VNTB - Phỏng vấn LM Phan
Văn Lợi:
Tôn giáo ở VN đang
"tự do" như thế nào?
Việt Nam Thời Báo.
Phóng viên Kiều Phong
đến từ Việt Nam Thời Báo xin kính chào linh mục Phan Văn Lợi. Thưa Cha Lợi,
trong giai đoạn 4 năm trở lại đây, từ năm 2011 đến năm 2015, tình hình tự do
tôn giáo tại Việt Nam đã biến chuyển như thế nào, thưa cha?
Khống chế, lũng đoạn và
xâm nhập
Linh mục Phan Văn Lợi: Vâng trước hết tôi xin được kính chào anh
phóng viên và tất cả quý vị thính giả đang nghe chương trình này. Kính thưa quý
vị, trong cái 4 năm trở lại đây,tình hình tôn giáo ở VN chẳng có gì tiến triển
cả, các tôn giáo vẫn tiếp tục bị khống chế, lũng đoạn và xâm nhập. Nhà nước vẫn
tiếp tục cho các quyền tự do tôn giáo thứ yếu mà với điều kiện, và cái thứ ba
là nhà nước tiếp tục cấm cản các quyền tự do tôn giáo chủ yếu.
PV Kiều Phong: Sự lũng đoạn, khống chế các giáo hội và ngăn cản
các quyền tự do tôn giáo chủ yếu đó thể hiện như thế nào thưa cha?
Linh mục Phan Văn Lợi: Điểm thứ nhất, các tôn giáo vẫn tiếp tục
bị khống chế, lũng đoạn và xâm nhập thì người ta nhận thấy là tuy rằng các tôn
giáo là các tổ chức xã hội đúng nghĩa, có ích lợi cho xã hội nhưng mà cho tới
nay nhà nước không công nhận cho các tôn giáo có cái gọi là pháp nhân, tức là
không công nhận chính thức các tôn giáo trên phương diện pháp luật. Và chính
việc không được coi là các pháp nhân nên các tôn giáo gặp rất nhiều khó khăn ở
trên phương diện luật pháp và trong giao dịch xã hội. Các tôn giáo muốn tiếp tục
hoạt động thì phải đăng ký, phải xin phép và tuân thủ rất nhiều điều kiện khắt
khe, rồi phải chờ sự cho phép tùy tiện của nhà cầm quyền. Tôi lấy ví dụ những
hội thánh Tin Lành tại gia bây giờ họ muốn sinh hoạt thì họ phải tìm mọi cách
để mà xin xỏ nhà nước, phải chờ rất lâu mà nhiều khi không được nữa. Rồi vì
muốn kiểm soát các tôn giáo, nhất là muốn biết tôn giáo thành công cụ thì nhà
nước đã lập ra những cái gọi là tôn giáo quốc doanh, bên cạnh các tôn giáo
chính truyền, chẳng hạn bên cạnh Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất thì có
Giáo hội Phật giáo Việt Nam do nhà nước điều khiển, bên cạnh Cao Đài thì người
ta thấy có cái gọi là Hội đồng Chưởng Quản cũng là thứ quốc doanh do nhà nước
thành lập, nhiều hội thánh Tin Lành do người của nhà nước ở trong đó diều
khiển. Riêng Công Giáo thì không có cái giáo hội quốc doanh nhưng lại có Uỷ Ban
Đoàn Kết để mà lũng đoạn Công Giáo.
Điểm thứ hai, nhà nước
cho các quyền tự do tôn giáo thứ yếu nhưng với điều kiện. Có ba quyền tự do tôn
giáo thứ yếu: một là, được xây dựng các nơi thờ phượng; hai là tổ chức các lễ
hội, ba là các chức sắc hoặc là tín đồ được đi ra nước ngoài để lo việc tôn
giáo. Nhưng mà không phải tất cả mọi tôn giáo và mọi chức sắc đều được cái
quyền này. Ba cái thứ gọi là quyền tự do tôn giáo thứ yếu đó, phụ tùy đó, chỉ
được ban cho các cái người ta gọi là giáo hội quốc doanh là một, thứ hai là cho
những ai im lặng trước tội ác và sự sai lầm của nhà cầm quyền, còn tất cả
những ai mà lên tiếng để chống lại sự bất công ở trong xã hội thì ngay cả những
điều này cũng không được. Tôi lấy ví dụ như là linh mục Lê Ngọc Thanh, linh mục
Đinh Hữu Thoại từng bị cấm đi ra nước ngoài bởi vì hai vị này đã đấu tranh cho
tự do tôn giáo và dân chủ nhân quyền. Cái thứ ba là nhà nước tiếp tục không cho
những quyền tự do tôn giáo chủ yếu.
