Một quốc gia bao gồm 03 thành tố:
Lãnh thổ, chính quyền và dân tộc.
Chính quyền VN hiện nay
là cơ sở để hiểu về người cộng sản.
BBT Blog
Ông Nguyễn Văn Linh
với dân tộc, đất nước và miền Nam
VOA.
28.06.2015
Ngày
22/6/2015, nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh ông Nguyễn Văn Linh, cố tổng bí thư
đảng CSVN, tại Tp HCM, thành ủy đảng CSVN, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân,
Ủy ban MTTQ Việt Nam Tp HCM tổ chức cuộc hội thảo có tên là “Đồng Chí Nguyễn
Văn Linh với Cách Mang Miền Nam, với Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định, Tp HCM”
nhằm
“khẳng định và tri ân những cống hiến, đóng góp to lớn của ông đối với sự
nghiệp cách mạng vẻ vang của đảng, của dân tộc, đất nước và của miền Nam”.
Nhiều tham luận tại hội thảo có cùng nhận định: cuộc đời hoạt động của ông gắn
liền với thời kì đấu tranh giành chính quyền, kháng chiến cứu nước và xây dựng,
bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (1).
Bài
viết này nhằm thảo luận về “đóng góp to lớn của ông Nguyễn Văn Linh đối với sự
nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc, đất nước và của miền Nam”, không đề cập
tới sự đóng góp của ông Linh đối với đảng của ông. Bài viết xin nói về 1) giai
đoạn kháng chiến cứu nước thời kì 1954-1975 (chống Mỹ) và 2) giai đoạn xây
dựng, bảo vệ tổ quốc Việt Nam từ năm 1975 tới khi ông Linh
mất.
Phần
1: Giai Đoạn Kháng Chiến Cứu Nước (chống Mỹ) thời kì 1954-1975
Quả
thật, ông Linh có vai trò rất lớn trong cuộc cuộc “kháng chiến Chống Mỹ Cứu
Nước”, cuộc chiến thường được các nhà quan sát chính trị nước ngoài gọi là cuộc
chiến tranh Đông Dương lần thứ hai. Ông là một trong những nhà lãnh đạo cao cấp
nhất tại miền Nam thời gian đó.
Cuộc
kháng chiến đã đi tới thắng lợi hoàn toàn: đánh bại chế độ Miền Nam ngày
30-4-1975, thống nhất toàn bộ đất nước dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản Việt
Nam kể từ đó.
Để
xem các đóng góp của ông cho Miền Nam, cho Dân tộc lớn như thế nào, ta cần nhìn
mục tiêu của cuộc chiến.
Nếu
mục tiêu là Mỹ rút ra khỏi Việt Nam và chế độ Miền Nam thua trận, thì quả thật
ông Linh đã lập công rất lớn và rất đẹp cho Miền Nam, cho Dân tộc.
Nếu
mục tiêu là dân chúng Miền Nam ấm no và hạnh phúc, đất nước Việt Nam phát triển
thì chúng ta đánh giá kết quả việc làm của ông như thế nào?
Hai
mươi năm nội chiến từng ngày, nhiều tác giả, nhiều tài liệu đã nêu lên các con
số kinh hoàng về người chết, về làng mạc, thành phố bị tàn phá, người viết
không lặp lại đây. Chỉ biết bom đạn ngày đêm tàn phá khắp Miền Nam suốt 20 năm
dài, người Việt giết người Việt với “lòng hận thù ngất trời”, rất rất nhiều gia
đình có người thân ở hai bên nổ súng vào nhau. Cuộc thảm sát Huế - Mậu Thân mà
tới bây giờ chính quyền còn giấu giếm cho thấy mức độ vô nhân đạo kinh hoàng
của người giết người, người có súng giết người tay không, anh em, bằng hữu, xóm
giềng giết nhau. Tại Huế, các chiến binh của ông Linh đã giết khoảng năm ngàn
người tay không, nghe mà tưởng chuyện của thời quân Mông Cổ chiếm thành của một
dân tộc khác tám thế kỉ trước! Đạo lí nào, truyền thống nào của dân tộc cho
phép con dân nước Việt làm như thế? Các chính ủy của ông Linh đã tuyên truyền
thế nào mà người Việt có thể căm thù người Việt tới
vậy?
