Bổ sung đoạn ngày 22-8-1926 (15-07- Bính Dần):2.3.3/- ... Đến DANH ta nó còn mượn, duy NGAI Ta nó chẳng dám ngồi mà thôi.... Các tên chư Thần, Thánh, Tiên, Phật bị MẠO NHẬN mà lập nên Tả Đạo... Thành thật cáo lỗi.
Lời
Minh Thệ hay Tiền đề cơ bản của Đạo Cao Đài.
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ nói tắt
là Đạo Cao Đài do
Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế lập thành vào ngày 14-10-Bính Dần (18-11-1926) tại Từ
Lâm Tự (Chùa Gò Kén) làng Long Thành tỉnh Tây Ninh, Đại Nam.
Thượng Đế không bắt buộc ai phải
theo Đạo Cao Đài, nhưng bất cứ ai muốn trở thành người Tín đồ Cao Đài phải nhập
môn cầu đạo.
1/- Lễ nhập môn cầu Đạo.
Lễ nhập môn cầu đạo có nghĩa là gia
nhập vào Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (ĐĐTKPĐ) nói tắt là Đạo Cao-Đài do Đức Ngọc
Hoàng Thượng Đế lập ra vào năm 1926 (nhập là vào, môn là cửa). Đó là ngày một
người trưởng thành minh thệ với Đức Chí Tôn tại Đền Thánh, Thánh Thất hay Tư
gia trước Thiên Bàn có
sự hướng dẫn của vị chủ lễ và có sự chứng kiến của đồng đạo. Vị chủ lễ nhập môn
là chức sắc hay chức việc đương quyền hành chánh.
Minh thệ là gì? Là lời thề hứa được
nói lên công khai, rõ ràng.
Minh thệ với ai? Minh thệ với Đức
Chí Tôn có nhân sự trong tôn giáo làm chứng cho sự tự nguyện thề hứa của mình.
1.1/- Thượng Đế dạy: Lời Minh Thệ
(22/23 tháng 4-1926)
“Tên gì? ... Họ gì? ... Thề rằng:
Từ đây biết MỘT Đạo Cao-Đài Ngọc-Đế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng Chư
Môn-Đệ, gìn luật lệ Cao-Đài, như sau có lòng hai thì Thiên-tru, Địa-lục.” (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển quyển 1,
trang 15, bản in 1972)
Lời minh thệ nầy được đọc công khai
trong Lễ nhập môn trước Thiên bàn và có đồng đạo chứng kiến.
1.2/- Nội dung quan trọng cần hiểu
đúng.
1.2.1/- Từ đây biết MỘT Đạo
Cao-Đài Ngọc-Đế … chữ MỘT là số ít nên là duy nhứt, nghĩa là chỉ
có MỘT Đạo Cao-Đài do Ngọc-Đế lập ra vào năm 1926. Ngọc Đế không lập ra Đạo Cao
Đài thứ hai. Chữ MỘT Đạo Cao Đài là tuyên bố cực kỳ quan trọng của Thượng Đế.
Sáu chữ MỘT Đạo Cao-Đài Ngọc-Đế xác
định Đức Ngọc Đế không lập ra Đạo Cao-Đài
nào trước năm
1926 và cũng không lập một Đạo Cao-Đài nào sau năm 1926.
Nếu có bất cứ tổ chức tôn giáo nào xưng danh Đạo Cao-Đài trước hay sau năm 1926 thì
người đạo phải biết rằng không phải của Ngọc-Đế.
Sáu chữ MỘT Đạo Cao-Đài Ngọc-Đế như
cái la bàn để giúp người đi biển không lạc lối, nó quan trọng như một tiền đề
cơ bản của ĐĐTKPĐ.
