Thủ tướng và cái giá của sự 'ngạo mạn'?
18
tháng 10 2012.
BBC.
Việt
Nam của năm 2012 là đất nước chìm trong khối nợ xấu khổng lồ, bắt nguồn từ hệ
thống ngân hàng, khối quốc doanh yếu kém, những doanh nghiệp tư nhân thoi thóp
vì thiếu vốn và sự thao túng nền kinh tế của các nhóm lợi ích.
Trong bối cảnh đó, những năm qua nhiều ý kiến chỉ trích đã
hướng về phía thủ tướng đương nhiệm, ông Nguyễn Tấn Dũng vì quản lý lỏng lẻo và
chủ nghĩa bè phái, với cao trào là Hội nghị Trung ương 6 vừa bế mạc ngày 15/10.
Bài viết nhìn lại về một vài dấu ấn của ông lên nền kinh tế
Việt Nam từ lúc nhậm chức hồi năm 2006.
“Thủ tướng hiện đại”
Từ góc nhìn của giáo sư Carl Thayer, Học viện Quốc phòng Úc,
ông Dũng là “Thủ tướng hiện đại đầu tiên của Việt Nam”.
Là người mà Thayer gọi là “kinh tế gia theo chủ nghĩa dân
tộc”, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã dẫn đầu trong việc giám sát tăng trưởng kinh
tế Việt Nam kể từ năm 2006 và là người lãnh đạo cao cấp trong việc lèo lái và
thỏa thuận với các chính khách và nhà đầu tư nước ngoài.
Ngay từ lúc nhậm chức, ưu tiên hàng đầu của ông là hỗ trợ
xuất khẩu tài nguyên năng lượng, nông nghiệp, lâm nghiệp, các sản phẩm hải sản
và may mặc; ngoài ra còn có phát triển những nguồn tài nguyên năng lượng đa
dạng để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ví dụ như thủy năng và năng lượng hạt nhân.
Ngoài ra, việc đầu tư vào những công trình như nhà máy lọc
dầu Dung Quất của chính phủ cho thấy xu hướng muốn tách dần ra khỏi việc xuất
khẩu tài nguyên dạng thô bằng cách trang bị cho kinh tế nội địa khả năng chế
biến trước khi xuất khẩu nhằm nâng cao vị trí của Việt Nam trên chuỗi giá trị
toàn cầu.
Nhận xét về những thành tựu nổi bật trong nhiệm kỳ của thủ
tướng, giáo sư Carl Thayer nói: "Khi Việt Nam phải gánh chịu khủng hoảng
hồi năm 2008, thủ tướng đã đề xuất và thực hiện gói kích cầu để tạo một lá chắn
khá tốt cho Việt Nam."
Một ý kiến khác từ chuyên gia Châu Á của hãng phân tích
ONDD, ông Raphael Cecchi thì cho rằng "Nghị quyết số 11 của chính phủ vào
năm ngoái đã giúp ổn định kinh tế vĩ mô đáng kể, kiềm chế thành công lạm
phát".
'Ngạo mạn'
Image
captionHàng triệu người bị ảnh hưởng bởi lạm phát và kinh tế yếu kém trong vài
năm qua.
Là "một thủ tướng nhiều quyền lực nhất trong lịch sử
Việt Nam và là người theo đuổi chính sách tăng trưởng nóng", tuy nhiên,
“điểm yếu lớn nhất của ông Dũng là sự ngạo mạn và thiếu khả năng lắng nghe
những ý kiến quan trọng,” giáo sư Carl Thayer bình luận.
Để giúp tiến hành cải cách kinh tế, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt
đã thành lập Tổ chuyên gia tư vấn về cải cách kinh tế và hành chính. Đến khi
thủ tướng Phan Văn Khải kế nhiệm, ông đưa tổ chuyên gia này lên thành Ban
nghiên cứu về kinh tế đối ngoại của Thủ tướng Chính phủ.
Thế nhưng ngay khi nhậm chức, ông Dũng đã giải thể ban
nghiên cứu này qua Quyết định số 1008/QĐ-TTg (ban hành ngày 28/7/2006).
“Ông Dũng đã loại bỏ đội ngũ cố vấn của thế hệ đi trước và
thay vào đó bằng một mạng lưới bè phái của riêng mình” – Giáo sư Carl Thayer
nhận xét.
