Trang

Thứ Ba, 29 tháng 7, 2025

5892. Phản biện nhận định của GS Janet Hoskins về Đức Hộ Pháp kiêm nhiệm Quyền Chưởng Quản Cửu Trùng Đài.

Phản biện nhận định của GS Janet Hoskins về Đức Hộ Pháp kiêm nhiệm Quyền Chưởng Quản Cửu Trùng Đài.

Ngày 20-7-2025.
Dương Xuân Lương.

Đạo Cao Đài gồm hai phần: hữu hình và vô vi đi liền nhau như hình với bóng. Vì vậy, khi nghiên cứu một vấn đề trong Đạo, phải xem xét tổng thể để đảm bảo tính khoa học, khách quan, từ đó mới mang lại hữu ích cho xã hội. Nếu chỉ nhìn từng phần riêng lẻ, kết luận có thể bị sai lệch.

1/- Lời mở đầu. 

Giáo sư Janet Hoskins (Đại Học Nam California, Hoa Kỳ) nghiên cứu về Đạo Cao Đài là việc đáng được trân trọng. Tuy nhiên Bà đã không xem xét việc Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc kiêm nhiệm Quyền Chưởng Quản Cửu Trùng Đài trong tổng thể, vì vậy đã dẫn những nhận định sai lệch.

Mục tiêu phản biện


Dẫn chứng: Đạo Cao Đài có hai hệ thống song song: Hành Chánh Đạo và Chánh Trị Đạo. Pháp Chánh Truyền thuộc về Hành Chánh Đạo, nên tách quyền Giáo Tông và Hộ Pháp. Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh thuộc Chánh Trị Đạo, nên quyền Giáo Tông và Hộ Pháp phải hiệp một. Thượng Đế đã nhìn nhận việc Đức Hộ Pháp kiêm nhiệm Quyền Chưởng Quản Cửu Trùng Đài là đúng với nguyên lý vận hành của Đạo.

Giáo sư Janet Hoskins vận dụng Pháp Chánh Truyền thuộc Hành Chánh Đạo để giải thích việc Đức Hộ Pháp kiêm nhiệm Quyền Chưởng Quản Cửu Trùng Đài bên Chánh Trị Đạo, nhưng điều này là sai, bởi vì không xem xét toàn bộ hệ thống vận hành của Đạo.

2/- Thượng Đế dạy về Hành Chánh Đạo và Chánh Trị Đạo.

Theo sơ đồ tổng thể Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ (ĐĐTKPĐ) nói tắt là Đạo Cao Đài có hai tầng vô vi (Đạo) và hữu hình (Tôn giáo).

2.1/- Hành Chánh Đạo (1926).

Pháp Chánh Truyền là căn bản của Hành Chánh Đạo.

Lời Tựa Pháp Chánh Truyền Chú Giải (PCT CG) bản in 1972: … nên khi mở ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ ĐỘ, Đức CHÍ TÔN đã lập ngay một PHÁP CHÁNH TRUYỀN và TÂN LUẬT để điều hành guồng máy Hành Chánh Đạo, … (hết trích)

… Chú giải:lại muốn tỏ ra rằng: Chức Sắc Hiệp Thiên Đài thật trọng quyền, Ngài mới ban dây sắc lịnh, buộc cả Tín Đồ và cả Chức Sắc Thiên Phong, hễ mỗi Chức Sắc Hiệp Thiên Đài mang dây sắc lịnh vào mình mà hành chánh nơi nào, thì phải tuân mạng, dầu lỗi quấy cũng phải chìu theo, chỉ để cho Hội Thánh có quyền định tội … (trang 82)

Theo Huấn lịnh 59, Chức sắc khi hành chánh phải hội đủ ba yếu tố:

Chức: là các phẩm có trong Pháp Chánh Truyền.

Quyền: là được lịnh Hội Thánh Cao Đài bổ nhiệm làm nhiệm vụ gì, tại địa phương nào. Cấm lấn qua địa phận khác mà hành đạo. (1)

2.2/- Chánh Trị Đạo (1931).