Trong Tây Du Ký (thời Nhị Kỳ phổ
độ) khi có Tề Thiên giả xuất hiện thì những người thân cận như Thầy Tam Tạng,
và bằng hữu của Tề Thiên thật không phân biệt được; phải đưa đến Đức Quan Âm …
cũng không phân biệt được…
Trong Đạo Cao Đài (thời Tam Kỳ phổ
độ) Đức Chí Tôn ban ơn phước cho môn đệ nên ngay trong Lời minh thệ Đức Chí Tôn
đã trao la bàn, trao chìa khóa, trao công cụ cho môn đệ biết là Cao Đài của
Thượng Đế (thật) thì đương nhiên biết Cao Đài không phải của Thượng Đế (giả).
Chìa khóa đã trao tay nhưng ai không đủ đức tin mà lầm tin vào Cao Đài giả thì không
thể biện hộ hay trách móc chi đặng.
Chú ý rằng nội dung nầy là riêng
cho những tổ chức tôn giáo có liên quan đến danh hiệu Cao-Đài mà thôi, không
liên quan đến các tôn giáo bạn có danh hiệu độc lập với Đạo Cao-Đài.
1.2.2/- Thứ hai: ... chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp
đồng Chư Môn-Đệ, gìn luật lệ Cao-Đài ... lòng dạ của một người như thế nào
chỉ có chính người đó biết chính xác mà thôi. Người ngoài chỉ có thể suy đoán
qua hành động. Như vậy xét về luật nhân quả thì lòng dạ là nhân còn hành động
là quả.
Thầy dạy chẳng đổi dạ đổi lòng là
chú trọng đến việc gìn giữ cái nhân; từ cái nhân ấy thể hiện qua cái quả nhìn
thấy được là hiệp đồng với môn đệ Thầy gìn luật lệ Cao-Đài. Giữ được nhân lành
thì quả tốt.
Trong lời dạy ấy cũng bao hàm rằng
với kẻ không gìn luật lệ Cao-Đài thì Thầy không buộc phải hiệp đồng. Thầy là
Đấng Chí Tôn mà còn không vừa lòng hết mọi người thì Thầy cũng không buộc môn
đệ phải làm việc chi quá sức của mình.
Nội dung nầy có ý nghĩa như cách sử
dụng la bàn để xác định một vấn đề, một sự việc liên quan đến ĐĐTKPĐ: phải xét
về tính pháp lý trước hơn hết. Nếu qua được vòng pháp lý mới xét tiếp, không
qua được vòng pháp lý thì không cần đi vào nội dung.
Luật lệ Cao Đài về căn bản để xét
theo thiển ý là Thánh Ngôn Hiệp Tuyển (hai quyển), Tân Luật (1927), Pháp Chánh
Truyền Chú Giải (1931), Bát Đạo Nghị Định (1930-1934), Kinh Thiên Đạo và Thế
Đạo (1935), Đạo Luật Mậu Dần (1938), Đạo sử của bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.
2/- Tại sao Đức Chí Tôn buộc phải
minh thệ?
2.1/- Thể hiện ý thức trách nhiệm.
Khi lập thệ, người nhập môn được
Thượng Đế nâng lên thành đối tác đạo lý, có quyền hạn và trách nhiệm thiêng
liêng tương xứng (Người và Thượng Đế ký một cam kết tâm linh có phần giống như
hai đối tác ký một hợp đồng trong xã hội vậy). Lời thề được công bố trước Thiên
bàn và có sự chứng minh của đồng đạo, thể hiện ý thức cá nhân về sự lựa chọn,
đạo tâm và cam kết giữ gìn chánh pháp.
Lời Minh Thệ là giao ước thiêng
liêng giữa người nhập môn và Đức Thượng Đế, trong đó người thề cam kết trung
thành tuyệt đối với Đạo Cao Đài duy nhất do Ngọc Hoàng Thượng Đế khai sáng năm
1926. Không có Đạo Cao Đài thứ hai nào được lập bởi Thượng Đế trước hay sau
thời điểm đó.
2.2/- Minh Thệ sẽ được chư Thần,
Thánh, Tiên Phật bảo hộ.
Theo luật công bằng: Đạo khai thì
tà khởi; tà và chánh đi đôi với nhau nên Đức Chí Tôn buộc phải minh thệ để chư
Thần, Thánh, Tiên, Phật bảo hộ cho môn đệ.
