
Vậy Tam Kỳ có gì khác?
Theo thiển ý các tôn giáo trước đây hiện sinh trong thời văn minh nông nghiệp hay tiền công nghiệp. (Phật giáo, Thiên Chúa Giáo… nói chung  đều không có tôn giáo nào hiện sinh trong thời công nghiệp).
Cuộc sống và tâm tình con người thời văn minh nông nghiệp khác với thời văn minh công nghiệp.  Thời văn minh vật chất chưa lên ngôi (văn minh công nghiệp chưa hình thành) thì kêu gọi sống thánh thiện là đúng luật cung cầu. Thời văn minh công nghiệp thì mọi thứ đã thay đổi, đến thời điện tử và vi điện tử thì lại càng thay đổi.
Thay đổi như thế nào?
Phương tiện giao thông và hệ thống thông tin đã đưa nhân loại đến buổi năm châu chung chợ, bốn biển chung nhà.
Do vậy mà các nguồn thông tin phải xử lý rất nhiều. Các thông tin đó có khi thuận chiều, có khi nghịch nhau. Cùng một việc làm mà bên A bảo là đúng, bên B bảo là sai.  Rồi có khi riêng một bên A hay B lúc x thì cho là đúng lúc y thì lại bảo là sai cần phải sửa … cho phù hợp… Do vậy mà phải có sự cân nhắc.
Muốn cân nhắc thì phải căn cứ trên tình hay lý.
Dùng tình thì khi vầy khi khác, tùy tánh tình của mỗi người. Trong mỗi người ấy lại còn tùy lúc vui hay buồn, sáng khác, trưa khác…
Có chủ trương dùng cả tình lẫn lý “thấu tình đạt lý” nhưng xét cho kỷ thì không thể đạt cả hai trong cùng một vấn đề được.
Nếu có người nào giải quyết được khâu thấu tình đạt lý cho cả nhân loại thì người đó GIỎI HƠN ÔNG TRỜI RỒI.
Do vậy mà câu thấu tình đạt lý chỉ là câu cửa miệng… chúng ta phải cẩn thận coi chừng bị xí gạt khi có người dùng đến nó… họ đang chuẩn bị lật lọng chuyện gì đó trái với luật...
Đó không phải câu nói của người thánh thiện mà là câu nói của người mờ hồ…
Còn với kẻ trí trá thì họ đang chuẩn bị cho một âm mưu đổi trắng thay thay đen… nước lã  khuấy nên hồ sắp diễn ra…
Vì chính Đức Chí Tôn còn nói rõ: Thầy còn làm chưa vừa lòng nhân loại huống chi các con…
Do vậy mà Đạo Cao Đài dùng LUẬT.
Nhập môn thề phải giử luật.
(Câu minh thệ … hiệp đồng chư môn đệ gìn luật lệ Cao Đài …
Cho nên Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối,  câu 12:
Xét câu minh thệ gởi mình cõi thăng)
Lãnh phận sự hành đạo cho dù ở cấp nào cũng phải minh thệ giử dạ vô tư hành đạo theo Pháp Điều Tam Kỳ Phổ Độ.
Đạo khẳng định không để tình cảm chen vào công việc.
Tình phải theo luật và phù hợp với luật.
Luật thì có văn bản, có giấy trắng mực đen cứ chiếu đó mà làm.
Văn bản là tọa độ gốc của công việc và con người.
Từ có tọa độ gốc thì mới xác định được tọa độ của tầng phần tử trên đồ thị.
Muốn vẽ một đường biểu diễn phải xác định tọa độ gốc.
Muốn hoạch định một chương trình hành đạo, muốn đánh giá một giai đoạn hành đạo phải căn cứ vào pháp và luật làm gốc trước đã.
Cư xử hay giải quyết công việc phải có gốc, có ngọn. Gốc ngọn ấy được phơi bày ra cho mọi người cùng thấy và tự do nhận định, tự do trình bày.
Đó là chánh thiện.
Chánh thiện là xử kỷ hay tiếp vật đều phải căn cứ vào giấy trắng mực đen làm chuẩn thằng.
