Trang

Thứ Ba, 29 tháng 7, 2025

5893. Lời Minh Thệ hay Tiền đề cơ bản của Đạo Cao Đài.

Bổ sung đoạn ngày 22-8-1926 (15-07- Bính Dần):2.3.3/- ... Đến DANH ta nó còn mượn, duy NGAI Ta nó chẳng dám ngồi mà thôi.... Các tên chư Thần, Thánh, Tiên, Phật bị MẠO NHẬN mà lập nên Tả Đạo... Thành thật cáo lỗi.

 

Lời Minh Thệ hay Tiền đề cơ bản của Đạo Cao Đài.

Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ nói tắt là Đạo Cao Đài do Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế lập thành vào ngày 14-10-Bính Dần (18-11-1926) tại Từ Lâm Tự (Chùa Gò Kén) làng Long Thành tỉnh Tây Ninh, Đại Nam.

Thượng Đế không bắt buộc ai phải theo Đạo Cao Đài, nhưng bất cứ ai muốn trở thành người Tín đồ Cao Đài phải nhập môn cầu đạo.

1/- Lễ nhập môn cầu Đạo.


Lễ nhập môn cầu đạo có nghĩa là gia nhập vào Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (ĐĐTKPĐ) nói tắt là Đạo Cao-Đài do Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế lập ra vào năm 1926 (nhập là vào, môn là cửa). Đó là ngày một người trưởng thành minh thệ với Đức Chí Tôn tại Đền Thánh, Thánh Thất hay Tư gia trước Thiên Bàn có sự hướng dẫn của vị chủ lễ và có sự chứng kiến của đồng đạo. Vị chủ lễ nhập môn là chức sắc hay chức việc đương quyền hành chánh.

Minh thệ là gì? Là lời thề hứa được nói lên công khai, rõ ràng.

Minh thệ với ai? Minh thệ với Đức Chí Tôn có nhân sự trong tôn giáo làm chứng cho sự tự nguyện thề hứa của mình.

1.1/- Thượng Đế dạy: Lời Minh Thệ (22/23 tháng 4-1926)

“Tên gì? ... Họ gì? ... Thề rằng: Từ đây biết MỘT Đạo Cao-Đài Ngọc-Đế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng Chư Môn-Đệ, gìn luật lệ Cao-Đài, như sau có lòng hai thì Thiên-tru, Địa-lục.” (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển quyển 1, trang 15, bản in 1972)

Lời minh thệ nầy được đọc công khai trong Lễ nhập môn trước Thiên bàn và có đồng đạo chứng kiến.

1.2/- Nội dung quan trọng cần hiểu đúng.

1.2.1/- Từ đây biết MỘT Đạo Cao-Đài Ngọc-Đế … chữ MỘT là số ít nên là duy nhứt, nghĩa là chỉ có MỘT Đạo Cao-Đài do Ngọc-Đế lập ra vào năm 1926. Ngọc Đế không lập ra Đạo Cao Đài thứ hai. Chữ MỘT Đạo Cao Đài là tuyên bố cực kỳ quan trọng của Thượng Đế.

Sáu chữ MỘT Đạo Cao-Đài Ngọc-Đế xác định Đức Ngọc Đế không lập ra Đạo Cao-Đài nào trước năm 1926 và cũng không lập một Đạo Cao-Đài nào sau năm 1926. Nếu có bất cứ tổ chức tôn giáo nào xưng danh Đạo Cao-Đài trước hay sau năm 1926 thì người đạo phải biết rằng không phải của Ngọc-Đế. 

Sáu chữ MỘT Đạo Cao-Đài Ngọc-Đế như cái la bàn để giúp người đi biển không lạc lối, nó quan trọng như một tiền đề cơ bản của ĐĐTKPĐ.