Thượng Đế dạy ngày 09-8-1926
(01-7-Bính Dần).
TÁI
CẦU
Hỉ chư Môn-đệ............... Các
con nghe dạy:
Tương, con không hiểu ngày nay là
thế nào?
Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật cả thảy
đều náo động cũng vì các con.
Quỉ-Vương đến trước Bạch-Ngọc-Kinh
xin hành xác và thử thách các con. Thầy chẳng chịu cho hành xác; chúng nó hiệp
Tam-Thập-Lục-Động toan hại các con; nên Thầy sai Quan-Thánh và Quan Âm đến
gìn-giữ các con, nhưng phần đông chưa lập Minh-Thệ nên chư Thần, Thánh, Tiên,
Phật không muốn nhìn nhận.
Vì vậy thầy sai mấy đứa nhỏ xuống
đặng chung hiệp cùng con, mà tức cấp lập thành, và luôn dịp phong Thiên-Ân cho
Tương, Kim và Thơ... Vậy con phải kêu chúng nó hội cho đủ mặt nội đêm nay.
TÁI CẦU
Lần thứ Tư (12 giờ khuya)
Trong Tam-Kỳ Phổ-Độ và qui Tam-Giáo
nầy.
Phật thì có Quan-Âm.
Tiên thì có Lý-Thái-Bạch.
Thánh thì có Quan-Thánh-Đế-Quân
khai Đạo.
Vậy con lập cho đủ ba Trấn chứng
đàn; con phải lập bàn Ngũ-Lôi, như Thầy dạy lúc trước; phải có bùa
Kim-Quan-Tiên, còn con viết bùa Giáng-Ma-Xữ để bàn vọng Hộ-Pháp; rồi Cư chấp
bút nhang cho Thầy triệu Ngũ-Lôi đến; rồi nó xuống đứng gần bàn Hộ-Pháp với Tắc
và Sang; còn mấy đứa phò-loan đứng vòng theo đó.
Con biểu Tương, Kim, Thơ thề y như
buổi trước; chư Môn-đệ thề như buổi Thiên-Phong. Con phải nhớ dặn chúng nó tịnh
tâm mới đặng, vì có cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật chứng đàn. (TNHT Q1, trang 32, 33; 1972).
Nguyên lý của ĐĐTKPĐ đi từ hữu hình
đến vô vi; nên con người phải thi hành phần hữu hình (nhập môn cầu đạo) thì bên
trong có vô vi ám trợ. Sức người không đủ để giữ mình trong mọi cám dỗ về danh
lợi quyền bất chánh nên nhờ có thiêng liêng trợ giúp để cải tà qui chánh. Sức
người không đủ để vượt qua tham sân si và rèn luyện bi trí dũng nên nhờ các
Đấng ban bố ơn lành cho chơn linh nhập thể để lập công bồi đức theo Pháp điều
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
2.3/- Đức Chí Tôn cho tà quái lấy
danh Đức Chí Tôn mà cám dỗ.
Đức Chí Tôn lập ĐĐTKPĐ là lập một
nền văn minh mới (Văn minh Cao Đài Giáo hay Văn minh tâm linh, Văn minh của Đạo
làm người) để giữ gìn nhân loại trong vòng thương yêu nhau. Điều đó trái với tà
quái vốn làm đủ cách cho nhân loại ghét nhau, giết nhau nên tà quái phải phá
hoại nền chánh giáo. Chính Đức Chí Tôn cho phép tà quái dùng đủ cách để phá
hoại nền chánh giáo của Thượng Đế.
2.3.1/- Thượng Đế dạy ngày
13-3-1926 (29-01-Bính Đần):
Thầy cho các con biết trước đặng sau đừng trách rằng quyền hành Thầy không
đủ mà kềm thúc trọn cả Môn-đệ.
Các con đủ hiểu rằng: Phàm muôn
việc chi cũng có thiệt và cũng có dối; nếu không có thiệt thì làm sao biết đặng
dối; còn không có dối, làm sao phân-biệt cho có thiệt... Cười...