Không ai có quyền nói Tôi không biết luật nên phạm luật.
Ngay từ điều kiện nhập môn đã nói rõ:
Buộc phải thuộc kinh và thông hiểu luật pháp của Đại Đạo truyền ra. (chương 2, điều 10).
(Đạo luật Mậu Dần “1938” còn buộc mỗi năm phải đi cúng ít nhất là 20 kỳ đàn . Chương I. Điều 2. Mục 8).
Từ có chánh thiện mới tạo ra cảnh công bằng, bác ái.
Chánh thiện là bước chuyển tiếp, bước bản lề để mở và khép cánh của Thánh Thiện.
Không có chánh thiện thì khó lòng mà có thánh thiện.
Hành đạo, giữ đạo mà không căn cứ vào Pháp và Luật thì đi đến loạn đạo.
Bởi hạ ngươn mạt pháp đồng nghĩa với đạo đức suy kém.
Đạo đức suy kém thì thiên hạ mới quí đạo đức.
Quí đạo đức thì kẻ trí trá mới dùng chiêu bài đạo đức mà lừa mị nhân loại.
Muốn lừa mị nhân loại thì phải dùng lý thuyết chung chung … nghĩa là dùng giáo lý ba phải… cái gì cũng phải… quyền lợi cho cá nhân mình hay tập thể mình càng nhiều thì cái phải càng lớn.
Lẽ phải cũng vô cùng mà lẽ quấy cũng vô cùng… cho nên nhân loại phải mờ mịt trong vòng thị phi.
Đó là môi trường là tài nguyên cho kẻ trí trá ra tay khuynh đảo.
Nay họ nói vầy, mai họ nói khác… khắc xuất, khắc nhập… sao cho có lợi mà thôi.
Nhân loại có nhiều đạo mà các đạo thời văn minh nông nghiệp không đáp ứng được luật cung cầu trong thời văn minh vi điện tử, do vậy nhân loại càng bị lợi dụng bởi hai tiếng đạo đức.
Tiếng đạo đức hiểu theo giáo lý rất mơ hồ.
Tiếng đạo đức hiểu theo pháp luật thì có văn bản rành rành cứ đối chiếu thì biết vuông, biết tròn…
Như vậy một nền Đạo phù hợp với thời đại, có ích cho thời đại phải làm cho nhân loại mạnh mẽ lên. Muốn mạnh mẽ phải có qui tắc cư xử chuẩn thằng. Nghĩa là phải dùng Pháp và Luật.
Nhân loại có mạnh mẽ thì mới có cảnh phồn vinh.
Mặt khác thì :
Thượng ngươn (ngươn tạo hóa) là của Phật. Phật thì giáo hóa.
Trung ngươn (tấn hóa) là của Tiên. Tiên thì đào luyện.
Hạ ngươn (bảo tồn) là Cơ phong thánh. Thánh thì trị.
Trị thì phải chánh. Có chánh thì mới có Thánh.
Có Thánh rồi mới có Tiên có Phật.
Cho nên cái lý của chánh thiện trong Tam kỳ là như vậy.
Thí dụ như:
1- Đạo nghị định thứ 8 đã định nghĩa thế nào là chi phái.
Nếu có một nhóm Chức Sắc nào của Đạo cho dù ít hay nhiều lập thành một chi phái riêng mà không do nơi mạng lịnh Hội Thánh thì lập tức phải dùng luật mà xử chớ chẳng phép vị tình.
2- Danh hiệu Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thì năm Đạo thứ hai đã có vi bằng xác định chỉ có Hội Thánh Cửu Trùng Đài mới được dùng để trên kinh sách … thì bất cứ cá nhân hay tổ chức nào muốn dùng phải có phép của Hội Thánh.
Hành đạo thì chẳng phép vị tình riêng mà làm cho có tiếng thị phi trong đạo.
Mới nhìn vào không nghĩ sâu sẽ thắc mắc Đạo mà sao cứng nhắc… không dụng tình thương … nhưng gẫm kỹ lại thì trị như thế mới dứt hậu hoạn… và trị khi cái hư hại chưa phát sinh vậy.