Trong Tây Du Ký (thời Nhị Kỳ phổ độ) khi có Tề Thiên giả xuất hiện thì những người thân cận như Thầy Tam Tạng, và bằng hữu của Tề Thiên thật không phân biệt được; phải đưa đến Đức Quan Âm … cũng không phân biệt được…

Trong Đạo Cao Đài (thời Tam Kỳ phổ độ) Đức Chí Tôn ban ơn phước cho môn đệ nên ngay trong Lời minh thệ Đức Chí Tôn đã trao la bàn, trao chìa khóa, trao công cụ cho môn đệ biết là Cao Đài của Thượng Đế (thật) thì đương nhiên biết Cao Đài không phải của Thượng Đế (giả). Chìa khóa đã trao tay nhưng ai không đủ đức tin mà lầm tin vào Cao Đài giả thì không thể biện hộ hay trách móc chi đặng.

Chú ý rằng nội dung nầy là riêng cho những tổ chức tôn giáo có liên quan đến danh hiệu Cao-Đài mà thôi, không liên quan đến các tôn giáo bạn có danh hiệu độc lập với Đạo Cao-Đài.

1.2.2/- Thứ hai: ... chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng Chư Môn-Đệ, gìn luật lệ Cao-Đài ... lòng dạ của một người như thế nào chỉ có chính người đó biết chính xác mà thôi. Người ngoài chỉ có thể suy đoán qua hành động. Như vậy xét về luật nhân quả thì lòng dạ là nhân còn hành động là quả.

Thầy dạy chẳng đổi dạ đổi lòng là chú trọng đến việc gìn giữ cái nhân; từ cái nhân ấy thể hiện qua cái quả nhìn thấy được là hiệp đồng với môn đệ Thầy gìn luật lệ Cao-Đài. Giữ được nhân lành thì quả tốt.

Trong lời dạy ấy cũng bao hàm rằng với kẻ không gìn luật lệ Cao-Đài thì Thầy không buộc phải hiệp đồng. Thầy là Đấng Chí Tôn mà còn không vừa lòng hết mọi người thì Thầy cũng không buộc môn đệ phải làm việc chi quá sức của mình.

Nội dung nầy có ý nghĩa như cách sử dụng la bàn để xác định một vấn đề, một sự việc liên quan đến ĐĐTKPĐ: phải xét về tính pháp lý trước hơn hết. Nếu qua được vòng pháp lý mới xét tiếp, không qua được vòng pháp lý thì không cần đi vào nội dung.

Luật lệ Cao Đài về căn bản để xét theo thiển ý là Thánh Ngôn Hiệp Tuyển (hai quyển), Tân Luật (1927), Pháp Chánh Truyền Chú Giải (1931), Bát Đạo Nghị Định (1930-1934), Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo (1935), Đạo Luật Mậu Dần (1938), Đạo sử của bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.

2/- Tại sao Đức Chí Tôn buộc phải minh thệ?

2.1/- Thể hiện ý thức trách nhiệm.

Khi lập thệ, người nhập môn được Thượng Đế nâng lên thành đối tác đạo lý, có quyền hạn và trách nhiệm thiêng liêng tương xứng (Người và Thượng Đế ký một cam kết tâm linh có phần giống như hai đối tác ký một hợp đồng trong xã hội vậy). Lời thề được công bố trước Thiên bàn và có sự chứng minh của đồng đạo, thể hiện ý thức cá nhân về sự lựa chọn, đạo tâm và cam kết giữ gìn chánh pháp.

Lời Minh Thệ là giao ước thiêng liêng giữa người nhập môn và Đức Thượng Đế, trong đó người thề cam kết trung thành tuyệt đối với Đạo Cao Đài duy nhất do Ngọc Hoàng Thượng Đế khai sáng năm 1926. Không có Đạo Cao Đài thứ hai nào được lập bởi Thượng Đế trước hay sau thời điểm đó.

2.2/- Minh Thệ sẽ được chư Thần, Thánh, Tiên Phật bảo hộ.

Theo luật công bằng: Đạo khai thì tà khởi; tà và chánh đi đôi với nhau nên Đức Chí Tôn buộc phải minh thệ để chư Thần, Thánh, Tiên, Phật bảo hộ cho môn đệ.

