ĐIỀU KHÁC BIỆT NGÀY NAY LÀ
KHOA HỌC KỶ THUẬT ĐẶC BIỆT LÀ INTERNET...
NÊN CHÍNH NGƯỜI DÂN TỪNG QUỐC GIA SẼ THAY ĐỔI LỊCH SỬ.
NHÂN LOẠI SẼ LÀM CHỦ SỐ PHẬN MÌNH
LẬP LẠI KHÔNG CÓ NGHĨA LÀ Y CHANG LÀ NHƯ VẬY...
BBT BLOG.
Ý kiến 'Việt Nam lại
như thời Tự Đức'?
24 tháng 6 2015.
Basam.
Ngay cả khi Đại Nam
đạt đến sức mạnh của một đế quốc Đông Dương, quân đội Đại Nam chưa biết vận
dụng sức lực của các sắc tộc Chàm, Ai Lao hay Thủy Chân Lạp.
Sức mạnh của quân đội
Việt Nam là sức mạnh của sự đoàn kết, chết để giữ đất và chết để mở đất, của
sắc tộc Kinh. Mạc Cửu ở Hà Tiên là một biệt lệ.
Ngược hẳn, quân La Mã
hay Thập Tự Chinh là một hỗn hợp các sắc dân tham chiến vì lý tưởng chinh phục
hoặc chống Hồi giáo.
Gần hơn, quân đội Anh
trong hai thế chiến tập hợp lính Ái Nhĩ Lan (Ireland), Tân Tây Lan (New
Zealand), Gia Nã Đại (Canada), Úc, Nam Phi và Ấn Độ, tinh thần ái quốc không
hẳn là động cơ tham chiến của những người lính này.
Trường hợp Quân đội
Liên hiệp Pháp không khác. Quân đội Pháp sử dụng một bộ phận lớn lính Ma-rốc,
Algérie, Tunisie, Sénégal, Congo, Cameroun và binh chủng Lê dương.
Trên chiến trường
Việt Nam, lính ngoại quốc đông hơn lính Pháp, 52% quân số Lê dương là cựu binh
Đức.
Có thể viết: Sức mạnh
của các quân đội đế quốc là sức mạnh tổng hợp, xây dựng trên sức tổng hợp các
lý thuyết, nhân chủng, nguyên vật liệu, kỹ thuật, tài chánh và cả lý tưởng.
Quốc gia Việt Nam
chưa đạt đến sức mạnh này, tinh thần ái quốc vẫn là sức mạnh duy nhất.
Đến chiến tranh
Việt-Pháp, quân đội của Đại Nam gặp thử thách lớn khi lần đầu tiên phải đương
đầu với quân đội Tây phương.
Quân nhà Nguyễn thất
bại liên tiếp khiến triều đình Huế phải ký các hòa ước Nhâm Tuất 1862, Giáp
Tuất 1874, Quý Mùi 1883, rồi đến hòa ước Giáp Thân 1884, tức hòa ước Patenôtre,
công nhận vĩnh viễn nền bảo hộ Pháp.
Lòng ái quốc đã không
tạo ra đủ sức mạnh để thắng các phương tiện kỹ thuật của đối phương.
Chiến thắng của quân
viễn chinh Pháp là chiến thắng của một nền công nghiệp nặng đã nghiền nát một
nền nông nghiệp lạc hậu.
Một cách khác, quân
đội nhà Nguyễn tụt hậu kỹ thuật đến mức mà tinh thần ái quốc và lòng can đảm
không thể bù đắp.
Cái chết tiết tháo
của các đại thần Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu để lại trong
lòng dân tộc vô vàn thương tiếc, cùng kính trọng.
Nhưng những cái chết
này không cứu vãn được nền độc lập quốc gia, chúng chỉ cứu vãn duy nhất danh dự
của tầng lớp quan lại và triều đình.
Cơ hội đến và đi
Canh tân trở nên cần
thiết.
