KNS TÁN THÀNH &KÝ TÊN...
Bản tuyên bố
chung về dự thảo Luật tôn giáo ở Việt Nam
04.11.15.
Việt Nam
Thời Báo.
Dân chủ.
(VNTB) Chúng tôi, các tổ chức xã hội dân
sự ký tên dưới đây, cho rằng Dự Thảo Luật Tín Ngưỡng, Tôn Giáo (Dự luật) của Việt
Nam đang đi ngược lại với quyền tự do tôn giáo hoặc niềm tin. Chúng tôi khuyến
nghị chính phủ Việt Nam nên tu chỉnh toàn bộ Dự luật này để thực hiện đúng đắn
các nghĩa vụ của Việt Nam đối với luật nhân quyền quốc tế. Trong việc tu chỉnh
Dự luật chính phủ cần mời gọi sự tham gia góp ý của các cộng đồng tôn giáo hoặc
có niềm tin tại Việt Nam, dù họ đã được công nhận hay còn độc lập, và các
chuyên gia về luật nhân quyền trong đó có Báo cáo viên Đặc biệt của Liên Hiệp
Quốc về Quyền Tự do Tôn giáo hoặc Niềm tin.
Theo
phiên bản hiện nay, tự do tôn giáo hoặc niềm tin đã bị Dự luật hạn chế ở quá mức
cho phép của những luật nhân quyền quốc tế có tính cưỡng hành đối với Việt
Nam.
Điều 18 khoản 3 của Công Ước
Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR), mà Việt Nam là quốc gia thành
viên, đòi hỏi chính quyền phải bảo đảm rằng quyền tự do biểu thị tôn giáo hay
niềm tin chỉ có thể bị giới hạn bằng luật, trong trường hợp cần thiết và ở mức
độ chừng mực để bảo vệ an toàn công cộng, trật tự công cộng, y tế công cộng, đạo
lý, hay những quyền và tự do căn bản của người khác.
|
Tự do tôn giáo hoặc niềm tin
đã bị Dự luật hạn chế ở quá mức cho phép của những luật nhân quyền quốc tế có
tính cưỡng hành đối với Việt Nam.
|
Mặc dù Dự luật có ý muốn
công nhận “quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo” và tuyên bố rằng “nhà nước bảo đảm
việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người,” nhưng một khi
được thông qua thì các điều khoản trong Dự luật sẽ có thể trở thành công cụ kiểm
soát hữu hiệu và được dùng để giới hạn quá đáng việc thực hành quyền tự do tôn
giáo hoặc niềm tin ở Việt Nam và như thế sẽ kéo dài tình trạng đàn áp hiện tại.
Sau chuyến viếng thăm Việt
Nam vào tháng 7 năm 2014, Ts Heiner Bielefeldt, Báo cáo viên Đặc biệt của Liên
Hiệp Quốc về Tự do Tôn giáo hoặc Niềm tin, đã tóm tắt nhận xét của ông về thực
trạng tôn giáo hoặc niềm tin ở Việt Nam như sau: “Tuy rằng đời sống tôn
giáo và tính đa dạng về tôn giáo đang là một thực tế ở Việt Nam hiện nay, nhưng
quyền tự trị của các cộng đồng có tôn giáo hoặc niềm tin độc lập, nghĩa là các
cộng đồng không được nhà nước công nhận, vẫn bị hạn chế và những sinh hoạt của
họ vẫn không được an toàn, mỗi khi mà quyền tự do tôn giáo hoặc niềm tin của họ
bị vi phạm trầm trọng bởi các biện pháp theo dõi thường xuyên, hăm dọa, sách
nhiễu và đàn áp."
Chúng tôi xin nêu lên một
số quan ngại về Dự luật có thể được xem là tiêu biểu cho nhiều điều khoản đi
ngược với quy định về nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tự do tôn giáo
hoặc niềm tin như được ghi trong ICCPR :
I. Điều
kiện đăng ký khó khăn
Dự luật đưa ra nhiều điều
kiện khó khăn cho việc đăng ký “tổ chức tôn giáo”.
Cơ chế “Xin- Cho” xuyên suốt
qua các điều khoản của dự luật cho thấy có một sự hiểu lầm trầm trọng về vai
trò của chính quyền trong việc bảo vệ quyền tự do tôn giáo hoặc niềm tin theo
luật pháp quốc tế. Như Báo cáo viên Đặc biệt của LHQ về Tự do Tôn giáo hoặc Niềm
đã ghi trong bản phúc trình nêu trên, việc thực thi quyền tự do tôn giáo hoặc
niềm tin là một quyền phổ quát và quyền này “không thể để bị phụ thuộc vào bất
cứ hành động phê chuẩn về mặt hành chính nào”.