Thượng Đế dạy ngày 09-8-1926 (01-7-Bính Dần).

TÁI CẦU

Hỉ chư Môn-đệ............... Các con nghe dạy:

Tương, con không hiểu ngày nay là thế nào?

Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật cả thảy đều náo động cũng vì các con.

Quỉ-Vương đến trước Bạch-Ngọc-Kinh xin hành xác và thử thách các con. Thầy chẳng chịu cho hành xác; chúng nó hiệp Tam-Thập-Lục-Động toan hại các con; nên Thầy sai Quan-Thánh và Quan Âm đến gìn-giữ các con, nhưng phần đông chưa lập Minh-Thệ nên chư Thần, Thánh, Tiên, Phật không muốn nhìn nhận.

Vì vậy thầy sai mấy đứa nhỏ xuống đặng chung hiệp cùng con, mà tức cấp lập thành, và luôn dịp phong Thiên-Ân cho Tương, Kim và Thơ... Vậy con phải kêu chúng nó hội cho đủ mặt nội đêm nay.

                               TÁI CẦU

Lần thứ Tư (12 giờ khuya)

Trong Tam-Kỳ Phổ-Độ và qui Tam-Giáo nầy.

Phật thì có Quan-Âm.

Tiên thì có Lý-Thái-Bạch.

Thánh thì có Quan-Thánh-Đế-Quân khai Đạo.

Vậy con lập cho đủ ba Trấn chứng đàn; con phải lập bàn Ngũ-Lôi, như Thầy dạy lúc trước; phải có bùa Kim-Quan-Tiên, còn con viết bùa Giáng-Ma-Xữ để bàn vọng Hộ-Pháp; rồi Cư chấp bút nhang cho Thầy triệu Ngũ-Lôi đến; rồi nó xuống đứng gần bàn Hộ-Pháp với Tắc và Sang; còn mấy đứa phò-loan đứng vòng theo đó.

Con biểu Tương, Kim, Thơ thề y như buổi trước; chư Môn-đệ thề như buổi Thiên-Phong. Con phải nhớ dặn chúng nó tịnh tâm mới đặng, vì có cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật chứng đàn. (TNHT Q1, trang 32, 33; 1972).

Nguyên lý của ĐĐTKPĐ đi từ hữu hình đến vô vi; nên con người phải thi hành phần hữu hình (nhập môn cầu đạo) thì bên trong có vô vi ám trợ. Sức người không đủ để giữ mình trong mọi cám dỗ về danh lợi quyền bất chánh nên nhờ có thiêng liêng trợ giúp để cải tà qui chánh. Sức người không đủ để vượt qua tham sân si và rèn luyện bi trí dũng nên nhờ các Đấng ban bố ơn lành cho chơn linh nhập thể để lập công bồi đức theo Pháp điều Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.

2.3/- Đức Chí Tôn cho tà quái lấy danh Đức Chí Tôn mà cám dỗ.

Đức Chí Tôn lập ĐĐTKPĐ là lập một nền văn minh mới (Văn minh Cao Đài Giáo hay Văn minh tâm linh, Văn minh của Đạo làm người) để giữ gìn nhân loại trong vòng thương yêu nhau. Điều đó trái với tà quái vốn làm đủ cách cho nhân loại ghét nhau, giết nhau nên tà quái phải phá hoại nền chánh giáo. Chính Đức Chí Tôn cho phép tà quái dùng đủ cách để phá hoại nền chánh giáo của Thượng Đế.

2.3.1/- Thượng Đế dạy ngày 13-3-1926 (29-01-Bính Đần): Thầy cho các con biết trước đặng sau đừng trách rằng quyền hành Thầy không đủ mà kềm thúc trọn cả Môn-đệ.

Các con đủ hiểu rằng: Phàm muôn việc chi cũng có thiệt và cũng có dối; nếu không có thiệt thì làm sao biết đặng dối; còn không có dối, làm sao phân-biệt cho có thiệt... Cười...