Trước
khi cuộc chiến mà ông Linh góp phần quan trọng lãnh đạo bùng lên, Miền Nam đang
giàu có, dân chúng đang sống thanh bình no ấm. Năm 1960, GDP/người của Miền Nam
tự do là 223 USD, cao gấp 3 lần con số 74 USD của Miền Bắc cộng sản.
Lúc
ấy chiến tranh vừa chấm dứt vài năm, hai miền Nam Bắc vừa khắc phục hậu quả
chiến tranh và bắt tay tạo dựng cuộc sống thanh bình. Thay vì dốc sức xây dựng
Miền Bắc cho đời sống dân chúng khá lên, ông Linh và các đồng chí ông lại đưa
cán binh Cộng sản từ Miền Bắc nghèo kém vào đánh phá Miền Nam sung túc. Hậu quả
của cuộc chiến đó là kinh tế Miền Nam ngày càng tuột dốc nhanh. Miền Nam càng
tuột dốc, càng tan nát, ông và các đồng chí càng phấn khởi, vui mừng. Càng gia
tăng đánh phá, đào mô, phá cầu, giựt mìn, pháo kích, ám sát…
Người
viết xin được nêu lên một câu hỏi rất nghiêm túc với buổi hội thảo: Khi làm như
vậy, ông Linh và các đồng chí ông có yêu thương dân chúng Miền Nam không? Có
yêu thương dân chúng Miền Bắc không? Có tấm lòng ủng hộ công cuộc xây dựng và
phát triển Dân tộc không? Nếu nói rằng có, ắt chúng ta cũng nên làm một cuộc
thăm dò xem dân chúng Miền Nam có thích được yêu thương như vậy không.
Cuộc
chiến tàn khốc mà ông lãnh đạo giương cao ngọn cờ “Chống Mỹ Cứu Nước”, bởi vì
“Mỹ là giặc cướp nước”. Bây giờ, ai cũng thấy Mỹ không cướp nước Việt Nam. Nếu
ông và các đồng chí không đánh Miền Nam từ cuối những năm 1950, Mỹ đã không đổ
quân vào Việt Nam năm 1965. Ông Linh lo sợ Mỹ khai thác tài nguyên của Miền
Nam, bóc lột dân chúng? Không biết ông có cặp mắt nhìn gần quá không, nhưng
thời đại đã khác xa rồi. Mỹ là nước giàu mạnh nhất thế giới, tổ chức xã hội hữu
hiệu nhất thế giới, là nước dẫn đầu Thế giới Tự do. Quyền lợi của Mỹ nằm ở chỗ
bảo vệ Thế giới Tự do chống lại làn sóng đỏ Cộng sản. Để yên cho Miền Nam thanh
bình xây dựng kinh tế và làm đồng minh của Mỹ có lợi biết bao: kinh nghiệm xây
dựng xã hội Tự do Dân chủ, thiết lập các giá trị sống tiến bộ, hệ thống luật
pháp, trình độ quản lý, đầu tư, khoa học, công nghệ… bao nhiêu là tri thức trao
đổi và chuyển giao cho Miền Nam. Thời đại đó, kích thước và tính chất dân số
đó, tài nguyên đó… bao nhiên là điều kiện cho Miền Nam phát triển, đến nỗi ông
Lý Quang Diệu bên Singapore phải thèm thuồng, mơ ước!
Miền
Nam phát triển mạnh cũng có nghĩa là tổ quốc Việt Nam của dân tộc Việt Nam
mạnh. Năm 1960, xã hội Miền Nam văn minh, chất lượng cuộc sống dân Miền Nam
tươi đẹp và đầy triển vọng. Tốt đẹp hơn Miền Bắc, và tốt đẹp hơn Trung Công rất
nhiều. Thay vì gìn giữ hòa bình cho dân tộc, tổ chức giao lưu, trao đổi kinh
nghiệm hai miền để Nam và Bắc Việt Nam cùng giàu mạnh, thì chiến binh Miền Bắc
mang vũ khí Trung Cộng trùng trùng lớp lớp tiến công Miền Nam gây thảm cảnh nồi
da xáo thịt, đất nước tan tành!
Người
viết xin được nêu lên một câu hỏi rất nghiêm túc với buổi hội thảo: Khi làm như
vậy, ông Linh và các đồng chí của ông có nhìn được cục diện chính trị, khuynh
hướng phát triển của thế giới không? Có thấy được dã tâm Trung Cộng thúc đẩy hai
Miền Việt Nam chém giết nhau để tự hao mòn nguyên khí không?