+ Theo dòng đạo s thì câu liễn Cửu Trùng Đài lúc đầu là:
Cao Thượng Chí Tôn Đại Đạo Hòa Bình Dân Chủ Chánh.
Đài Tiền Sùng Bái Tam Kỳ Cộng Hưởng Tự Do Quyền.
Sau mới đổi chữ chánh thành chữ mục như hiện nay.
Mục là nhìn thấy được mà nhìn thấy được thì phân rõ được chánh hay tà. Phân rõ được chánh hay tà thì tự nhiên nhân loại chọn chánh.
+ Chữ tâm xưa nay vẫn là lãnh vực làm hao tốn không biết bao nhiêu là giấy mực của nhân loại.
Với Tam Kỳ thì chữ tâm cũng được thiêng liêng phân tích cho môn sinh hiểu rành rẽ…
Đường Đạo trau dồi một một chữ tâm,
Đạo Đời muôn việc chẳng sai lầm.
Tâm ái nhơn sanh an bốn biển,
Tâm hòa thiên hạ trị muôn năm.
Tâm thành ắt đạt đường tu vững,
Tâm chánh mới mong mối đạo cầm.
Đường tâm cửa thánh dồi chưa vẹn,
Có buổi hoài công bước đạo tầm.
Cùng là chữ tâm nhưng mỗi lãnh vực đều có đặc trưng riêng.
Đứng địa bàn nào thì dùng phạm trù nấy.
Dùng nhầm thì chẳng có hiệu quả chi mà có khi còn tác hại.
+ Pháp Chánh Truyền chú giải phần quyền hành Chưởng Pháp có ghi rõ: cựu luật thì Ngọc Hư Cung biếm bác, còn cổ pháp thì Lôi Âm Tự đã phá tiêu vậy thì ngày nay cựu luật và cổ pháp chẳng còn ý vị chi hết. Những bực tu hành tưởng lầm phải tùng cựu luật hay cổ pháp thì trái hẳn với thiên điều của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thế thiên hành chánh. (Chánh truyền thì phải chánh thiện).
Vậy Chánh thiện mới phù hợp với qui luật cung cầu trong buổi văn minh vi điện tử.
Chánh thiện là cái mới của Cao Đài đóng góp cho nhân loại trong cửa đạo lẫn trường đời trong buổi tam ngươn tứ chuyển vậy.

TIẾT SÁU: TẦM QUAN TRỌNG CỦA PCT:

-              Là căn bản tối trọng của Tôn giáo Cao Đài.
-              Là mẫu mực để các quốc gia tham khảo  xây dựng hiến pháp.
-              Thái Cực từ Thái Cực.
   
A- TÔN GIÁO
-              Là căn bản tối trọng của Tôn giáo Cao Đài.
Thầy lập Đại Đạo Tam Kỳ là lập Quốc Đạo cho nhân loại.
(ý nghĩa Quốc Đạo dạy trước khi ban cho Pháp Chánh Truyền).
Trong cách lập pháp Thầy có dạy rõ: ai là người đạo đức thấy cách lập pháp của Thầy mà không mừng dùm cho nhân loại…
Theo thiển ý người trong tôn giáo ai cũng có bổn phận tìm hiểu và trình bày để cùng nhau học hỏi vậy.
Người có Đạo Cao Đài vẫn biết Pháp Chánh Truyền là hiến pháp của Đạo. Không có Pháp Chánh Truyền  thì không nên hình được tôn giáo Cao Đài.
B- XÃ HỘI.
-              Là mẫu mực để các quốc gia tham khảo xây dựng hiến pháp.                                       
PHÁP CHÁNH TRUYỀN xét về xã hội học  có vài đặc điểm cơ bản sau:
1- Pháp Chánh Truyền bất di bất dịch một dấu chấm dấu phết cũng không được sửa đổi nên là một hiến pháp thành văn và cương tánh.
2- Pháp Chánh Truyền ấn định rõ:
- Thành phần.
- Số lượng nhân sự bộ máy thượng tầng (có bao nhiêu phẩm, phẩm nào có bao nhiêu vị).