Sự ngạo mạn này còn được cho là thể hiện qua cách ông đề bạt
nhân sự.
“Chỉ cần nhìn cách thủ tướng đề bạt người nhà và những người
thân cận vào các vị trí quan trọng trong bộ máy Nhà nước và các tập đoàn, tổng
công ty Nhà nước cũng đủ thấy ông tự tin thế nào vào sức mạnh vây cánh của
mình.” Một người có quan hệ cấp cao trong bộ máy Đảng Cộng sản bình luận với
BBC.
“Thực ra ngay từ lúc đầu của Hội nghị Trung ương, những
người trong cuộc đều biết rằng cả ông và những người thân tín của ông trong
Đảng sẽ không mất chức. Tin đồn rằng thủ tướng bị cách chức chứng tỏ dư luận
vẫn còn quá ngây thơ”, người muốn ẩn danh này nói thêm.
Thói quen bỏ ngoài tai những lời khuyên can đã trở thành một
điều được nói đến thường xuyên của chính phủ thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, trong
đó có những lời khuyên can về sự bành trướng của mô hình Tập đoàn Nhà nước,
những đầu tư công thiếu hiệu quả, làm thâm hụt vốn, ảnh hưởng môi trường cũng
như sự bùng nổ của tăng trưởng tín dụng từ những kinh tế gia, nhà khoa học
trong và ngoài nước cũng như các lãnh đạo và cựu lãnh đạo quốc gia mà tiêu biểu
có tướng Võ Nguyên Giáp, cựu phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình.
Tín đồ của tăng trưởng nóng
Image
captionÔng Dũng có tham vọng biến Vinashin thành tập đoàn mạnh cấp khu vực.
Theo Raphael Cecchi, "sai lầm lớn nhất của Thủ tướng
Dũng là đã theo đuổi tăng trưởng bằng mọi giá, lấy trọng tâm là khối quốc doanh
trong lúc nền kinh tế đã chứng kiến tốc độ tăng trưởng tín dụng cao nhất khu
vực trong suốt một thập niên qua."
Không
ít các ý kiến cho rằng với tham vọng tăng trưởng thần kỳ, việc ông Dũng xây
dựng các tập đoàn Nhà nước lấy ý tưởng từ mô hình Chaebol của Nam Hàn để
trang bị cho nền kinh tế những 'cú đấm thép' là không có gì đáng ngạc nhiên.
Tương tự với Chaebol, các tập đoàn Nhà nước của thủ tướng
được ưu đãi những khối tín dụng khổng lồ, được đảm bảo từ phía chính phủ. Nếu
tăng trưởng tín dụng trong những năm 90 chỉ có 20% thì đến năm 2010, mức này
lên đến 136%. Tín dụng chủ yếu được bơm vào các doanh nghiệp Nhà nước và các
thế lực đầu cơ chứng khoán, bất động sản.
Tuy nhiên khác với Chaebol, các tập đoàn Nhà nước Việt Nam
không được hình thành qua quá trình tích tụ vốn, không đủ sức cạnh tranh trên
thị trường quốc tế và không những không thay thế được nhập khẩu mà còn đẩy cán
cân thương mại sang nhập siêu khi nhập khẩu quá nhiều vật liệu.
Không những thế, quyết định cho phép các doanh nghiệp nhà
nước đầu tư đa ngành trong phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
năm 2006 – 2010 kèm theo sự quản lý yếu kém của thủ tướng đã tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp này lạm dụng nguồn cung cấp tín dụng dồi dào để phát triển đa
ngành, lũng đoạn nền kinh tế nội địa với các công ty con làm ăn thua lỗ, khiến
70% nợ xấu trong tổng 200 nghìn tỷ nợ xấu tại các ngân hàng thuộc về khối quốc
doanh.
Điểm
yếu lớn nhất của ông Dũng là sự ngạo mạn và thiếu khả năng lắng nghe những ý
kiến quan trọngGiáo sư Carl Thayer, học viện quốc phòng Úc
Thu hút vốn đầu tư và vay vốn lãi suất thấp từ Trung Quốc để
khắc phục thâm hụt mậu dịch là một phần khác trong chiến lược tăng trưởng của
thủ tướng; tuy nhiên điều này không những gây phản ứng mạnh mẽ từ dư luận trong
bối cảnh tranh chấp lãnh hải trên biển Đông giữa hai nước mà còn khiến Việt Nam
ngày càng phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc.