Đức Chí Tôn dạy ngày 23-12-1931, (TNHT Q2, T 188, bản in 1972): … Thầy đã lập hình-thể hữu-vi của Thầy, nghĩa là Hội-Thánh của Đại-Đạo ngày nay rồi thì Thầy cũng phải ban quyền-hành trọn-vẹn của Thầy cho hình-thể ấy, đặng đủ phương tận-độ chúng-sanh, …

 Thầy đã ban quyền-hành Chí-Tôn của Thầy cho hai đứa làm đầu Hội-Thánh là Giáo-Tông cùng Hộ-Pháp. Vậy thì quyền-hành Chí-Tôn của Thầy đặng trọn-vẹn khi Giáo-Tông cùng Hộ-Pháp hiệp một.

Vậy thì từ đây hễ có mạng-lịnh chi đã đủ hai đứa nó hạ-truyền thì các con phải hội đủ nhơn-sanh Hội-Thánh và Thượng-Hội mà xét nét cho cặn-kẽ phân-minh, đặng thi hành phận-sự.

Căn cứ vào lời dạy trên Hội Thánh Cao Đài lập ra Hội Nhơn Sanh, Hội Hội Thánh và Thượng Hội. Theo đó Hội Nhơn Sanh là khởi điểm, quyền của Nhơn Sanh được qui định rõ ràng.

Mỗi hội có thành phần dự hội khác nhau. Mọi việc được bàn định và biểu quyết theo Nội Luật mỗi hội.

Trong Đại Hội Hội Thánh, Chức sắc Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài họp chung với nhau và biểu quyết theo Nội luật. Dây sắc lịnh của Thập Nhị Thời Quân không có hiệu lực trong Chánh Trị Đạo.

Trong Thượng Hội Chức sắc Hiệp Thiên và Cửu Trùng cũng họp chung. Dây Sắc Lịnh của Thượng Sanh, Thượng Phẩm và Hộ Pháp không có hiệu lực trong Chánh Trị Đạo.

Các vị Chức sắc không hành quyền theo địa phương như khi cầm quyền hành chánh mà trở về Tòa Thánh để xây dựng chương trình chung.

Đây là những điểm khác biệt về Chánh Trị Đạo và Hành Chánh Đạo.

Khi Ba Hội bàn định xong rồi dâng lên cho Giáo Tông và Hộ Pháp (Quyền Chí Tôn tại thế); hai vị vào đại điện mật nghị trong 15 phút; sau đó trở ra công bố chấp thuận hay không chấp thuận.

2.3/- Sự tương quan giữa Hành Chánh Đạo và Chánh Trị Đạo.

Chánh Trị Đạo là giai đoạn xây dựng chương trình hành đạo; bắt đầu từ Hội Nhơn Sanh, Hội Hội Thánh, Thượng Hội để từng hội thống nhất. Sau đó dâng lên cho Giáo Tông, Hộ Pháp. Tất cả phải thống nhất nhau mới có được chương trình và công bố.

Hành Chánh Đạo căn cứ vào chương trình đã thống nhất để thực hiện. Khi thực hiện thì vai tuồng của ai nấy thi hành. 

Chánh Trị Đạo và Hành Chánh Đạo như hai mặt của một bàn tay.

2.4/- Lưu ý quan trọng: Đạo Cao Đài có Quyền Vạn Linh, nhưng không có Hội Vạn Linh.

Quyền Vạn Linh thuộc về Ba Hội theo trình tự: Hội Nhơn Sanh, Hội Hội Thánh, và Thượng Hội như đã trình bày.

Hội Vạn Linh: Năm 1933 Ngài Ngọc Trang Thanh tổ chức Hội Vạn Linh với thành phần gồm cả Ba Hội ngồi chung nhau trong phiên họp tại Tòa Thánh Tây Ninh để lật đổ Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt. Về pháp lý trong Đạo Cao Đài không có Hội nào tên là Hội Vạn Linh nên không có luật cho Hội Vạn Linh, vì vậy đó là việc làm sai và gây ra hiểu lầm.