Đây là đường hướng mà các nhà hiến pháp học trên thế giới sẽ nghiên cứu từ Pháp Chánh Truyền và áp dụng cho quê hương họ. Trong đường hướng dân chủ thực sự thì người dân yêu cầu phải có dân quyền. Đảng phái nào không hướng đến con đường chủ quyền dân chủ “không lập quyền dân” thì họ tự tiêu diệt lấy họ mà thôi.
(Do tiến bộ về khoa học kỷ thuật trong nhiều lãnh vực đặc biệt nhất là thông tin liên lạc… nên bắt buộc các đảng phái, các quyền lực phải thay đổi để tồn tại và phát triễn)
Dân có chủ quyền thì họ sẽ buộc thượng tầng phải xác định rõ cơ chế và nhân sự của quốc gia hay địa phương chứ không thể nay vầy mai khác rồi dân chúng cứ nai lưng mà đóng thuế để trả lương bổng cho các vị quan chức…
(Thí dụ trong một quốc gia thì Hiến pháp phải ghi rõ:
 Có Tổng Thống, có Thủ Tướng thì tùy theo lớn hay nhỏ mà ấn định rõ thành phần nội các và số lượng các nhân sự trong tầng thành phần… bao nhiêu phó thủ tướng, bao nhiêu bộ, bao nhiêu sĩ quan cấp tướng, cấp tá…
Dân chúng sẽ không chấp nhận liên kết Đảng phái và phân chia quyền lực rồi tạo ra quá nhiều bộ để cho đủ số ghế bộ trưởng cho mỗi Đảng.
Hay khối quân đội, công an …phải ghi rõ bao nhiêu Đại Tướng, Trung Tướng, Thiếu Tướng… không có cảnh sống lâu lên lão làng… tướng tá quá nhiều thì ngân sách quốc gia phải chi tạo gánh nặng cho dân…
Tóm lại đó là phương cách làm cho dân mạnh)
3- Pháp Chánh Truyền cho hạ tầng nẫy nở rất linh hoạt.
Công thức của Hội Thánh em là phương tiện để ổn định và phát triễn xã hội tôn giáo bền vững.
a- Quyền hành Chánh Trị Sự.
b- Quyền hành Phó Trị Sự.
c- Quyền hành Thông Sự.
Với Hội Thánh Em thì cho nẫy n không giới hạn.
Nhưng phải y theo khuôn mẫu và chuẩn mực chớ không được trái luật.
Báo Tuổi Trẻ số ngày 05-5- 2005 mục thời sự và suy nghĩ có đăng bài: Phần mền nhỏ mà không nhỏ.
Trích đăng lại phát biểu của Thủ Tướng Lý Hiển Long về công thức phát triễn đảo quốc Singapore.
(1- Giải quyết mọi sự việc khi nó mới phát sinh “nhiệm vụ Chánh Trị Sự”.
2- Quản lý mọi của cải hay tài nguyên  một cách có hiệu quả “nhiệm vụ của Phó Trị Sự”)
Hai phần mền nầy “công thức” của Singgapore đều có trong Pháp Chánh Truyền  phần quyền hành Hội Thánh em.
Tóm lại:
Đường hướng chung của Pháp Chánh Truyền là ban quyền cho thượng tầng và hạ tầng để tạo thế cho:
-              Thượng tầng mỗi ngày một minh bạch, đủ tài, đủ đức mới được chúng sanh nâng lên. Thiếu tài, thiếu đức phải học thêm. Thất đạo chúng sanh xô xuống.
-              Hạ tầng mỗi ngày một lớn mạnh.
Điều nầy cho thấy chủ trương nâng cao dân trí, làm cho nhơn sanh mạnh lên, mỗi ngày một thêm oai quyền  trong tôn giáo rất tỏ rõ.
Đó là tính hướng dẫn thời đại trong hiện tại của Pháp Chánh Truyền.
Trong tương lai theo qui luật cung cầu thì Pháp Chánh Truyền sẽ còn trình ra nhiều cái  mới hơn nữa để cống hiến cho nhân loại.