Một ví dụ như trong 4 tháng đầu năm 2011, nhập siêu Việt Nam
là gần 4,9 tỷ đôla, trong đó riêng nhập siêu từ Trung Quốc chiếm gần 4 tỷ đôla.
Nhập siêu với Trung Quốc dưới thời thủ tướng Dũng cao hơn
hẳn những người tiền nhiệm; riêng trong năm 2010 là ở mức 12,7 tỷ đôla , cao
gấp 5 lần mức 2,67 tỷ đôla năm 2005 trong nhiệm kỳ của thủ tướng Phan Văn Khải.
Sự nhập siêu này được Trung tâm nghiên cứu kinh tế và Chính
sách VEPR, đại học quốc gia Hà Nội lý giải là dưới thời thủ tướng Dũng, có đến
90% các dự án lớn, chủ yếu là công nghiệp thượng nguồn của các tập đoàn kinh tế
Việt Nam trụ cột với giá trị trúng thầu từ hàng trăm triệu đến hàng tỷ đôla có
nhà thầu là Trung Quốc.
Điều đáng chú ý ở đây, là các nhà thầu này thường chỉ sử
dụng lao động và thiết bị đem từ Trung Quốc sang, dẫn đến việc Việt Nam không
được hưởng chút lợi ích nào về lao động việc làm trong các thương vụ với Trung
Quốc. Trong khi đó, đầu tư nước ngoài (FDI) từ Trung Quốc chỉ chiếm 1,5% tổng
FDI của Việt Nam.
Để bù đắp cho sai lầm trong chính sách mậu dịch với Trung
Quốc, chính phủ thủ tướng Dũng đã phải tìm kiếm những khoản FDI khác từ nước
này để cân bằng cán cân thương mại, bất chấp những quan ngại về sự phá hoại môi
trường và an ninh quốc phòng.
Image
captionTăng trưởng tín dụng của Việt Nam so với khu vực qua các năm
Dự án Bauxite Tây Nguyên mà tác giả David Pilling trong bài viết
đăng ngày 6/5/2009 trên Financial Times gọi là sự 'triều cống' của Việt Nam để
đổi lại khoản đầu tư 15 tỷ đôla nhằm giải quyết 11 tỷ đôla nhập siêu năm đó là
một trong những dự án như vậy.
Để đảm bảo tăng trưởng, chính phủ Nguyễn Tấn Dũng còn phải
chỉ đạo thu hồi đất nông nghiệp cho các dự án biệt thự, sân golf, công nghiệp.
Nhiều vụ trong số này đã trở thành cưỡng chế bạo lực, dẫn
đến những vụ như Văn Giang hồi tháng Tư năm nay. Điều này khá giống với tình
hình tại Trung Quốc trong bản báo cáo mới nhất của Ân xá Quốc tế.
Chỉ tính trong 5 năm từ 2006-2010, cả Việt Nam đã mất khoảng
200 nghìn ha đất cho các dự án công nghiệp, sân golf, biệt thự, dẫn đến gần 2,5
triệu lao động mất việc và người nông dân có 3-4 tháng nông nhàn mỗi năm, theo
số liệu của Bộ Lao động Thương binh Xã hội.
Lạm phát "quán quân" khu
vực
Image
captionBất ổn vĩ mô đã kéo theo biến động trong khu vực ngân hàng Việt Nam
Không có nước nào trong khu vực hoặc thậm chí có điều kiện
tương tự mà lạm phát liên tục cao hơn tăng trưởng như Việt Nam những năm qua
Hồi tháng 10/2007, trả lời báo chí trong nước, ông Nguyễn
Sinh Hùng (lúc đó là phó thủ tướng) tự tin khẳng định “chỉ tiêu tăng trưởng 9%
trong năm 2008 là khiêm tốn”. Thậm chí ông cho rằng trong điều kiện thuận lợi,
khả năng tăng trưởng lên đến hai con số là hoàn toàn có thể.
Có lẽ lúc đó ông Hùng đã không lường trước rằng, thứ duy
nhất tăng lên hai con số năm 2008 là ... lạm phát.