II. Chính
quyền kiểm soát và can thiệp quá đáng vào sinh hoạt nội bộ của tổ chức tôn giáo
Dự luật có nhiều điều khoản
mà một khi thông qua sẽ cho phép chính quyền kiểm soát và can thiệp một cách
quá đáng vào “sinh hoạt và việc điều hành nội bộ” của “các tổ chức tôn
giáo”.
Việc can thiệp và kiểm
soát sẽ được tổ chức thông qua những người lãnh đạo, phương pháp và nội dung
đào tạo về tôn giáo đã được chính quyền chuần y, cũng như đòi hỏi vô lý là phải
thông báo cho chính quyền về những thay đổi về mặt tổ chức thí dụ như về nhân sự
và hiến chương hoặc điều lệ. Ngoài ra, việc bắt buộc phải xem môn lịch sử và luật
Việt Nam là một môn học chính khóa trong giáo trình sẽ cho phép chính quyền can
thiệp vào nội dung của chương trình đào tạo tôn giáo. Các điều khoản này đều
trái với luật quốc tế vì luật quốc tế chỉ cho chính quyền được phép giới hạn
quyền tự do biểu thị tôn giáo hoặc niềm tin riêng trong trường hợp vô cùng cần
thiết và ở mức độ chừng mực khi có liên quan đến một trong những mục đích được
nêu trong điều 18 khoản 3 của ICCPR.
Những từ ngữ quá mức bao
quát và mơ hồ có thể mở lối cho việc phân biệt đối xử
Chúng tôi đã nhận được các
báo cáo với đầy đủ chứng cớ về việc chính quyền có hành vi phân biệt đối xử đối
với các cộng đồng thiểu số có văn hóa và tôn giáo nằm ngoài giòng chính.
Bên cạnh những vi phạm thường
gây ra bởi luật pháp không chính xác về quyền thi hành luật của các cơ quan
chính quyền, những từ ngữ quá mức bao quát và mơ hồ trong Dự luật có thể sẽ được
dùng để kéo dài việc phân biệt đối xử đối với các cộng đồng sắc tộc và tôn giáo
thiểu số, các nhóm tôn giáo độc lập, và những nhóm có tôn giáo và niềm tin bị
xem là “có nguồn gốc từ nước ngoài”, và ưu đãi các tổ chức tôn giáo được đảng Cộng
sản Việt Nam công nhận. Ví dụ, dự luật cho phép chính quyền tạm đình chỉ lễ hội
tín ngưỡng, đại hội hay hội nghị tôn giáo vì lý do “quốc phòng, an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội, sức khoẻ cộng đồng”, và tạm đình chỉ hoạt động của
các tổ chức bị xem là có “hành vi bị nghiêm cấm”, “xâm hại quốc phòng, an ninh
quốc gia, trật tự công cộng, đạo đức xã hội.”
Ít nhất, trong Dự luật,
Việt Nam cần phải hủy bỏ hết những qui định hạn chế sinh hoạt tôn giáo không nằm
trong số những hạn chế được điều 18 khoản 3 của ICCPR cho phép, thí dụ
như các hạn chế nhằm bảo đảm “an toàn xã hội” hoặc “xúc phạm danh nhân, anh
hùng dân tộc”. Những qui định hạn chế khác, thí dụ như các qui định được xem
là cần có để bảo vệ “quốc phòng”, “an ninh quốc gia” và “trật tự công cộng”,
cũng cần được cân nhắc cẩn thận để xem các sinh hoạt tôn giáo có bị giới hạn
nghiệt ngã hơn là các sinh hoạt tương tự không có yếu tố tôn giáo không, và nếu
muốn hoãn hoặc đình chỉ lễ hội tín ngưỡng, đại hội hay hội nghị tôn giáo thì
chính quyền phải chứng minh được rằng các biện pháp hạn chế này là cần thiết,
chừng mực và phù hợp với một trong những mục đích được điều 18 khoản 3 của
ICCPR cho phép.