PV Kiều Phong: Xin linh mục cho khán thính giả Việt Nam Thời
Báo hiểu rõ hơn về những quyền tự do tôn giáo chính yếu, và cách mà nhà cầm
quyền đã xâm phạm các quyền đó.
Linh mục Phan Văn Lợi:
Trong những quyền tự do tôn giáo chủ yếu trong đó có độc lập trong việc
tổ chức nội bộ, thứ hai là quyền tự do trong sinh hoạt phụng thờ, thứ ba là
quyền truyền bá giáo lý ở bên ngoài, thứ tư là quyền góp phần giáo dục giới
trẻ. Thứ năm là quyền của các thành viên ở trong tôn giáo được tham gia vào xã
hội,vào bộ máy cầm quyền; và thứ sáu là quyền được sở hữu các cái phương tiện
vật chất, sở hữu đất đai;và quyền thứ bảy đó là có thể tự do để mà liên
lạc với nước ngoài hoặc gởi người đi ra nước ngoài. Bảy quyền tự do tôn giáo
này cho tới nay nhà nước vẫn không cho.
Các tôn giáo vẫn không
được quyền gọi là độc lập trong tổ chức nội bộ, nhà nước kiểm soát việc
chiêu sinh, huấn luyện các tu sĩ. Nhà nước kiểm soát việc chiêu sinh, huấn
luyện, tấn phong, bổ nhiệm các chức sắc. Rồi, các tôn giáo không được quyền tự
do trong sinh hoạt và phụng thờ.
Tất cả mọi sinh hoạt,
phụng thờ của tôn giáo đều phải báo cáo, xin phép mỗi năm vào ngày 15 tháng 10,
trong năm tới có những lễ nghi gì, tổ chức gì, lễ hội gì, định lượng bao nhiêu
người đều bắt buộc phải xin phép cả. Mọi lễ nghi đều phải làm ở trong những nơi
thờ phượng mà được nhà nước công nhận thôi, những nơi mà họ không công nhận thì
không được. Rồi những cái lễ nghi thờ phượng ở bên ngoài thì phải xin phép, ai
không xin phép thì phải bị dẹp bỏ.
Rồi thứ ba là cái quyền
được truyền bá giáo lý bên ngoài các cơ sở tôn giáo thì mọi giáo hội đều đâu có
được. Mọi giáo hội đâu có thể đi rao giảng ở trong đường phố những giáo lý của
mình qua các phương tiện thông tin truyền thông. Những tôn giáo nào có những
trang mạng đề cập các vấn đề đất nước và xã hội đều bị dựng tường lửa cả. Trong
thực tế là giáo hội cũng không được thành lập các nhà xuất bản, không có đài
phát thanh riêng, không có đài truyền hình riêng, không có tiếng nói trên hệ
thống truyền thông quốc gia, mặc dù hệ thống truyền thông quốc gia này có tiền
thuế của những người theo tôn giáo đóng góp.
Quyền tự do tôn giáo
chính yếu thứ tư, đó là giáo dục giới trẻ, thì trước năm 1975, thì mọi tôn giáo
đều có thể mở trường, tiểu học, trung học và đại học. Nhưng mà sau năm 75, tất
cả đều không còn nữa. Hiện giờ nhà nước chỉ cho các tôn giáo dạy mẫu giáo mà
thôi, nhưng đó chẳng phải tốt đẹp gì, người ta cố ý dùng các ni cô, các nữ tu
dạy mẫu giáo là để giáo dục ngay từ nhỏ cho các tâm hồn thơ bé lòng yêu mến ông
Hồ Chí Minh, coi ông Hồ Chí Minh là một người tài đức hay là vị thánh gì đó.