Lạm phát năm 2007-2008 bùng nổ vì nhiều lý do, trong đó có
sự tăng mạnh của mức lương tối thiểu, gia tăng giá cả của hàng hóa quốc tế và
việc luồng đầu tư nước ngoài đổ vào ồ ạt sau khi Việt Nam gia nhập WTO cuối năm
2006 mà không có chính sách kiểm soát; kèm theo chính sách tiền tệ lỏng lẻo,
thiếu linh hoạt cũng như tỷ giá cứng nhắc.
"Việt
Nam của năm 2012 là nơi của một chính phủ đưa ra quyết định xây dựng những công
trình ở những vị trí kỳ cục"Geoffrey Cain, cây bút trên Foreign Policy
Ngân hàng Nhà nước lúc đó phải bơm tiền đồng vào nền kinh tế
để giảm nhẹ áp lực tăng tỷ giá, làm trầm trọng hơn tình trạng lạm phát, đưa lạm
phát tháng Tám năm 2008 lên mức 28,2%, cao nhất kể từ năm 1993, theo số liệu từ
Tổng cục thống kê.
Không những thế, những chi tiêu công quá mức (chiếm khoảng
20% GDP, theo báo cáo của Viện Nghiên cứu Kinh tế Trung ương) thiếu hiệu quả,
không tạo ra sản phẩm tương ứng, không tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho nền
kinh tế cũng như các khoản vay theo quan hệ và sự độc quyền giá xăng, điện
khiến lạm phát như quả bom chỉ chực bùng nổ và thực tế đã tiếp tục leo lên
23,2%, mức cao nhất Châu Á trong tháng Tám năm 2011.
Cũng kể từ năm 2008, mặc dù triển vọng tăng trưởng vẫn bị hạ
thường xuyên nhưng tăng trưởng kinh tế Việt Nam vẫn liên tục trượt mốc chỉ
tiêu, với tăng trưởng trượt dốc từ mức 8,2% năm 2006 xuống còn 5,2% trong năm
2012 theo báo cáo tháng Mười của Ngân hàng Thế giới.
Đầu tư để kiếm lỗ?
Image
captionThủ tướng Dũng trong những phút cuối diễn văn bế mạc Hội nghị Trung ương
6 của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng
Một trong những dấu ấn của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lên
kinh tế Việt Nam là việc hướng đầu tư công vào những dự án hoặc có rất ít, hoặc
không có chút giá trị kinh tế nào trong khi cả người dân lẫn doanh nghiệp trong
nước và nước ngoài đều than vãn về hạn chế cơ sở hạ tầng của Việt Nam.
Chỉ số được sử dụng rộng rãi trong việc đo đạt hiểu quả đầu
tư là Hệ số sử dụng vốn đầu tư (ICOR). Mục đích của hệ số này là tính ra phải
mất bao nhiêu đồng vốn đầu tư mới tạo ra một đồng tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Chỉ số ICOR càng cao đồng nghĩa với vốn đầu tư được sử dụng kém hiệu quả.
Nếu báo cáo của Tổng cục Thống kê cho thấy ICOR dưới thời cố
thủ tướng Võ Văn Kiệt giai đoạn 1991-1995 chỉ là 3,5 và tăng lên 3,9 trong
nhiệm kỳ của thủ tướng Phan Văn Khải thì dưới thời thủ tướng Dũng, hệ số ICOR
tăng vọt lên 6,15 trong giai đoạn 2007-2008 và đến năm 2009 thì lên đến 8.
Dù con số này đến năm 2010 đã giảm xuống mức 6,9 nhưng vẫn
cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực.
Đáng chú ý hơn, ICOR của khu vực Nhà nước năm 2010 là 10,2
lần, cao gấp rưỡi hệ số chung trong khi đó, ICOR của khu vực ngoài Nhà nước năm
2010 là 3,9 lần, thấp hơn hệ số 4,9 lần của năm 2006, chứng tỏ sự vượt trội
trong hiệu quả đầu tư.
Ngoài ra báo cáo của sứ quán Anh hồi tháng Sáu cũng chỉ ra
khoảng cách năng suất lao động của các doanh nghiệp Nhà nước so với cả khu vực
doanh nghiệp nói chung tăng ngày càng lớn qua thời gian, từ 1:4 năm 2000 đến
1:8 năm 2008.