Thầy nói cho các con hiểu rằng:
muốn xứng đáng làm Môn-đệ Thầy là khổ hạnh lắm. Hễ càng thương bao nhiêu thì
Thầy lại càng hành bấy nhiêu. Như đáng làm môn-đệ Thầy thì Bạch-Ngọc-Kinh mới
chịu rước, còn ngã thì cửa Địa-Ngục lại mời. Thương thương ghét ghét, ai thấu
đáo vậy ôi!
Bởi vậy cho nên Thầy chẳng vì ghét
mà không lời khuyến dụ; cũng chẳng vì thương mà không sai qủy dỗ dành. Thầy nói
trước cho các con biết mà giữ mình; chung quanh các con, dầu xa, dầu gần, Thầy
đã thả một lũ hổ-lang ở lộn với các con. Thầy hằng xúi chúng nó thừa dịp mà cắn
xé các con; song trước Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp, chúng nó
chẳng hề thấy đặng là đạo đức của các con.
Vậy ráng gìn-giữ bộ thiết-giáp ấy hoài cho tới ngày các con hội hiệp cùng Thầy.
Nghe và ráng tuân theo. (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Q1, trang
11, bản 1972)
2.3.2/- Thượng Đế dạy ngày 07-8-1926
(29-6-Bính Dần).
Những
sự phàm tục đều là mưu kế cuả Tà-Mị Yêu-Quái cốt để ngăn trở bước đường
Thánh-Đạo cuả các con. Những mưu qủi quyệt ấy do lịnh Thầy dùng để thử các con.
Thầy đã nói thầy thả một lũ hổ-lang ở lộn cùng các con; nó hằng thừa dịp mà cắn
xé các con, song trước Thầy đã cho con mặc một bộ thiết-giáp, chúng nó chẳng hề
thấy đặng là đạo-đức của các con. Thầy lại khuyên các con gìn-giữ bộ thiết-giáp
ấy cho tới ngày hội hiệp cùng Thầy. Ấy vậy Đạo là vật rất hữu ích như giáp hữu
ích cho thân các con; nếu các con bỏ giáp thì thân các con ra trần lỗ; còn bỏ
Đạo thì các con ở dưới phép Tà-Thần.
... Các con chớ ngại. Ngày nay Đạo
đã khai tức là Tà khởi. Vậy thì các con phải hết lòng, hết sức mà gìn giữ lấy
thân mình; đã chẳng phải giữ mình cho các con mà thôi, lại còn gìn giữ cả
Môn-đệ Thầy nữa.
Thầy nói cho các con hiểu trước
rằng: Cả Môn-đệ Thầy đã lựa chọn lọc lừa, còn lối nữa phần vì Thầy cho yêu
quái lấy danh Thầy mà cám dỗ... Cười... Đi bao nhiêu đều mất bấy nhiêu. Các
con chớ buồn vì Thiên-Cơ phải vậy. Thi nhiều đậu ít lá lẽ hằng. Các con liệu
phương thức mà nâng đỡ đức-tín của Môn-đệ cao lên hàng ngày; ấy là công quả đầu
hết. (TNHT Q1,
trang 31; 1972).
2.3.3/- Thầy dạy ngày 22-8-1926 (15-07-
Bính Dần):
...Buổi Bạch-Ngọc-Kinh và Lôi-Âm-Tự
lập pháp "Tam-Kỳ-Phổ-Độ", Quỉ vương đã khởi phá quấy chơn Đạo. Đến
DANH ta nó còn mượn, duy NGAI Ta nó chẳng dám ngồi mà thôi.
Lại còn hiểu rõ rằng Ta đến với
huyền diệu nầy mượn cơ mầu-nhiệm, hiệp Tam-Thập-Lục-Động đổi gọi
Tam-Thập-Lục-Thiên. Các tên chư Thần, Thánh, Tiên, Phật bị MẠO NHẬN
mà lập nên Tả Đạo.. (TNHT Q1 trang 35; 1972):
2.3.4/- Thượng Đế dạy ngày
19-12-1926 (15-11-Bính Dần).