Nhưng không phải lúc
nào quốc gia cũng có đủ thời gian và đủ khả năng canh tân. Lịch sử là một chuỗi
cơ hội mà chỉ những quốc gia nào biết kịp nắm bắt mới có thể giành lấy những cơ
hội kế tiếp.
Hệ thống dân vận và
Viện Sử học Hà Nội cố gắng tìm ra những điểm tương đồng giữa phong trào Tây Sơn
với Chính quyền Cộng Sản.
Trong thực tế, nhìn
theo chiều dài lịch sử, chính phủ Việt Nam đương quyền có nhiều điểm tương đồng
với nhà Nguyễn và rất khác Tây Sơn trong cách đối đầu với phương Bắc.
Trên mặt quân sự,
quân nhà Nguyễn đã tiến vào Nam Vang lập Trấn Tây thành nhưng không bình định
được Chân Lạp, Quân đội Nhân dân cũng đã trải qua kinh nghiệm này.
Trên mặt chính trị,
chính quyền Tây Sơn không thật sự thần phục nhà Thanh trong lúc các triều vua
Nguyễn đã luôn nhìn về phương Bắc và phụ thuộc vào động thái của Thanh triều
trong phương cách ngoại giao với Tây phương.
Chính quyền Việt Nam
hiện nay ứng xử tương tự.
Điểm tương đồng lớn
nhất giữa chính phủ hiện tại với nhà Nguyễn nằm ở sự chậm trễ canh tân sau khi
thống nhất đất nước.
Kể từ thế kỷ 19, lịch
sử dân tộc cho phép duy nhất hai thời kỳ khả dĩ có thể canh tân quân đội: Bốn
triều vua đầu nhà Nguyễn và từ thập niên 90 đến nay. Các giai đoạn khác, quốc
gia chìm đắm trong chiến tranh và loạn lạc.
Hoàng đế Gia Long có
nhiều thuận lợi: Mối giao hảo ban đầu khá tốt đẹp với Pháp hoàng, ngay cả khi
Pháp hoàng Louis XVI bị cách mạng đánh đổ, đường dây ngoại giao đã thiết lập,
và ngay cả khi mối quan hệ này đứt đoạn, Âu châu đang chìm trong chiến tranh
của Nepoleon cho phép Đại Nam một thời kỳ dài bình yên.
Các giám mục, giáo
sĩ, kỹ sư theo phò Gia Long đã chứng tỏ trung thành và đắc lực. Một chính sách
phổ biến kiến thức của các kỹ sư này, một cách quy mô, mở mang công xưởng và
tận dụng tri thức Tây phương bằng cách thuê mướn người Âu châu như Nhật Bản sẽ
thực hiện về sau, đã có thể cải tổ quân đội Đại Nam một cách hữu hiệu.
Gia Long còn thừa
hưởng âm vang của hai chiến thắng Rạch Gầm và Đống Đa của Nguyễn Huệ, khiến
Xiêm La và Đại Thanh quốc nể vì nhưng Gia Long đã không tận dụng những ưu thế
này.
Các hoàng đế kế nhiệm
Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức đã không nhìn thấy bối cảnh thế giới vẫn còn
thuận lợi và Đại Nam là một trong những quốc gia mạnh ở Á châu, kể cả khi so
sánh với Nhật Bản.
Phía Bắc, Thanh triều
phải đối đầu với các nội loạn triền miên ở Lưỡng Quảng cho đến 1864 mới dẹp yên
Hồng Tú Toàn.
Cuộc chiến với Thái
bình Thiên quốc làm Thanh triều kiệt quệ.
Phía Đông Bắc, Cao Ly
đang bị Mãn Thanh chiếm đóng, còn Nhật Bản vẫn đóng cửa không giao tiếp với thế
giới.