Ngoài ra, trong bản phúc
trình về chuyến đi thăm viếng Việt Nam hồi năm ngoái, Báo cáo viên Đặc biệt LHQ
về Tự do Tôn giáo và Niềm tin đã khuyến nghị rằng: “Trong
việc cải cách pháp luật hiện nay, (Việt Nam) cần ưu tiên đặt ra các phương thức
kêu cứu bằng phương tiện pháp lý hữu hiệu và dễ tiếp cận để cho phép các nạn
nhân bị xâm phạm quyền tự do tôn giáo hoặc niềm tin có thể đòi được bồi thường
hoặc sửa sai trong một hệ thống tư pháp và xét xử độc lập.“
Dựa trên các quan ngại nói
trên và các quan ngại khác liên quan đến Dự thảo Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo hiện
nay, chúng tôi chuyển đến chính phủ Việt Nam các khuyến nghị sau đây:
Tu chỉnh Dự luật để nó
tương thuận với các nghĩa vụ của Việt Nam được quy định trong điều 18 của ICCPR
để bảo đảm tuyệt đối chiều kích nội tâm của quyền tự do tôn giáo và niềm tin.
Tu chỉnh Dự luật để bảo
đảm rằng việc thực hành tôn giáo và niềm tin không bị lệ thuộc vào thủ tục chấp
thuận, công nhận, hay đăng ký của chính quyền.
Hủy bỏ mọi điều khoản
cho phép chính quyền can thiệp vào sinh hoạt và việc quản lý nội bộ của tổ chức
tôn giáo và các điều khoản quy định giáo trình phải có môn học về lịch sử và luật
Việt Nam.
Hủy bỏ các điều khoản hạn
chế quyền tự do tôn giáo hoặc niềm tin trong Dự luật liên quan đến “an toàn xã
hội” và “xúc phạm danh nhân, anh hùng dân tộc“, “quốc phòng”, “an ninh quốc
gia” và “trật tự công cộng”, và bất cứ từ ngữ nào không phù hợp với điều 18 của
ICCPR.
Bảo đảm rằng mọi hạn chế về
quyền tự do biểu thị tôn giáo hoặc niềm tin phải nằm trong khuôn khổ của các
nghĩa vụ của Việt Nam theo luật quốc tế, đặc biệt là đối với các hạn chế được
điều 18 khoản 3 của ICCPR cho phép, và cần giải trình về sự cần thiết và chừng
mực của biện pháp hạn chế đối với từng mục đích.
Hủy bỏ mọi từ ngữ bao quát
và mơ hồ trong Dự luật, kể cả những từ ngữ có thể bị diễn giải tùy tiện để gây
ra việc kỳ thị, vi phạm nhân quyền đối với các nhóm sắc tộc thiểu số và các
nhóm có tôn giáo hoặc niềm tin độc lập, hay được dùng để thiên vị các nhóm được
chính quyền công nhận, các nhóm bị chính quyền kiểm soát hay có cảm tình với
chính quyền.
Đưa vào Dự luật những
phương tiện pháp lý hữu hiệu và dễ tiếp cận để nạn nhân của các hành vi phân biệt
đối xử hoặc vi phạm nhân quyền có thể dùng để đòi đền bù và bồi thường phù hợp
với luật pháp và qui chuẩn quốc tế.
Bảo đảm các điều khoản
trong Dự luật phải tương thuận với nghĩa vụ của Việt Nam đối với các quyền tự
do ngôn luận, tự do lập hội, tự do hội họp, và quyền riêng tư như được ICCPR
qui định.
Đưa vào Dự
luật những bảo đảm chắc chắn về việc ưu tiên áp dụng các điều ước quốc tế mà Việt
Nam là quốc gia thành viên; Nội dung này đã được đưa vào các dự luật trước đây
nhưng rất tiếc đã bị bỏ ra khỏi Dự luật này.
Trong quá trình viết lại Dự luật, ban soạn thảo cần hội ý với
Báo cáo viên Đặc biệt của LHQ về Tự do Tôn giáo hoặc Niềm tin, các chuyên gia về
luật nhân quyền quốc tế, và mọi thành phần bị ảnh hưởng bởi luật này trong đó
có các nhóm tôn giáo và niềm tin tại Việt Nam.
Danh sách
các tổ chức ký tên:
- The Alternative
ASEAN Network on Burma (Altsean Burma)
- Amnesty
International
- Boat People SOS
(BPSOS)
- Cambodian Center
for Human Rights
- Cambodian Human
Rights and Development Association (ADHOC)
- Cambodian League
for the Promotion and Defense of Human Rights (LICHADO)
- Campaign to Abolish
Torture in Vietnam (CAMSA)
- Christian
Solidarity Worldwide - UK
- Christian
Solidarity Worldwide (CSW) - USA
- Civil Rights
Defenders
- Coalition for a
Free and Democratic Vietnam
- Danish Mission
Council
- Freedom House
- International
Commission of Jurists (ICJ)
- International
Institute for Religious Freedom
- Khmer Kampuchea
Krom for Human Rights and Development Association (KKKHRDA)
- Lantos Foundation
for Human Rights & Justice
- People Serving
People Foundation
- People’s
Empowerment Foundation (PEF)
- Release International
- Religious Liberty
Partnership (RLP)
- Society for Threatened
Peoples International
- Stefanus Alliance
International
- VETO! Human Rights
Defenders’ Network (VETO!)