Còn phẩm trật Quỉ-vị cũng như thế
ấy; nó cũng noi chước Thiên- Cung mà lập thành Quỉ-vị, cũng đủ các ngôi, các
phẩm đặng đầy đọa các con, hành hài các con, xử trị cá con. Cái quyền hành lớn
lao ấy, do Thầy ban cho nó nên đặng quyền cám dỗ các con, xúi biểu các con,
giành giựt các con, mà làm tay chân bộ hạ trong vòng tôi tớ nó.
Thầy đã thường nói: hai đầu cân
không song bằng thì tiếng cân chưa đúng lý. Luật công bình Thiêng-Liêng buộc
phải vậy. Thầy lắm phen phải bị mất, bị giựt con cái của Thầy vì chúng nó.
Thầy đã chỉ rõ hai nẽo tà chánh,
sang hèn rồi, vậy Thầy cũng chỉ phương hướng cho các con đi khỏi lầm lạc. Các
con hiểu rằng: trong Tam-Thiên-Thế-Giái còn có Quỉ mị chuyển kiếp ở lộn cùng
các con thay, huống lựa là "Thất-Thập-Nhị-Địa" nầy, sao không có cho
đặng?
Hại thay! Lũ quỉ là phần nhiều; nó
bày bố ra mỗi nơi một giả cuộc, mà dỗ dành các con.
Vì vậy, Thầy đã nói tiên tri rằng:
Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lộn
cùng các con, lại hàng ngày xúi biểu chúng nó cắn xé các con, song Thầy cho các
con mặc một bộ thiết giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo-đức của các con.
Ấy vậy Đạo-Đức các con là phương
pháp khử trừ quỉ mị lại cũng là phương pháp dìu dắt các con trở lại cùng Thầy.
Các con không đạo, thì là tôi tớ quỉ mị... (TNHT Q1, trang 60, 1972)
2.3.5/- Thượng Đế dạy ngày
1-02-1927 (01-01-Đinh-Mão).
Các con... Mừng các con.
Trung, Cư, Tắc; mấy con nhớ đêm nay
năm rồi thế nào, còn nay ra thể nào chăng?
Trịnh-thị Ái-Nữ, Hiếu, hai con đã
thấy Thầy giữ lời hứa thế nào chăng?
Thầy lập Đạo năm rồi ngày nầy, thì
môn-đệ cuả Thầy chỉ có 12 đứa, mà bốn đứa đã vào nơi tay Chúa-Quỉ, chỉ còn lại
tám. Trong tám đứa còn lại thì còn một đôi đứa biếng nhác mà không hành Đạo,
Thầy hỏi nếu chẳng phải quyền hành Thầy, dầu cho một vị Phật thiệt lớn giáng
thế Đi nữa, cũng chưa có phương chi mà độ hơn bốn muôn sanh linh, nhờ tay có 6
đứa môn-đệ trong một năm cho đặng bao giờ…. (TNHT Q1, trang 73, 74; 1972).
Lưu ý: trong 12 vị môn đệ do chính
Đức Chí Tôn độ rỗi (đầu năm Bính Dần, 1926) mà 4 vị đã vào tay chúa quỷ, còn
lại một đôi vị không rơi vào tay chúa quỷ nhưng biếng nhác không chịu hành đạo
… qua đó ta thấy sức cám dỗ và quyền lực của Chúa quỷ mạnh đến dường nào.
3/- Những lời dạy liên quan đến MỘT
Đạo Cao Đài.
Trong Lời minh thệ Thượng Đế dạy rõ
chỉ có MỘT Đạo Cao Đài do Thượng Đế lập, song song đó cũng dạy thêm bất cứ ai
chia phe phân phái trong ĐĐTKPĐ đều là trái với ý muốn của Thượng Đế. Đại Từ
Phụ thương nên dạy đủ đường mà môn đệ của Ngài vẫn lầm lạc tin vào Cao Đài giả.