Năm 1934 Ngài Ngọc Trang Thanh hiệp với Ngài Thượng Tương Thanh lập ra Chi phái Ban Chỉnh Đạo, hai Ngài cũng tiếp tục tổ chức Hội Vạn Linh.

3/- Đức Hộ Pháp kiêm nhiệm quyền Chưởng Quản Cửu Trùng Đài.

Theo Đạo sử Đức Hộ Pháp kiêm nhiệm Chưởng Quản Cửu Trùng Đài nhiều lần.

3.1/- Lần thứ nhất Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt giao.

Tờ Giao Quyền số 24, ngày 29-01-1934.

1/- Tôi đã nhứt định an dưỡng một ít lâu thì cả trách nhiệm Quyền Giáo Tông của Tôi đều tạm giao cho Hiền Hữu. Vậy từ đây Hiền Hữu đã cầm trọn hai quyền Đạo nơi tay, thì việc chi cũng do Hiền Hữu tự quyền định liệu rồi ban mạng lịnh cho toàn đạo tuân cứ.

Ngày 22-2-1934 Đức Hộ Pháp giao trả quyền hành Giáo Tông lại cho Ngài Thượng Trung Nhựt. (2)

3.2/- Lần thứ hai Hội Thánh công cử.

Ngày 19-11-1934 Đức Quyền Giáo Tông đăng tiên. Sáng ngày 02-12-1934 Liên Đài nhập bửu tháp. Chiều cùng ngày Hội Thánh mở phiên họp công cử Đức Hộ Pháp kiêm nhiệm Quyền Chưởng Quản Cửu Trùng Đài.

Châu tri số 21, ngày 16-12-1934 viết.

Chiếu theo tờ vi bằng kỳ nhóm Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài tại Toà Thánh ngày 26-10- Giáp Tuất (dl:02-12-1934) thì quyền hành Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài đều giao cho Đức Hộ Pháp cầm, ấy là tuân theo thể pháp định cho Hộ Pháp phải kiêm quyền hành Giáo Tông khi Giáo Tông qui vị, cũng như Giáo Tông phải kiêm quyền hành Hộ Pháp khi Hộ Pháp qui vị.

Sự xây trở trong nền Chánh Trị của Đạo chẳng qua là vì Thiên Thơ tiền định, … (Hết trích) (3)

3.3/- Thượng Đế nhìn nhận.

Tháng 8-1935 Thượng Đế ban Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo cho Hội Thánh Cao Đài. Thượng Đế cũng dạy lập Bàn Thờ Hộ Pháp với 11 lễ phẩm.

Đức Hộ Pháp được lịnh viết Kinh Giải Oan (phần Thiên Đạo); viết 10 bài kinh trong phần Thế Đạo. Cộng chung 11 bài, tương ứng với 11 lễ phẩm trên Bàn Thờ Hộ Pháp. (4)

3.4/- Đức Lý Giáo Tông nhìn nhận.

TNHT Q2, trang 200, bản 1972. Ngày 13-11-1935.

(Hộ-Pháp bạch: Thiên-thơ đã đổi, đệ-tử xin giao quyền hành của Quyền-Giáo-Tông lại cho Ngài đặng Ngài đủ oai cầm Thiên-thơ vững chặt.)

- Cuời, Lão e cho, một là Lão đã cho, không lẽ lấy lại, hai là hành-pháp thì dễ, hành-hình thì khó, không có nửa quyền trị thế của Lão nơi tay thì Hộ-Pháp có thế nào điều hành Hội-Thánh cho đặng. Ấy vậy cứ để y. (Hết trích)

3.5/- Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh nhìn nhận.

Năm 1937 Hội Thánh Cao Đài tổ chức Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh. Hội Quyền Vạn Linh tín nhiệm việc Đức Hộ Pháp cầm quyền Chí Tôn tại thế.