Cần
biết rằng lúc đó Việt Nam đã có những nhà trí thức, nhà hoạt động chính trị
nhìn sự việc rõ như ban ngày, đã phân tích và đưa ra các tiên đoán tình hình
thế giới và quan hệ Trung Quốc-Việt Nam mà ba mươi năm sau thực tế cho thấy rất
chính xác. Ông Ngô Đình Nhu, trong tác phẩm Chính Đề Việt Nam, từ năm 1960 đã
nói: Nếu các nhà lãnh đạo Miền Bắc không thoát khỏi chủ nghĩa Cộng Sản thì: a)
sự phát triển của dân tộc sẽ bế tắc, và b) mở cửa đưa các thế hệ sau này vào
vòng lệ thuộc rồi bị xâm chiếm bởi Trung Cộng.
Người
viết xin được nêu lên một câu hỏi rất nghiêm túc với buổi hội thảo: Ông Linh và
các đồng chí ông có đủ tầm nhìn của một “nhà lãnh đạo tài năng, một tư duy sáng
tạo, một trí tuệ lớn của cách mạng Việt Nam”, như ông Lê Thanh Hải ca tụng (2),
để thấu hiểu các lời tiên đoán chính trị rất đúng đắn của ông Nhu không? Và nếu
ông Linh có tầm nhìn đó, thì ông có mục tiêu gì khi lãnh đạo cuộc chiến “Chống
Mỹ Cứu Nước” tàn phá Miền Nam? Mục tiêu đó có đồng hành với mục tiêu phát triển
đất nước lâu dài không?
Phần
2: Giai Đoạn Xây Dựng, Bảo Vệ Tổ Quốc Việt Nam Từ Sau Năm 1975
Sau
khi Việt Nam được thống nhất bằng bạo lực và đặt dưới quyền toàn trị của đảng
CSVN, toàn bộ đất nước suy sụp nhanh chóng.
Sự suy sụp bắt đầu từ việc chính quyền thắng trận, bằng các thủ đoạn mang tính lừa gạt, lùa viên chức chính quyền và quân đội chế độ Miền Nam vào các trại cải tạo, thực chất là các nhà tù, giam cầm và đày ải họ suốt những năm dài sau đó. Trong khi đó, bên ngoài trại cải tạo, dân chúng bị tước đoạt tài sản qua các chiến dịch đánh Tư sản mại bản, cải tạo Công Thương Nghiệp, đổi tiền, ngăn sông cấm chợ…
Sự suy sụp bắt đầu từ việc chính quyền thắng trận, bằng các thủ đoạn mang tính lừa gạt, lùa viên chức chính quyền và quân đội chế độ Miền Nam vào các trại cải tạo, thực chất là các nhà tù, giam cầm và đày ải họ suốt những năm dài sau đó. Trong khi đó, bên ngoài trại cải tạo, dân chúng bị tước đoạt tài sản qua các chiến dịch đánh Tư sản mại bản, cải tạo Công Thương Nghiệp, đổi tiền, ngăn sông cấm chợ…
Những
chứng nhân thời cuộc những năm 1975-1985 còn nhớ cảnh tượng kinh hoàng của một
xã hội từ Tự do và Công bằng trở thành Toàn trị và Phân biệt đối xử, từ có cơm
ăn áo mặc trở thành ăn độn, rách rưới, từ nề nếp và đạo đức trở thành xô bồ với
mọi giá trị đảo lộn… chỉ trong vòng vài năm!
Khi
xã hội suy thoái cùng cực, tên tuổi ông Linh được gắn với bút danh NVL kí dưới
các bài báo “Những Việc Cần Làm Ngay” nêu lên những sự kiện trong xã hội và yêu
cầu sửa đổi.
Thực
ra các bài báo ngắn với bút danh NVL đó chỉ để giải quyết một vài cách làm quá
tệ hại của đảng CSVN đang cầm quyền. Những việc nêu lên nhỏ quá so với tầm của
một nhà lãnh đạo cỡ ông. Các bức xúc mà chúng đề cập chỉ như những chiếc lá nhỏ
ngoài đầu cành con, không hề động tới các nhánh bên trong, tới thân cây hay gốc
cây.
Việc
tham gia giải quyết thiếu lương thực… cho thành phố cũng vậy. Nó chỉ giúp cho
lòng dân tạm dịu cơn bất bình và đảng của ông kéo dài thời gian thống trị trên
đất nước bị kìm hãm mà giàu tiềm năng này.