3.1/ Thượng Đế dạy ngày 24-4-1926
Còn cả Môn Đệ, ai cũng như ai,
không đặng gây phe, lập đảng; nhược kẻ nào phạm tội, thì THẦY trục xuất ra
ngoài, cho khỏi điều rối loạn. (Thánh
Ngôn Hiệp Tuyển quyển 1, trang 46, bản in 1972).
3.2/- Thượng Đế dạy 14-8-1926.
"Vậy các con khi nghe nói
Cao Đài nơi nầy, Cao Đài nơi kia đừng vội tin mà lầm mưu Tà-Mị" (Phổ
Cáo Chúng Sanh trang 6, bản in ngày 13-10-1926)
3.3/- Thượng Đế dạy ngày
29-10-1926.
Đ… Q… cả môn đệ Thầy duy
biết có một chớ không biết hai; kẻ nào cưu tâm chia phe phân phái là đứa thù
nghịch của Thầy. Con hiểu à! (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển quyển 1, trang 47,
bản in 1972).
Tra cứu trong đạo sử thì Đ… Q…
chính là ngài Trần Đạo Quang, quyền Thượng Chưởng Pháp rồi đắc phong Ngọc
Chưởng Pháp.
Năm 1931 Ngài Trần Đạo Quang hiệp
với Ngài Phối Sư Thái Ca Thanh (Nguyễn Văn Ca) lập ra chi phái Minh Lý Đạo. Năm
1932 Ngài Trần Đạo Quang tách ra lập thành Minh Chơn Đạo.
4/- Tạm kết.
Tề Thiên thật chỉ có một, còn Tề
Thiên giả thì hằng hà sa số cho nên điều quan trọng là xác định cho được Tề
Thiên thật.
Người tìm hiểu Đạo Cao Đài sẽ gặp
rất nhiều Đạo Cao Đài; trong đó chỉ có một Đạo Cao Đài của Thượng Đế lập mà có
hằng hà sa số Đạo Cao Đài không phải của Thượng Đế lập. Như vậy phải tìm hiểu
chính xác căn cước của Đạo Cao Đài do Thượng Đế lập năm 1926 để xác định Cao
Đài thật của Thượng Đế.
Căn cước Đạo Cao Đài do Thượng Đế
lập có danh xưng đầy đủ 06 chữ Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ nới tắt có 03 chữ là Đạo
Cao Đài.
Thầy cho yêu quái lấy danh Thầy mà
cám dỗ... nên yêu quái cũng nhập vào cơ bút, giả
danh Thượng Đế để dạy lập ra các Đạo Cao Đài khác. Tà quái phải mượn danh Đức
Chí Tôn bằng cách đưa ra các bài cơ rằng Thượng Đế dạy họ lập ra các Cơ quan
hay Đạo Cao Đài khác với năm 1926. Căn cước của các Đạo Cao Đài do yêu quái lập
ra (hay các chi phái) tên đầy đủ có nhiều hơn 06 chữ và nói tắt có nhiều hơn 03
chữ. Nhưng hầu hết các tổ chức Cao Đài giả (chi phái) giấu căn cước thật mà sử
dụng căn cước 06 chữ Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ để trên bìa sách.
Trong đó Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý
171B Cống Quỳnh, Sài Gòn là giả mạo nhiều hơn hết. (1)
Hội Thánh Cao Đài bị cốt năm 1983
nên nhơn sanh không có nơi thỉnh giáo về Cao Đài thật. Trong trách nhiệm của
một người Đạo Cao Đài đã từng bị khó khăn khi xác định Đạo Cao Đài thật của
Thượng Đế trước một rừng kinh sách; Tôi mạo muội tìm hiểu về Lời Minh Thệ để
cung cấp một la bàn, một chìa khóa với hy vọng giúp người tìm hiểu về Đạo Cao
Đài có phương tiện tối thiểu đế xác định Đạo Cao Đài thật của Thượng Đế lập năm
1926.
Nay kính.
Dallas,
ngày 29-7-2015.
Đạo hữu Dương Xuân Lương.
Email: hoabinhchungsong220513@yahoo.com
1/-