Cách lập pháp của Thầy trong  Pháp Chánh Truyền là một trong những  mẫu mực cơ bản mà :
-              Tôn giáo Cao Đài phải tuân y để bảo tồn, phát triễn.
-              Vạn quốc sẽ tham khảo, học hỏi để xây dựng hiến pháp cho quốc gia họ.
Thế giới muốn có nền hòa bình miên viễn thì phải tham khảo cách lập Pháp Chánh Truyền để xây dựng quê hương chính họ.
Tóm lại Pháp Chánh Truyền là nền tảng để xây dựng một thế giới bác ái và công bằng.
Cho nên Pháp Chánh Truyền là một trong những phát minh quan trọng mà Đạo Cao Đài đóng góp cho nhân loại.


C- THÁI CỰC TỪ THÁI CỰC.
1- Trong thế giới tự nhiên:
Hành tinh chung ta có nhiều nguồn năng lượng. (thiên nhiên và nhân tạo).
Nhưng tất cả các nguồn năng lượng ấy đều lấy năng lượng từ một nguồn đầu tiên: MẶT TRỜI.
2- Xét về dịch lý:
Bắt đầu từ Thái Cực.
Mới có dịch lý Tiên Thiên. (08 quẻ).
Rồi dịch lý Hậu Thiên (64 quẻ).
Thì  Pháp Chánh Truyền giống như Ngôi Thái Cực trong dịch lý.
3- Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ có nguồn căn cơ nhất là Pháp Chánh Truyền.
Từ Các Đạo Nghị Định, Tân Luật, Đạo Luật…nhứt nhứt đều phải phù hợp với Pháp Chánh Truyền.
Các tổ chức hay nhân sự phát sinh chi chi cũng đều phải tuân y Pháp Chánh Truyền.
Có một vài điều trong Tân Luật Thầy dạy để hành đạo trước khi lập Pháp Chánh Truyền, nhưng vẫn tuân y theo nguyên tắc của Pháp Chánh Truyền.
Tóm lại:
Không có mặt Trời thì vũ trụ không có nguồn năng lượng nào hết.
Không có Thái Cực thì chẳng có dịch lý.
Không có Pháp Chánh Truyền thì không có Đạo Cao Đài.
                               @@@
+ Pháp Chánh Truyền xuất phát từ Đấng Chí Tôn là Thầy.
Mà Ngôi của Thầy là Thái Cực.
Pháp Chánh Truyền là Thái Cực từ Thái Cực mà có.
+ Vạn vật đều hướng thẳng lên không trung là đi tìm trời.
Nhân loại vẫn đi tìm Trời từ bao đời kiếp rồi.
Nhân loại vẫn cầu xin với Trời.
Ngày nay Trời đã đến để chỉ cho nhân loại cách thức xây dựng một nền hòa bình miên viễn như Trời đã hứa với tổ tiên nhân loại.
Lời hứa đó bắt đầu từ Pháp Chánh Truyền mà nên hình vậy.















TIẾT BẢY: HÒN ĐÁ TẢNG. “ĐIỂM NHẤN”.

-  Ngày 13-8- Bính Dần (1926) Thầy dạy lập Quốc Đạo.
-  Ngày 16-10- Bính Dần (1926) bắt đầu lập Pháp Chánh Truyền.
Điều nầy cho thấy toàn bộ công việc tổ chức hay Pháp Luật tôn giáo được chỉ dẫn sau khi Thầy tuyên bố lập Quốc Đạo  đều thuộc phạm trù của Quốc Đạo. (Cho nên Thầy mới báo trước sẽ loại bỏ những kẻ chia phe phái cho khỏi cảnh rối loạn trong tôn giáo…)
Quốc Đạo chính là hòn đá tảng để hiểu nhiều điều quan trọng trong tôn giáo Cao Đài.
Dùng khái niệm Quốc Đạo là Tôn giáo được tổ chức có qui củ chặc chẽ, có cách hành xử như một quốc gia thì sẽ phát hiện nhiều điều đặc sắc có trong Pháp Chánh Truyền và các văn bút khác trong tôn giáo Cao Đài./.