Buổi
đầu, ông được mọi người nhìn như một nhà đổi mới. Nhưng khi các vấn đề xã hội
và đất nước bắt đầu cần các thay đổi căn bản hơn một chút thì ông dần dần bộc
lộ là một người bảo thủ, rất bảo thủ. Bảo thủ với ý nghĩa ông là một nhà lãnh
đạo “luôn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững và tăng cường sự lãnh
đạo của đảng”, luôn kiên định lập trường “Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng” (3).
Trước
hết ông chống lại tất cả các chính sách cởi mở hơn, nới rộng hơn quyền tự do
cho dân chúng. Ông chống lại Tự do báo chí và quyền ra báo tư nhân.
Ông
chống lại các khuynh hướng đổi mới tư tưởng trong nội bộ đảng của ông. Ông
chống tất cả những yêu cầu mang lại Tự do hơn cho dân chúng, chống tất cả những
yêu cầu giảm tính toàn trị trong sự thống trị của đảng ông trên đất nước này.
Ông là nhân vật quan trọng tham gia hạ bệ ông Trần Xuân Bách, người đồng chí
trong Bộ Chính trị có tư tưởng hướng về đa nguyên.
Bởi
vì ông biết chắc chắn rằng, khi người dân có quyền tự do hơn, có kiến thức hơn
về cách tổ chức xã hội, về quyền con người của đa số các quốc gia trên thế
giới, thì cái mặt nạ “của dân, do dân và vì dân” của chính quyền do đảng Cộng
sản Việt Nam áp đặt hoàn toàn bị lột ra trước công chúng. Những điều gian trá
đảng ông đã làm trong quá khứ sẽ bị phơi bày. Điều này được một hậu duệ của ông
tuyên bố thật thà: “Bỏ điều 4 Hiến pháp nghĩa là chúng ta tự sát”. Do đó, ông
rất kiên định trong việc tăng cường tính lãnh đạo của đảng, đồng nghĩa với việc
không cho dân chúng hưởng bất cứ một quyền tự do căn bản nào. Quả thực, ông rất
kiên định với mục tiêu không gì lay chuyển được cho “đảng Cộng sản Việt Nam mãi
mãi lãnh đạo nước Việt Nam” như ông đã từng tuyên
bố.
Khi
hệ thống Cộng sản thế giới rung rinh và sắp sụp đổ cuối thập niên 1980, ông
Linh càng thể hiện là người mong muốn cứu vãn hệ thống ấy trên thế giới. Những
vận động cuống cuồng và nháo nhào của ông trong thế cờ tàn của Chủ nghĩa
Mác-Lênin ở mức độ toàn cầu cho thấy tầm vóc tri thức, tư tưởng thảm hại của
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Đau đớn thay cho Việt Nam, vào thời điểm rất quan
trọng của lịch sử thì lại có một người lãnh đạo thiếu kiến thức như thế! Vậy
là, trong khi các nước Đông Âu và Liên Xô, những nước Cộng sản hùng hậu và tiêu
biểu nhất thế giới, quyết định từ bỏ chủ nghĩa Cộng sản để mà tổ chức xã hội
theo mô hình Tự do Dân chủ, Tam quyền phân lập và từ đó đưa đất nước họ ngày
càng ổn định và giàu mạnh, ấm no hơn, thì Việt Nam, sẵn lợi thế có một Miền Nam
nhiều kinh nghiệm của thế giới Tự do, lại bị đẩy sâu hơn vào thể chế toàn trị
Cộng sản. Trong việc này, ông Nguyễn Văn Linh có “cống hiến to lớn, quan trọng
đối với sự nghiệp cách mạng của đảng”. Nhưng với Nhân dân, với Miền Nam thì ông
Linh đã mang lại những tác hại to lớn lâu dài cho tương lai dân tộc.
Bởi
vì, để giữ thể chế toàn trị Cộng sản lỗi thời trên tổ quốc Việt Nam, ông đã
cùng với dàn lãnh đạo cao nhất nước sang Thành Đô phủ phục trước đảng Cộng sản
và chính quyền Trung Quốc. Tác hại của Hội nghị Thành Đô đó khủng khiếp tới mức
ông Nguyễn Cơ Thạch, một đồng chí trong Bộ Chính trị của ông phải thốt lên:
“Một thời kì Bắc Thuộc mới đã bắt đầu!”