Thầy nói cho các con hiểu rằng: muốn xứng đáng làm Môn-đệ Thầy là khổ hạnh lắm. Hễ càng thương bao nhiêu thì Thầy lại càng hành bấy nhiêu. Như đáng làm môn-đệ Thầy thì Bạch-Ngọc-Kinh mới chịu rước, còn ngã thì cửa Địa-Ngục lại mời. Thương thương ghét ghét, ai thấu đáo vậy ôi!

Bởi vậy cho nên Thầy chẳng vì ghét mà không lời khuyến dụ; cũng chẳng vì thương mà không sai qủy dỗ dành. Thầy nói trước cho các con biết mà giữ mình; chung quanh các con, dầu xa, dầu gần, Thầy đã thả một lũ hổ-lang ở lộn với các con. Thầy hằng xúi chúng nó thừa dịp mà cắn xé các con; song trước Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo đức của các con.
Vậy ráng gìn-giữ bộ thiết-giáp ấy hoài cho tới ngày các con hội hiệp cùng Thầy.

Nghe và ráng tuân theo. (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Q1, trang 11, bản 1972)

2.3.2/- Thượng Đế dạy ngày 07-8-1926 (29-6-Bính Dần).

Những sự phàm tục đều là mưu kế cuả Tà-Mị Yêu-Quái cốt để ngăn trở bước đường Thánh-Đạo cuả các con. Những mưu qủi quyệt ấy do lịnh Thầy dùng để thử các con. Thầy đã nói thầy thả một lũ hổ-lang ở lộn cùng các con; nó hằng thừa dịp mà cắn xé các con, song trước Thầy đã cho con mặc một bộ thiết-giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo-đức của các con. Thầy lại khuyên các con gìn-giữ bộ thiết-giáp ấy cho tới ngày hội hiệp cùng Thầy. Ấy vậy Đạo là vật rất hữu ích như giáp hữu ích cho thân các con; nếu các con bỏ giáp thì thân các con ra trần lỗ; còn bỏ Đạo thì các con ở dưới phép Tà-Thần.

... Các con chớ ngại. Ngày nay Đạo đã khai tức là Tà khởi. Vậy thì các con phải hết lòng, hết sức mà gìn giữ lấy thân mình; đã chẳng phải giữ mình cho các con mà thôi, lại còn gìn giữ cả Môn-đệ Thầy nữa.

Thầy nói cho các con hiểu trước rằng: Cả Môn-đệ Thầy đã lựa chọn lọc lừa, còn lối nữa phần vì Thầy cho yêu quái lấy danh Thầy mà cám dỗ... Cười... Đi bao nhiêu đều mất bấy nhiêu. Các con chớ buồn vì Thiên-Cơ phải vậy. Thi nhiều đậu ít lá lẽ hằng. Các con liệu phương thức mà nâng đỡ đức-tín của Môn-đệ cao lên hàng ngày; ấy là công quả đầu hết. (TNHT Q1, trang 31; 1972).

2.3.3/- Thầy dạy ngày 22-8-1926 (15-07- Bính Dần):

...Buổi Bạch-Ngọc-Kinh và Lôi-Âm-Tự lập pháp "Tam-Kỳ-Phổ-Độ", Quỉ vương đã khởi phá quấy chơn Đạo. Đến DANH ta nó còn mượn, duy NGAI Ta nó chẳng dám ngồi mà thôi.

Lại còn hiểu rõ rằng Ta đến với huyền diệu nầy mượn cơ mầu-nhiệm, hiệp Tam-Thập-Lục-Động đổi gọi Tam-Thập-Lục-Thiên. Các tên chư Thần, Thánh, Tiên, Phật bị MẠO NHẬN mà lập nên Tả Đạo.. (TNHT Q1 trang 35; 1972):

2.3.4/- Thượng Đế dạy ngày 19-12-1926 (15-11-Bính Dần).