Nhật Bản liên tiếp
trải qua 11 trận đói trong suốt một thế kỷ rưỡi, mà nạn đói sau cùng diễn ra
vào năm 1837. Các sứ quân Tokugawa suy yếu dần.
Phía Nam, Mã Lai
không đủ sức uy hiếp Đại Nam. Phía Tây Nam, Xiêm La với 4 triệu dân không cản
được Trương Minh Giảng tiến vào Chân Lạp.
Phía Tây Bắc, vương
quốc Miến Điện với 3 triệu dân không có cả quân đội chính quy để gây hấn với
Đại Nam. Lính Miến, trưng binh khi chiến tranh, không được tổ chức thành một
đạo quân thường trực.
Phía Đông, biên giới
Hoa Kỳ chỉ chạm đến Thái Bình dương vào năm 1848 sau khi giành lấy California
từ tay quân đội Mexico.
Hiểm nguy đến từ Âu
châu. Tuy nhiên, ngoài các thương điếm, Hà Lan và Bồ Đào Nha không đủ sức mở
những cuộc viễn chinh lớn. Tây Ban Nha tuy hiện diện ở Phi Luật Tân đã bắt đầu
chu kỳ suy tàn.
Đế quốc Phổ, một sức
mạnh lục địa, không ưu tiên xây dựng hạm đội và hãy còn đang tìm cách chế ngự
quân đội Pháp.
Trường hợp Pháp, tiềm
năng khoa học kỹ thuật và tham vọng vẫn tràn đầy nhưng hải quân Pháp bị tiêu
hủy trong thủy chiến Trafalgar chưa vực dậy.
Đế chế Nga tập trung
sức lực hoàn thành tuyến đường hỏa xa xuyên Tây Bá Lợi Á để tiến vào Mãn châu
bằng đường bộ, vì Bắc Băng dương đóng băng quanh năm, khiến tham vọng Nga giới
hạn vào Bắc Á.
Hoàng gia Anh đã bắt
đầu xuất hiện ở miền duyên hải Miến Điện và Mã Lai ngay từ 1826, mở các thương
điếm và ký thương ước.
Trước yêu sách của
các công ty hàng hải Peninsular and Oriental và Cunard Line, các triều vua
George rồi Nữ hoàng Victoria sẽ gửi thêm chiến thuyền sang Á châu nhưng tập
trung vào các vùng đất vừa khám phá ở Úc và Tân Tây Lan, rồi Trung Hoa, khiến
lãng quên Đại Nam.
Các vua đầu triều
Nguyễn, như thế, vẫn còn thời gian.
Ngoài hai năm khởi
loạn của Lê Văn Khôi và động loạn của vài bộ tộc thiểu số ở miền Thượng du Bắc
Việt, nhà Nguyễn có sự ổn định ngai vàng và đã biết đến sự hiện diện của một
nền văn minh khác ở Tây bán cầu.
Chính sự hiện diện
của nền văn minh này mới có thể giúp canh tân nếu có một chính sách đối ngoại
vừa trung lập, vừa tương tác với nhiều quốc gia, vừa mở cửa tiếp nhận kỹ thuật
Tây phương.
Trong suốt sáu thập
kỷ, từ lúc Gia Long tiến vào Phú Xuân cho đến khi Tự Đức nhận tối hậu thư của
Pháp, triều Nguyễn đã không canh tân.
Phó mặc số phận?
Chính sự thụ động này
đã kết án số phận dân Việt, một kết án chung thân khi những canh tân quyết định
thế giới diễn ra trong thế kỷ 19.
Nhà Nguyễn đã không
áp dụng phương châm của Otto von Bismarck: "Chính trong thời bình phải đúc
súng."
Sang thế kỷ 20, đầu
thập niên 90, lịch sử đem đến cho dân tộc một cơ hội thứ nhì. Trước đó, Chính
quyền Cộng Sản đã bị cả hai đế quốc Trung Hoa và Hoa Kỳ cô lập.