Quyền tự do chính yếu
thứ năm, người ta biết rằng trong bộ máy cầm quyền này, từ trong các bộ, các
ngành trong quân đội, trong công an, không hề có những người theo tín ngưỡng
đích thực làm ở cấp bậc cao cả. Theo như tôi biết là trong quân đội, người có
tín ngưỡng cao nhất lên cấp đại tá mà thôi. Tất cả mọi hiệu trưởng phải là vô
thần cả, phải là đảng viên hết, không có những ai mà gọi là người trong tôn
giáo. Ở trong quốc hội thì có một vài thành viên là linh mục hay là tăng sĩ
nhưng đó là những người đã hoàn toàn thuộc về nhà nước rồi, chứ không phải là
những người thuần thành phục vụ cho tôn giáo ở trong đó. Và chúng ta biết rồi,
trong các bộ ngành không có một người theo tôn giáo nào mà làm các chức lớn như
là bộ trưởng hoặc làm tỉnh trưởng, tỉnh ủy cả, không bao giờ có.
Quyền tự do tôn giáo
chính yếu thứ sáu, đó là các tôn giáo không được quyền sở hữu đất đai y như mọi
người dân. Thậm chí muốn mở rộng hay thu hẹp lại một cơ sở thì phải xin phép,
thậm chí là có những tín đồ muốn biếu lô đất đai, nhà cửa cho tôn giáo thì
không thể biếu trực tiếp được mà nhiều khi phải qua trung gian của nhà nước.
Quyền tự do tôn giáo
chính yếu thứ bảy, đó là được đi ra ngoại quốc để mà lo vấn đề tôn giáo hoặc
mời người ngoại quốc đi vào thì tất cả đều phải xin phép. Một ví dụ rất cụ thể
là các vị giám mục công giáo, ở Việt Nam, muốn được làm giám mục Tòa Thánh
“chọn không đủ”, nhà nước phải can thiệp vào, phải có sự đồng ý của thủ tướng
thì một linh mục nào đó mới được trở thành giám mục. Đây là một sự can thiệp
vào mối liên hệ giữa Công giáo trong nước với thẩm quyền ở bên nước ngoài.
Không tự do tôn giáo –
và tiếp tục bị siết chặt
PV Kiều Phong: Thưa Cha Lợi, trong thời gian sắp tới, theo Cha
liệu nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam có thúc đẩy tự do tôn giáo hay không?
Linh mục Phan Văn Lợi: Thưa quý vị, tôi thiết nghĩ là không. Có
nhiều lí do trong đó để nói rằng là không.
Thứ nhất, chúng ta biết
rằng từ tháng 2 năm 2012, thì ông tân trưởng ban tôn giáo là một ông trung
tướng công an. Các trưởng ban tôn giáo chính phủ trước đây đều là những người
dân sự cả nhưng từ 2012 thì là một trung tướng công an, là ông Phạm Dũng làm
trưởng ban tôn giáo. Như thế, một ông công an mà làm trưởng ban tôn giáo thì
chứng tỏ nhà nước coi tôn giáo là một đối tượng về an ninh, gắn liền tôn giáo
với vấn đề an ninh, trật tự, xã hội, gia tăng sự cảnh giác đối với các tôn
giáo. Nhiều người phụ trách tôn giáo tại các địa phương cũng nằm trong ngành
công an cả.
Lí do thứ hai khiến tôi
không tin có sự thúc đẩy tự do tôn giáo, đó là nhà nước đã chuyển từ pháp lệnh
tín ngưỡng tôn giáo sang luật tín ngưỡng tôn giáo. Vừa rồi họ đã đưa ra một dự
thảo gọi là Dự thảo thứ IV, họ đã soạn với nhau mà không cho ai biết cả. Tới
lúc đưa ra cho các tôn giáo mà chỉ cho biết trong vòng có 15 ngày thôi, thì dự
luật tín ngưỡng tôn giáo này còn khắt khe hơn pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo năm
2004. Vì pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo năm 2004 có 6 chương và 41 điều, còn dự
luật tín ngưỡng tôn giáo năm 2015 có 12 chương và 71 điều, gần như gấp
đôi, nghĩa là tinh vi hơn và siết chặt hơn. Trong cái bản luật tôn giáo này
cũng không cho các tôn giáo có các quy chế pháp nhân, trong 72 điều của dự luật
tín ngưỡng này không hề có một chữ pháp nhân nào cả. Dự luật tôn giáo này tiếp
tục cơ chế xin-cho với đủ mọi loại giấy phép thể hiện qua câu nói đăng ký. Đăng
ký trong xã hội này có nghĩa là xin phép. Chúng tôi đếm được trong đó 23 từ
“đăng ký”, 7 từ “chấp thuận”, 10 từ “nhà nước và cơ quan nhà nước công nhận”,
có 36 từ là “quy định”, không có chuyện nào trong tôn giáo mà giáo hội không
phải xin phép, nhưng nhà nước được quyền cho hay không cho, nhằm mục đích giới
hạn tự do tôn giáo nghiêm ngặt hơn, khống chế lũng đoạn các giáo hội cách thâm
độc hơn. Nghĩa là, ra cái luật này sẽ khiến các tôn giáo sẽ yên tiếng trước tội
ác của nhà cầm quyền, bởi vì họ thấy rằng từ mấy năm nay, các tôn giáo đã ý
thức được quyền tự do của mình, lên tiếng cách này cách nọ, để mà góp ý về hiến
pháp, mới đây là góp ý về luật tín ngưỡng hoặc có những tổ chức tôn giáo hoặc
các chức sắc tôn giáo đứng lên để lên tiếng, để phản bác những bất công ở trong
xã hội này.