Còn phẩm trật Quỉ-vị cũng như thế ấy; nó cũng noi chước Thiên- Cung mà lập thành Quỉ-vị, cũng đủ các ngôi, các phẩm đặng đầy đọa các con, hành hài các con, xử trị cá con. Cái quyền hành lớn lao ấy, do Thầy ban cho nó nên đặng quyền cám dỗ các con, xúi biểu các con, giành giựt các con, mà làm tay chân bộ hạ trong vòng tôi tớ nó.

Thầy đã thường nói: hai đầu cân không song bằng thì tiếng cân chưa đúng lý. Luật công bình Thiêng-Liêng buộc phải vậy. Thầy lắm phen phải bị mất, bị giựt con cái của Thầy vì chúng nó.

Thầy đã chỉ rõ hai nẽo tà chánh, sang hèn rồi, vậy Thầy cũng chỉ phương hướng cho các con đi khỏi lầm lạc. Các con hiểu rằng: trong Tam-Thiên-Thế-Giái còn có Quỉ mị chuyển kiếp ở lộn cùng các con thay, huống lựa là "Thất-Thập-Nhị-Địa" nầy, sao không có cho đặng?

Hại thay! Lũ quỉ là phần nhiều; nó bày bố ra mỗi nơi một giả cuộc, mà dỗ dành các con.

Vì vậy, Thầy đã nói tiên tri rằng:

Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lộn cùng các con, lại hàng ngày xúi biểu chúng nó cắn xé các con, song Thầy cho các con mặc một bộ thiết giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo-đức của các con.

Ấy vậy Đạo-Đức các con là phương pháp khử trừ quỉ mị lại cũng là phương pháp dìu dắt các con trở lại cùng Thầy. Các con không đạo, thì là tôi tớ quỉ mị... (TNHT Q1, trang 60, 1972)

2.3.5/- Thượng Đế dạy ngày 1-02-1927 (01-01-Đinh-Mão).

Các con... Mừng các con.

Trung, Cư, Tắc; mấy con nhớ đêm nay năm rồi thế nào, còn nay ra thể nào chăng?

Trịnh-thị Ái-Nữ, Hiếu, hai con đã thấy Thầy giữ lời hứa thế nào chăng?

Thầy lập Đạo năm rồi ngày nầy, thì môn-đệ cuả Thầy chỉ có 12 đứa, mà bốn đứa đã vào nơi tay Chúa-Quỉ, chỉ còn lại tám. Trong tám đứa còn lại thì còn một đôi đứa biếng nhác mà không hành Đạo, Thầy hỏi nếu chẳng phải quyền hành Thầy, dầu cho một vị Phật thiệt lớn giáng thế Đi nữa, cũng chưa có phương chi mà độ hơn bốn muôn sanh linh, nhờ tay có 6 đứa môn-đệ trong một năm cho đặng bao giờ…. (TNHT Q1, trang 73, 74; 1972).

Lưu ý: trong 12 vị môn đệ do chính Đức Chí Tôn độ rỗi (đầu năm Bính Dần, 1926) mà 4 vị đã vào tay chúa quỷ, còn lại một đôi vị không rơi vào tay chúa quỷ nhưng biếng nhác không chịu hành đạo … qua đó ta thấy sức cám dỗ và quyền lực của Chúa quỷ mạnh đến dường nào.

3/- Những lời dạy liên quan đến MỘT Đạo Cao Đài.

Trong Lời minh thệ Thượng Đế dạy rõ chỉ có MỘT Đạo Cao Đài do Thượng Đế lập, song song đó cũng dạy thêm bất cứ ai chia phe phân phái trong ĐĐTKPĐ đều là trái với ý muốn của Thượng Đế. Đại Từ Phụ thương nên dạy đủ đường mà môn đệ của Ngài vẫn lầm lạc tin vào Cao Đài giả.