Châu Thành Thánh Địa .
Ngày 05-5- Mậu Tý (2008).





























LỜI  BẠT.

Hoằng khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Đức Chí Tôn qui tụ khối lương sanh để lập nên Hội Thánh.
Đó là Hội Thánh được lập nên từ Thiên Thượng.
Hội Thánh được chỉ dạy  từ Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu hay các Đấng Thiêng Liêng để xây dựng nên thể pháp cho Tôn giáo. Cho nên các thể pháp ấy không thể thay đổi. Xong việc thì Hội Thánh giải thể.
Đó là tiến trình mà Phạm Hộ Pháp đã báo trước: Khi xây dựng xong tòa nhà thể pháp thì sẽ rút dàn trò ra.
Nhìn lên Bát Quái Đài có Tam Thế Phật (Brahma: sáng tạo, Civa: hủy diệt, Chrisna: bảo tồn) “Chí Tôn Tam Thế”.
Di Lạc Chơn Kinh mở đầu cũng có Brahma Phật, Civa Phật, Chrisna Phật và công thức sau hết của Di Lạc Chơn Kinh là Giải Thể Phật.
Hội Thánh do Thiên Thượng lập thành đã thực thi đủ tam thế: Sáng tạo, hủy diệt “giải thể” và bảo tồn “Văn bản đã ban hành”.
Từ 1979 đến nay cơ Đạo không có Hội Thánh nên công cuộc phổ độ  gặp rất nhiều khó khăn.
Thực tế đạo sự ngày nay cho thấy Nhơn Sanh và Chức Sắc được hun đúc từ Pháp Luật và giáo lý Đại Đạo đang làm hết sức mình để phục hồi Hội Thánh.
Căn cứ vào thể pháp (văn bản của Hội Thánh để lại) tín đồ Cao Đài đang thể hiện quyền của mình trong tôn giáo nên cùng nhau giải thích rõ pháp-luật, phương thức và đề ra lộ trình thích hợp để phục hồi Hội Thánh.
Tài nguyên để phục hồi Hội Thánh thì dồi dào nhưng môi trường xã hội thì hết sức khắc nghiệt. Họ sẳn sàng tiêu diệt những người tâm huyết… nhưng chắc chắn Hội Thánh phải được phục hồi.
Đây chính là bài diễn tập mà tín đồ Cao Đài phải thực thi để chứng minh với thế giới quyền lực, với phần nhân loại đang bị đọa đày và đau khổ rằng: Từ trong môi trường gay gắt nhất mà người tín đồ Cao Đài vận dụng cách lập pháp của Trời dạy để lập quyền cho mình được thì nhân loại muốn học và áp dụng cách lập pháp của Trời dạy để lập quyền cho nhân loại không có chi là khó.  
Đã vươn lên được trong môi trường khó khăn nhất thì các môi trường bình thường hà cớ chi lại không phát triễn được? (Hội Thánh được hồi phục là Hội Thánh do Thiên Hạ lập nên để trình dâng lên cho Thiên Thượng).
Song song đó cũng giới thiệu thể pháp tôn giáo đến phần còn lại của nhân loại để cùng nhau hiểu rằng Pháp Luật và Giáo Lý Đại Đạo là kho chí bữu giúp nhân loại xây dựng thế giới công bằng và bác ái.
Ngoài phương cách lập quyền nhân loại ra để chính nhân loại quyết định số phận của mình không còn cách nào khác.
Lập quyền cho nhân loại là phương thuốc cần ích và hiệu nghiệm để cứu khổ và cứu thế.
(Nhân loại đã và đang mong muốn một xã hội pháp quyền thì Đạo Cao Đài là một tôn giáo pháp quyền do Đức Chí Tôn thành lập để làm quà tặng cho nhân loại. Tôn giáo có liên quan mật thiết đến xã hội nên tôn giáo pháp quyền là tài nguyên là môi trường để người dân góp phần xây dựng xã hội pháp quyền theo luật cung cầu. CT 2019)
Nay kính.
 Đạo Hữu Dương Xuân Lương.