PV Kiều Phong: Xin cha lấy một ví dụ cụ thể cho thấy vì sao nhà
cầm quyền lại muốn siết chặt kiểm soát tôn giáo đến như vậy !
Linh mục Phan Văn Lợi: Tôi lấy ví dụ như Hội Đồng Liên Tôn Việt
Nam gồm đại diện của năm tôn giáo, thì những tiếng nói càng ngày càng mạnh
trong tôn giáo cất lên như thế làm cho nhà nước sợ hãi. Vì vậy họ phải tìm cách
để bịt miệng lại, trước hết họ bịt miệng bằng luật pháp, tức là họ đưa ra một
cái luật để hình sự hóa tất cả mọi quyền tự do tôn giáo, để làm cho các tôn
giáo không còn có thể bày tỏ bản chất của mình, vai trò của mình trong xã hội,
đó là phát ngôn nhân cho sự thật, chiến sĩ cho lẽ phải và chứng nhân cho tình
thương. Cho nên chúng tôi không nghĩ rằng là nhà nước sẽ hỗ trợ cho tự do tôn
giáo. Mà gần đây có một sự kiện, chỉ cách đây một vài hôm thôi, Uỷ hội tự do
tôn giáo quốc tế của Hoa Kỳ dự định sang Việt Nam để thị sát tình hình tôn giáo
thì đã không được nhà nước (Việt Nam) cho nhập cảnh. Cách đây hơn một tháng,
nhà nước cũng đã phản bác lại báo cáo về tự do tôn giáo của ông đặc phái
viên Liên Hợp Quốc, Heiner Bielefeldt, đã hoàn toàn phản bác những nhật xét rất
xác đáng của ông. Những điều đó cho chúng tôi thấy rằng không hi vọng gì vào
nhà nước sẽ mở rộng quyền tự do tôn giáo ở tại Việt Nam.
Công giáo với vấn đề tự
do tôn giáo ở Việt Nam
PV Kiều Phong: Một câu hỏi nữa, thưa linh mục Phan Văn Lợi,
theo cha, Tòa Thánh Vatican có hiểu rõ tình hình tôn giáo nói chung và Công
Giáo nói riêng đang bị áp bức tại Việt Nam hay không, và nhận xét của cha về
cách ứng xử của Vatican và đương kim Giáo Hoàng Francis đối với giới cầm quyền
Cộng Sản Việt Nam hiện tại?
Linh mục Phan Văn Lợi: Về việc Vatican có hiểu rõ tình hình tôn
giáo bị áp bức ở tại Việt Nam thì cũng tùy nhiều điều kiện. Thứ nhất, chúng ta
biết rằng, Tòa Thánh có những tai mắt ở tại Việt Nam. Trước hết đó là vị
đại diện không thường trực của Tòa Thánh, đức tổng giám mục Leopoldo Girelli,
thứ hai là các vị giám mục đang cai quản các giáo phận mà mỗi năm phải báo cáo
về tòa thánh những tình hình tôn giáo và Giáo Hội (Công giáo) tại Việt Nam.