Trước
Hội nghị Thành Đô, Trung Quốc đã tiến đánh Việt Nam. Cuộc chiến biên giới giết
chết mười vạn quân dân Việt Nam, san bằng các thành phố họ đi qua. Sau đó là
cuộc chiến ngoài biển giết 64 chiến sĩ hải quân Việt Nam, chiếm của Việt Nam
một số đảo mà hiện nay là căn cứ quan trọng để Trung Quốc uy hiếp toàn bộ lãnh
thổ nước ta. Dư âm các cuộc chiến còn vang vọng, máu của dân ta còn nhỏ tươi
dòng, lòng dân ta còn căm phẫn, chỉ vì ích kỉ bảo vệ đảng Cộng sản lỗi thời của
riêng mình, ông Linh nỡ tròng cái ách nô thuộc của Trung Hoa lên đầu dân tộc!
Trước
Hội nghị Thành Đô, dù tiến đánh Việt Nam, Trung Hoa chỉ là người hàng xóm hung
hăng ngoài cửa. Sau Hội nghị Thành Đô, họ là thầy, là cha chú của Việt Nam.
Nhìn họ cười ngạo nghễ trước giới cầm quyền Việt Nam khúm núm, nhìn họ hung
hăng lấn chiếm và chính quyền Việt Nam hèn yếu cúi đầu, nhìn họ ra lịnh và
chính quyền Việt nam vâng lời đàn áp dân chúng… lòng người Việt Nam nào không
đau? Họ đã bước vào bên trong Việt Nam qua các vùng lãnh thổ Tây Nguyên, các
tỉnh địa đầu biên giới, các vùng đất hiểm yếu của Việt Nam. Người dân tin rằng
họ đã nằm trong giới cầm quyền cao cấp của đất nước…
Các
tham luận cùng nhận định cho rằng ông Linh đã cống hiến, đóng góp to lớn vào sự
nghiệp “xây dựng, bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Tôi không hoài
nghi và cũng không thảo luận nhận định này.
Người
viết xin được nêu lên một câu hỏi rất nghiêm túc với buổi hội thảo: Trong khi
“xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” ông Linh có làm hại cho
việc xây dựng và bảo vệ “tổ quốc Việt Nam chung của dân tộc chúng ta” không?
“Tổ
quốc Việt Nam chung của dân tộc chúng ta”, ý của người viết muốn nói tổ quốc
Việt Nam từ thủa bình minh của những bộ tộc Việt trên châu thổ sông Hồng, qua
hai ngàn năm lớn lên, tiếp theo một ngàn năm Bắc thuộc, rồi giành lại độc lập
tới giờ hơn một ngàn năm nữa. Tổ quốc đó, được bảo vệ và phát triển qua bao
đời, từ xa xưa tới nay, thành một dãy đất hình chữ S kéo dài từ ải Nam Quang
tới mũi Cà Mau, ngoài khơi có các đảo Cát Bà, Cái Bàn, quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa, Côn Lôn, Phú Quốc… Trên dải đất đó, dân tộc Việt Nam thấm nhuần
truyền thống lòng hiếu thảo, tình đồng bào, tình làng nghĩa xóm và tinh thần
chống ngoại xâm, cái họa ngoại xâm thường trực đến từ láng giềng phương Bắc.
Hai chữ Tổ quốc đó, vài dòng không diễn hết ý, mà ngàn trang cũng không đủ, chỉ
biết đối với những người Việt nặng lòng với đất nước tổ tiên thì tâm tình Tổ
quốc luôn rào rạt trong từng mạch máu, và réo sôi khi vận nước nguy nan.
----------------------------------
----------------------------------
Tài
liệu tham khảo:
1)
HỒNG HIỆP. Bài Học Về Tư Duy Đổi Mới Và Gắn Bó Với Dân. SGGP, số 13668, ngày
23-6-2015, trang 2.
2), 3) LÊ THANH HẢI. Đồng chí Nguyễn Văn Linh – Nhà lãnh đạo tài năng, một trí tuệ lớn của cách mạng Việt Nam. SGGP, số 13668, ngày 23-6-2015, trang 3.
2), 3) LÊ THANH HẢI. Đồng chí Nguyễn Văn Linh – Nhà lãnh đạo tài năng, một trí tuệ lớn của cách mạng Việt Nam. SGGP, số 13668, ngày 23-6-2015, trang 3.
Các
bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm
hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.