Căn cứ vào nguyện vọng của Ba Hội lập Quyền Vạn Linh (1937), sang năm 1938 Hội Thánh Cao Đài lập ra Đạo Luật Mậu Dần (1938), định hình 04 cơ quan Chánh Trị Đạo là: Hành Chánh, Phước Thiện, Phổ Tế và Tòa Đạo.

3.6/- Các chi phái gián tiếp nhìn nhận.

Trong khi cầm Quyền Chí Tôn tại thế Đức Hộ Pháp đã:

Ban hành Luật Lệ Chung Các Hội, Hội Nhơn Sanh Nội luật, Hội Thánh Nội Luật (1934).

Lập ra phẩm Luật Sự Hiệp Thiên Đài (1935).

Viết 11 bài kinh trong Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo.

Phê duyệt Đạo Luật Mậu Dần (1938).

Nhiều chi phái đã sao chép Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo cũng như các điều luật trên đây về sử dụng; đó là cách gián tiếp nhìn nhận Đức Hộ Pháp cầm Quyền Chí Tôn tại thế.

Sáu dữ kiện liệt kê trên đây là chắc chắn và kiểm chứng được.

4/- Giáo sư Janet Hoskins viết.

Tiếng Việt: Con Người và Khả Năng Sáng Tạo Thần Học của Phạm Công Tắc, trang 09: Làm sao một tôn giáo được thành lập với hai nhánh tách rời “Cửu Trùng Đài” và “Hiệp Thiên Đài” lại chỉ được một người quản lý? Câu trả lời cho câu hỏi này được ông Tắc trình bày trong một bài dẫn giải có kết cấu khôn khéo trong Pháp Chánh Truyền, giải thích về biểu trưng của y phục Hộ Pháp được dùng để “thể hiện” sự liên hiệp của những nhánh khác nhau được phong chức từ trước trong các đạo nghị định ban hành năm 1926. (5)

Tiếng Anh: A Posthumous Return from Exile: The Legacy of an Anticolonial Religious Leader in Today’s Vietnam, trang 230:

How could a religion founded on the separation of the “executive” branch (Cửu Trùng Đài) and the “legislative” branch (Hiệp Thiên Đài) be administered by a single person? The answer is presented by Phạm Công Tắc in a cleverly constructed commentary to the Religious Constitution, n in which exegesis of the symbolism of the Hộ Pháp’s costume is used to “demonstrate” that this fusion of different branches was pre-ordained by the divine decrees issued in 1926. (6)

4.1/- Bốn cái sai của Giáo sư.

Sai một: Giáo sư viết: Làm sao một tôn giáo được thành lập với hai nhánh tách rời “Cửu Trùng Đài” và “Hiệp Thiên Đài” lại chỉ được một người quản lý?

Đó là đặt vấn đề Đức Hộ Pháp kiêm nhiệm Chưởng Quản Cửu Trùng Đài. Sau đó Giáo sư dùng nội dung từ Pháp Chánh Truyền Chú Giải để giải thích; Giáo sư đã nhầm lẫn giữa Hành Chánh Đạo và Chánh Trị Đạo.

Sai hai: Đức Hộ Pháp chú giải Pháp Chánh Truyền năm 1931, Đức Hộ Pháp không hề dùng thiên phục để giải thích việc Đức Ngài kiêm nhiệm Chưởng Quản Cửu Trùng Đài năm 1934. Giáo sư đã tự tìm hiểu qua thiên phục của Đức Hộ Pháp trong Pháp Chánh Truyền Chú Giải (là hướng tìm hiểu sai) để giải thích việc Đức Hộ Pháp kiêm nhiệm Chưởng Quản Cửu Trùng Đài rồi gán điều sai đó cho Đức Hộ Pháp. Đó là gán chữ vào miệng Đức Hộ Pháp.

Sai ba: Việc phong chức phẩm năm 1926 là do Pháp Chánh Truyền, không phải do Đạo Nghị Định. Giáo sư đã hiểu lầm Pháp Chánh Truyền là Đạo Nghị Định.