Nhưng mà, báo cáo của vị đại diện của Tòa Thánh, của giám mục có đầy đủ và có
trung thực không lại còn là một chuyện. Chúng tôi nhận thấy rằng trong mấy năm
gần đây, khi mà vị đại diện của Tòa Thánh, Đức Tổng giám mục Leopoldo Girelli
đi thăm các giáo phận thì nhà nước để cho tự do, hết sức thoải mái, thậm chí
còn thúc giục các giáo phận phải tìm cách đón tiếp linh đình. Cái đó dễ gây ảo
tưởng cho cái vị đó, là ở Việt Nam có tự do tôn giáo và mọi sự đều tốt đẹp, mà
cái đó nằm trong âm mưu của nhà nước.
|
Giáo phận Bắc Ninh trong góp ý dự Luật tín
ngưỡng, tôn giáo đã cho rằng: "Quyền bính chính trị được nhân dân trao
cho nhà cầm quyền là để tạo điều kiện pháp lý và môi trường thuận lợi cho
việc thực thi quyền con người, chứ không phải để ban phát cách tùy
tiện." Ảnh: Thanh niên Công giáo
|
Cái thứ hai là đối với
các vị giám mục cũng vậy, nhà nước tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho
nhiều vị giám mục được xây cất, được tổ chức lễ hội hoặc được đi ra ngoại quốc.
Chính vì những ưu đãi như vậy mà có thể có những vị sẽ báo cáo mà quên đi những
mặt đen tối của vấn đề tôn giáo, quên đi việc nhà nước đang đàn áp tôn giáo của
mình và tôn giáo bạn. Trong khi đó chúng ta biết rằng những vị Giám mục đã lên
tiếng thẳng thắn thì luôn luôn gặp khó khăn, ví dụ như Đức giám mục Hoàng Đức
Oanh của giáo phận Kontum. Ngài là một trong những tiếng nói ngôn sứ mạnh mẽ,
nhưng ngài gặp rất nhiều chuyện khó khăn trong giáo phận của ngài. Linh mục của
ngài thậm chí bị hành hung, bị đánh đập, bị đuổi khỏi nhiệm sở của mình nữa. Có
thể báo cáo của ngài chính xác và đầy đủ, nhưng ngài lại là một trong những
trường hợp ít ỏi, hiếm hoi, cho nên việc Vatican có hiểu rõ tình hình tôn giáo
tại Việt Nam hay không, thì cái đó còn tùy những điều kiện như tôi vừa trình
bày ở trên.
Về cách ứng xử của Đức
Giáo Hoàng và Tòa Thánh đối với nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đương nhiệm như
thế nào, theo như tôi nhận thấy, trước hết vị Giáo Hoàng này là người
Argentina, từ bên thế giới Mĩ châu Latinh và về làm Giáo Hoàng, bên vùng đất đó
từ lâu nay đã nổi lên cái gọi là phong trào Thần học giải phóng, tức là một
phong trào ở trong tôn giáo, trong Công giáo mà chủ trương là cải tạo xã hội
theo nguyên tắc Marxist, nhưng phong trào Thần học giải phóng này bị các vị
giám mục ở bên Nam Mỹ phản bác vì không đúng với tinh thần của Ki-tô giáo, nên Đức
Giáo Hoàng Francis một người từ Argentina biết rõ Thần học giải phóng này cho
nên chắc chắn Ngài sẽ có một cái nhìn cảnh giác đối với các chế độ theo
Marxist, trong đó có chế độ Cộng Sản Việt Nam và ở Trung Quốc.
Thứ ba, tuy rằng, Đức
giáo hoàng Francis không có chủ trương lật đổ chế độ Cộng Sản như vị tiền nhiệm
của ngài là Đức Gio-an Phao-lô đệ nhị, chúng ta biết rằng Đức Gio-an Phao-lô đệ
nhị người gốc Ba-lan đã từng hợp tác với tổng thống Mỹ RonaldReagan, cũng như
tổng bí thư của Liên-xô Mikhail Gorbachev để xóa sổ chế độ cộng sản ở bên Đông
Âu. Nhưng riêng vị Giáo Hoàng đương thời này tuy rằng ngài không theo đường lối
của Đức Gio-an Phao-lô đệ nhị. Thực ra Đức giáo hoàng Gio-an Phao-lô đệ nhị đã
hoàn thành một công việc rất lớn rồi. Tuy rằng không theo nhưng Ngài luôn luôn
nhắc tới bổn phận làm chính trị cho mọi người Công giáo. Thời gian gần đây,
ngài luôn luôn nói rằng người công giáo phải làm chính trị, các vị lãnh đạo
tinh thần phải làm những cố vấn hỗ trợ về kiến thức chính trị cho những giáo dân.