Trong mặt nội chính,
chính quyền này đã tự cấm vận tri thức của dân tộc khi không cho phép bất kỳ
một giao dịch nào với thế giới.
Thập niên 90, cánh
cửa mở ra bên ngoài phơi bày hình ảnh của một quốc gia tụt hậu.
Dân chúng ý thức rất
rõ: Việt Nam đã bị nhân loại qua mặt.
Tuy vậy, quốc gia
không nội loạn, đầu tư thế giới đã vực dậy kinh tế, sự thay đổi chiến lược của
các đế quốc, sự thay đổi các ý thức hệ, vị trí và tiềm năng quốc gia dần khôi
phục cho phép dân tộc một hy vọng.
Nhưng cho đến phút
này, tiến trình công nghiệp nặng và hiện đại hóa toàn diện quân đội vẫn còn
phôi thai.
Có thể giải thích vì
Việt Nam vẫn là một quốc gia nghèo, dân trí thấp.
Câu trả lời là nếu
không canh tân, sẽ không bao giờ có thể nâng cao dân trí và nâng cao mức thu
nhập quốc dân mà không vay mượn.
Hiểm nguy Trung Hoa
còn là một lý do cấp thiết. Thời Mã Viện, dân tộc bị đô hộ vì thua kém binh lực
mà quyết tâm không để bị đồng hóa còn cho phép khởi nghĩa giành lại đất đai,
quyền làm người.
Dưới triều Tự Đức,
dân tộc bị đô hộ vì không thể bắt kịp kỹ thuật Tây phương, vì đã không hiểu các
cuộc xâm chiếm nằm trong một chuyển động toàn cầu, trong phân chia giữa các đế
quốc.
Cả hai nguy hiểm hôm
nay nhập một.
Với kẻ thù truyền
kiếp Trung Hoa.
Nếu thập niên 70
tương đương với nội chiến Nguyễn Ánh-Tây Sơn và chấm dứt khi Nguyễn Ánh vào Phú
Xuân, thập niên 80 tương đương với triều Minh Mạng tiến quân vào Chân Lạp rồi
đồn trú và sa lầy, thì thập niên 90 cũng tương đồng với giai đoạn chuyển tiếp
của triều Thiệu Trị.
Hôm nay, sang thập
niên 2010, dân tộc đã ở vào giữa triều Tự Đức và hiểm nguy thì hiện ra trông
thấy.
Nếu chậm trễ, quốc
gia sẽ lâm vào hoàn cảnh của Tự Đức còn chưa đầy một thập niên trước khi nhận
tối hậu thư của giặc.
Một cách khách quan,
ở vào giữa triều Tự Đức là đã muộn. Vì vận tốc canh tân của quốc gia, nếu thực
hiện, vẫn chậm hơn vận tốc phát triển kinh tế, binh lực, vũ khí hiện đại của
Bắc Kinh đã đạt đến tầm mức lớn.
Nhưng dân Việt vẫn
muốn tin hãy còn kịp, chưa muộn.
Phải canh tân trước
khi một Yalta thứ nhì chia chác các vùng ảnh hưởng được ký kết giữa các đế quốc
Nga, Hoa, Mỹ, như đã xảy ra vào tháng 2-1945 giữa Churchill, Roosevelt và
Stalin, trao những tiểu quốc này vào tay đế quốc kia và những tiểu quốc khác
vào tay đế quốc nọ.
Với một phân vùng như
vậy, Việt Nam sẽ không thoát được số mệnh trở thành chư hầu của Trung Hoa và
tương lai dân Việt sẽ tùy thuộc hoàn toàn vào lương tâm Bắc Kinh.
Hạn chót của canh tân
đất nước đã điểm.
Bài viết thể hiện quan điểm
riêng và lối hành văn của tác giả, hiện sống ở Texas, Hoa Kỳ. Bài cũng đã được
tác giả đăng tại Hoa Kỳ.