Sai bốn: Giáo sư nhận định việc Đức Hộ Pháp kiêm nhiệm Chưởng Quản Cửu Trùng Đài nhưng chưa xem xét đầy đủ bằng chứng pháp lý từ Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng. Trong khi đây là phần pháp lý quan trọng nhất trong Đạo Cao Đài. Do vậy Giáo sư không biết việc Đức Hộ Pháp cầm quyền Chí Tôn tại thế đã được Đức Chí Tôn nhìn nhận.

4.2/- Hậu quả.

Giáo sư Janet Hoskins đang giảng dạy tại Đại Học Nam California nên những điều sai trên đây đã được Bà truyền đạt cho sinh viên, trình bày trong các hội thảo quốc tế.

Hậu quả là là các thành phần trên sẽ không phân biệt được Hành Chánh Đạo và Chánh Trị Đạo, hiểu sai về lịch sử, pháp lý và cách vận hành của Đạo Cao Đài. Hiểu sai việc Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc kiêm nhiệm Quyền Chưởng Quản Cửu Trùng Đài, việc Giáo sư gán chữ vào miệng Đức Hộ Pháp làm cho các thành phần trên hiểu sai về Đức Hộ Pháp nghiêm trọng hơn. Các thành phần trên cũng sẽ không hiểu được Thượng Đế đã nhìn nhận Đức Hộ Pháp đã làm đúng.

 Những điều sai trên sẽ được nhân rộng ra theo hiệu ứng Dĩ hư truyền hư tạo ra tác hại lâu dài.

   5/- Kết luận.

Hội Thánh Cao Đài công cử Đức Hộ Pháp kiêm nhiệm Quyền Chưởng Quản Cửu Trùng Đài có nguồn gốc từ Chánh Trị Đạo. Sự kiêm nhiệm đã được Đức Thượng Đế, Đức Lý Giáo Tông, Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh năm 1937 công nhận.

Sự kiêm nhiệm này giúp Đức Hộ Pháp có đủ quyền pháp để duy trì ổn định Đạo trước những biến động nội bộ và áp lực từ chính quyền thực dân Pháp. Đặc biệt là hướng dẫn Hội Thánh và Nhơn Sanh xây dựng những thể pháp căn bản, vững chắc cho ĐĐTKPĐ.

Trong nghiên cứu của Giáo sư Janet Hoskins, có sự nhầm lẫn giữa Hành Chánh Đạo và Chánh Trị Đạo, dẫn đến nhận định chưa chính xác về việc Đức Hộ Pháp kiêm nhiệm Quyền Chưởng Quản Cửu Trùng Đài. Vận dụng Pháp Chánh Truyền Chú Giải để giải thích vấn đề nầy là sai. Bài nghiên cứu chưa xem xét đến việc nhìn nhận của Đức Chí Tôn, Đức Lý Giáo Tông và sự tín nhiệm của Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh. Do đó Giáo sư đã viết sai với pháp lý, giáo lý và lịch sử Đạo Cao Đài.

Tín đồ Cao Đài có trách nhiệm gìn giữ và làm rõ bản sắc trong lành của ĐĐTKPĐ. Tôi và hiền muội Victoria sẵn sàng trả lời, tham gia hội luận, hội thảo để làm rõ sự thật nầy./.

Dương Xuân Lương.
Email:
hoabinhchungsong220313@yahoo.com

Các chú thích.

1/- Link: Khi ra lịnh phải có con dấu đóng lên văn kiện.

https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2021/11/3416-huan-linh-09-nam-1955-buu-boi-xay.html#more

2/- https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2025/02/5456-to-giao-quyen-29-01-1934-vi-tinh.html#more

3/- https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2025/02/5644-chau-tri-21-hoi-thanh-cong-cu-uc.html#more

4/- https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2024/11/5485-vntb-ton-tan-bang-quyen-trong-ao.html#more

5/- https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2025/01/5624-con-nguoi-va-kha-nang-sang-tao.html#more

6/- https://englishkyoto-seas.org/wp-content/uploads/010202.pdf