Chỉ cần lấy ví dụ những công trình mà thủ tướng đích tay ký
như cảng Vân Phong, với tổng mức đầu tư 3,6 tỷ đôla và lễ khởi công hoành tráng
tốn kém hơn 4,144 nghìn tỷ đồng giờ chỉ còn lại "114 cọc thép và một xà
lan toàn những máy móc rỉ" (theo AP); những câu chuyện như sự tiêu phí 4
tỷ đôla của Vinashin hay các dự án bỏ hoang của Vinaconex thì cũng dễ hiểu tại
sao cây bút Geoffrey Cain lại phải thốt lên "Việt Nam của năm 2012 là nơi
có chính phủ đưa ra quyết định xây dựng những công trình ở những vị trí kỳ
cục" trong bài viết trên trang Foreign Policy hồi tháng Bảy.
Sau những thành tựu
Image
captionNỗ lực làm trong sạch bộ máy Đảng và Nhà nước của ông Nguyễn Phú Trọng
được một số người đánh giá cao.
Trong những năm gần đây, Việt Nam liên tục được “phong tặng”
các danh hiệu nhất nhì bởi các tổ chức quốc tế.
Về kinh tế, Việt Nam là nước thứ nhì ASEAN từ dưới đếm lên
trong năng lực cạnh tranh toàn cầu, theo báo cáo tháng Chín của Diễn đàn kinh
tế thế giới (WEF); tụt tổng cộng 16 bậc trong hai lần xếp hạng gần nhất của tổ
chức này.
Báo cáo hồi tháng Sáu năm nay của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)
cũng chỉ ra rõ những cái 'nhất' khác của kinh tế Việt Nam như lạm phát, tăng
trưởng tín dụng, lãi suất và tỷ lệ nợ xấu cao nhất Châu Á những năm qua.
Đó là chưa kể đến những danh hiệu phi kinh tế khác như
"nước bảo vệ động vật hoang dã tồi nhất" của Quỹ bảo vệ thiên nhiên
thế giới (WFF) hay vị trí 172/179 trong xếp hạng những nước thù địch tự do
Internet của Tổ chứng phóng viên không biên giới (RSF).
Những sai phạm nghiêm trọng trong điều hành của ông Dũng
được cho là lý do khiến Trung ương Đảng phải họp kín sớm hơn dự đoán hồi đầu
tháng Mười.
Trả lời về kết quả Hội nghị Trung ương Sáu sau buổi bế mạc ngày
15/10, giáo sư Carl Thayer nói:
Nguyễn
Xuân Phúc là ứng cử viên khá sáng giá, vì không những là người được ông Dũng
chọn đầu tiên mà còn là phó thủ tướng duy nhất nằm trong Bộ Chính trịGiáo sư
Carl Thayer
"Trên thực tế, Thủ tướng Dũng đã được Trung ương trao
cho một nghị trình để thực hiện. Và hội nghị trung ương lần tiếp theo, rất
có thể sẽ mở ra vào tháng 12 hoặc đầu năm tới.
Và từ nay tới đó, Thủ tướng Dũng phải làm tốt, căn cứ vào
những gì ông ta đã hứa khi tự phê. Sẽ có nỗ lực phối hợp để xác định rõ và xử
những ai bị cho là chịu trách nhiệm về Vinashin và Vinalines. Ban Kinh tế
Trung ương sẽ họp để tư vấn cho Đảng qua các phân tích nhằm buộc ông Dũng phải
có trách nhiệm về hành vi của mình.
Bộ Chính trị cũng sẽ phải ra được một kế hoạch hành động
mang tính phối hợp nhằm giải quyết các điều yếu kém đã nêu ra ở hội nghị trung
ương lần này."
Nhận định về người có khả năng kế nhiệm Thủ tướng Dũng, ông
Thayer cho rằng phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc là ứng cử viên khá sáng giá, vì
không những là người được ông Dũng chọn đầu tiên mà còn là phó thủ tướng duy
nhất nằm trong Bộ chính trị.
“Nhiều người cho rằng phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc là
người khá trung lập trong quan hệ trong Đảng cộng sản. Tuy nhiên thực tế là ông
Phúc là người rất thân tín của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng,” nguồn tin giấu tên
có quan hệ cấp cao trong Đảng nói.
“Trong mắt ông Dũng, ông Phúc là người 'dễ bảo' và có đường
lối ôn hòa.”