3.1/ Thượng Đế dạy ngày 24-4-1926

Còn cả Môn Đệ, ai cũng như ai, không đặng gây phe, lập đảng; nhược kẻ nào phạm tội, thì THẦY trục xuất ra ngoài, cho khỏi điều rối loạn. (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển quyển 1, trang 46, bản in 1972). 

3.2/- Thượng Đế dạy 14-8-1926.

"Vậy các con khi nghe nói Cao Đài nơi nầy, Cao Đài nơi kia đừng vội tin mà lầm mưu Tà-Mị" (Phổ Cáo Chúng Sanh trang 6, bản in ngày 13-10-1926)

3.3/- Thượng Đế dạy ngày 29-10-1926.

Đ… Q… cả môn đệ Thầy duy biết có một chớ không biết hai; kẻ nào cưu tâm chia phe phân phái là đứa thù nghịch của Thầy. Con hiểu à! (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển quyển 1, trang 47, bản in 1972).

Tra cứu trong đạo sử thì Đ… Q… chính là ngài Trần Đạo Quang, quyền Thượng Chưởng Pháp rồi đắc phong Ngọc Chưởng Pháp.

Năm 1931 Ngài Trần Đạo Quang hiệp với Ngài Phối Sư Thái Ca Thanh (Nguyễn Văn Ca) lập ra chi phái Minh Lý Đạo. Năm 1932 Ngài Trần Đạo Quang tách ra lập thành Minh Chơn Đạo.

 4/- Tạm kết.

Tề Thiên thật chỉ có một, còn Tề Thiên giả thì hằng hà sa số cho nên điều quan trọng là xác định cho được Tề Thiên thật.

Người tìm hiểu Đạo Cao Đài sẽ gặp rất nhiều Đạo Cao Đài; trong đó chỉ có một Đạo Cao Đài của Thượng Đế lập mà có hằng hà sa số Đạo Cao Đài không phải của Thượng Đế lập. Như vậy phải tìm hiểu chính xác căn cước của Đạo Cao Đài do Thượng Đế lập năm 1926 để xác định Cao Đài thật của Thượng Đế.

Căn cước Đạo Cao Đài do Thượng Đế lập có danh xưng đầy đủ 06 chữ Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ nới tắt có 03 chữ là Đạo Cao Đài.

Thầy cho yêu quái lấy danh Thầy mà cám dỗ... nên yêu quái cũng nhập vào cơ bút, giả danh Thượng Đế để dạy lập ra các Đạo Cao Đài khác. Tà quái phải mượn danh Đức Chí Tôn bằng cách đưa ra các bài cơ rằng Thượng Đế dạy họ lập ra các Cơ quan hay Đạo Cao Đài khác với năm 1926. Căn cước của các Đạo Cao Đài do yêu quái lập ra (hay các chi phái) tên đầy đủ có nhiều hơn 06 chữ và nói tắt có nhiều hơn 03 chữ. Nhưng hầu hết các tổ chức Cao Đài giả (chi phái) giấu căn cước thật mà sử dụng căn cước 06 chữ Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ để trên bìa sách.

Trong đó Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý 171B Cống Quỳnh, Sài Gòn là giả mạo nhiều hơn hết. (1)

Hội Thánh Cao Đài bị cốt năm 1983 nên nhơn sanh không có nơi thỉnh giáo về Cao Đài thật. Trong trách nhiệm của một người Đạo Cao Đài đã từng bị khó khăn khi xác định Đạo Cao Đài thật của Thượng Đế trước một rừng kinh sách; Tôi mạo muội tìm hiểu về Lời Minh Thệ để cung cấp một la bàn, một chìa khóa với hy vọng giúp người tìm hiểu về Đạo Cao Đài có phương tiện tối thiểu đế xác định Đạo Cao Đài thật của Thượng Đế lập năm 1926.

Nay kính.

Dallas, ngày 29-7-2015.
Đạo hữu Dương Xuân Lương.
Email: hoabinhchungsong220513@yahoo.com

1/-

 

 Xin mời xem thêm:

https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2018/08/2686-giai-ma-co-ve-vi-thuong-tam-thanh.html#more