- Voice of Martyrs Canada
- Voice of Martyrs Korea
- Vietnam Committee for
Human Rights
Chú
thích:
[1] Bản Tuyên bố này được
soạn dựa trên Dự thảo 5 của Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo được lưu hành vào tháng 9
năm 2015. Hồi tháng Tư năm 2015 chính phủ Việt Nam đã công bố bản Dự thảo 4 của
Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo và khiến cho nhiều cộng đồng tôn giáo lên tiếng chỉ
trích và lo ngại, trong đó có: Hội đồng Liên tôn; Hội đồng Giám mục Việt Nam;
Giáo phận Kontum, Giáo phận Bắc Ninh, Giáo phận Vinh của Giáo hội Công giáo;
Nhóm Phật giáo Hòa Hảo Độc lập; các cộng đồng Cao Đài, Phật giáo và Tin Lành. Một
số lớn các bản tuyên bố của các cộng đồng tôn giáo ở Việt Nam có thể đọc tại:
dvov.org/2015/10/26/vietnamdraftlor/
[1] Hội đồng Nhân quyền của
Liên Hiệp Quốc, Phúc trình của Báo cáo viên Đặc biệt về tự do Tôn giáo hoặc Niềm
tin, Heiner Bielefeldt, UN Doc. A/HRC/28/66/Add.2 (30 January 2015), tóm tắt
trang 1,http://www.ohchr.org/Documents/Issues/Religion/A-HRC-28-66-Add.2_VN.doc
[1] Có thể xem bản phân
tích chi tiết về Dự thảo Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo tại:
[1] Bản góp ý của Tòa Giám
mục Giáo phận Vinh, http://dvov.org/wp-content/uploads/2014/07/Gop-Y-LTNTG-GP-Vinh.pdf
[1] Hội đồng Nhân quyền của
Liên Hiệp Quốc, Phúc trình của Báo cáo viên Đặc biệt về tự do Tôn giáo hoặc Niềm
tin, Heiner Bielefeldt, UN Doc. A/HRC/28/66/Add.2 (30 January 2015), đoạn 82,http://www.ohchr.org/Documents/Issues/Religion/A-HRC-28-66-Add.2_VN.doc
1] Bản lập trường của
các tín đồ tôn giáo Phật giáo Hòa Hảo độc lập đối với dự thảo 4,
luật tín ngưỡng - tôn giáo,
[1] Xem thêm, thí dụ,
Human Rights Watch, Chấm dứt đàn áp kiểu “Tà đạo” đối với các tín đồ Cơ đốc
giáo người Thượng ở Việt Nam (2015), https://www.hrw.org/vi/news/2015/06/26/278445 (chứng liệu về việc đàn áp tín đồ Cơ đốc
giáo người Thượng).
[1] “Việc đàn áp hiện nay
nhắm vào những người bị cơ quan hữu trách Việt Nam xem là ‘đối tượng’ của lực
lượng an ninh. Trong số này có cả những người đi theo các tôn giáo bị chính phủ
Việt Nam xem là “do các nhóm phản động dựng lên” để chông chính quyền cộng sản
và thực hiện các ‘mưu đồ đen tối’, thí dụ như ‘lợi dụng tự do tín ngưỡng để gây
chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc’ “, Human Rights Watch, Chấm dứt đàn áp kiểu
“Tà đạo” đối với các tín đồ Cơ đốc giáo người Thượng ở Việt Nam (2015),ghi chú
7.
Ngoài ra xin xem thêm
Christian Solidarity Worldwide, Dân làng theo Cơ Đốc Giáo phải trả giá đắt ở Việt
Nam (Vietnamese Christian Villagers Pay a High Price, 2013),
“Áp lực bắt bỏ đạo không
phải chỉ đến từ phía chính quyền. Một mục sư cho chúng tôi biết rằng bạn bè và
gia đình của những người mới theo đạo Cơ Độc cũng cản họ đi nhà thờ và nói rằng
cơ đốc nhân là những người theo “đạo của nước ngoài” có dính dáng đến
CIA.”
[1] Hội đồng Nhân quyền của
Liên Hiệp Quốc, Phúc trình của Báo cáo viên Đặc biệt về tự do Tôn giáo hoặc Niềm
tin, Heiner Bielefeldt, UN Doc. A/HRC/28/66/Add.2 (30 January 2015), đoạn
83(i).