Còn những giáo dân phải nhảy vào chính trường để mà cải tạo xã hội này, nói
chung lại ngài nói rằng đạo Công giáo phải tìm cách để mà chiến đấu cho công
lý. Và dĩ nhiên ngài cũng biết rằng ở tại xã hội Việt Nam này không hề có công
lý đúng nghĩa, không hề có sự tôn trọng nhân quyền và dân quyền như ở tại các
nước khác. Cho nên qua đó cũng là một cái thái độ của Đức giáo hoàng Francis
đối với Việt Nam.
Vấn đề là những người ở
tại Việt Nam là các quý vị lãnh đạo tinh thần cũng như các giáo dân có hiểu được
ý của Đức giáo hoàng để thi hành vai trò của mình là đòi công lý, thực hiện
công lý trong xã hội này không. Có nhiều tiếng nói ở tại Việt Nam cho rằng Hội
đồng giám mục Việt Nam, các dòng tu Việt Nam, các linh mục, các tu sĩ Việt Nam
phải nên bắt chước các giáo hội ở bên Đông Âu, là phải dấn thân hơn nữa để làm
cho đất nước này không có chủ nghĩa cộng sản là cái chủ nghĩa mà đầu độc tâm
trí con người, không còn chế độ cộng sản là chế độ mà tàn hại xã hội về mọi
phương diện; và trên ghế quyền lực không còn có đảng Cộng Sản mà bao nhiêu năm
nay đã tỏ ra bất nhân, bất lực, bất tài, đã không đem lại được gì, không mang
lại được gì, không ích lợi gì cho đất nước cả.
PV Kiều Phong: Vâng, sau đây là câu hỏi cuối cùng Kiều Phong
muốn nêu ra cho cha. Đó là, chúng ta có quyền hi vọng gì ở ý thức công dân của
người giáo dân Công giáo Việt Nam trong bối cảnh hiện nay?
Linh mục Phan Văn Lợi:
Vâng, kính thưa quý vị. Người công giáo Việt Nam giống như mọi người dân khác
đều đã hiểu rõ chế độ cộng sản, bốn mươi năm là quá đủ rồi, như là mấy câu khẩu
hiệu mà mới đây chúng ta thấy nhân cái dịp kỷ niệm 30/04, người giáo dân đã
hiểu rõ cái bản chất của chế độ này, những gì mà chế độ này đã làm trên đất
nước, cho nên chắc chắn là ý thức của họ về xã hội, về chế độ càng ngày càng rõ
ràng và càng ngày càng dâng cao. Đồng thời chắc chắn trong lòng họ cũng sôi sục
ước muốn là phải tìm cách dân chủ hóa đất nước. Nhưng mà ở trong Công giáo thì
lại có một cái sự kiện, đó là những người giáo dân ý thức như vậy, nhưng để ý
thức của họ mà bừng dậy thành hành động, để họ có thể liên kết với nhau được,
thì cái đó cũng có sự tác động của hàng lãnh đạo. Giáo hội Công giáo là một tổ
chức rất chặt chẽ, có kỷ luật, thì nếu mà ở bên dưới là khởi xướng nhưng mà
trên không đồng ý, trên vẫn im lặng thì vẫn không làm được gì. Còn ngược lại
nếu ở trên mà khởi xướng, nêu ra vấn đề, đưa ra chỉ thị thì ở dưới sẵn sàng để
mà đi theo. Cái này chúng ta thấy kinh nghiệm bên Đông Âu rồi.
Ở bên Đông Âu trước đây
và cuối thập niên 80 - đầu thập niên 90, chính các hàng lãnh đạo, các vị hồng y
giám mục ở bên đó đã là những con người mở đường cho phong trào dân chủ hóa đất
nước. Người ta còn thấy những tên tuổi như vị rất nổi tiếng, Đức hồng y Woityla
mà sau này trở thành Giáo hoàng Gio-an Phao-lô đệ nhị, rồi Đức hồng y Stepinac,
đức hồng y Tomko, và nhiều vị khác nữa. Chính các ngài là đầu tàu và biến quần
chúng thành sức mạnh ở đấy. Cái ý thức và cái đòi hỏi về dân chủ của người Công
giáo, người giáo dân ngày càng lớn vì họ thấm thía chế độ lắm, thấm thía hơn tất
cả những người trong hàng ngũ tu sĩ, linh mục, và giám mục, nhưng mà cần phải
có một sự đồng hành, cần có một sự hướng dẫn, cần có một sự thúc đẩy của hàng
lãnh đạo ở bên trên.Chính khi mà hàng lãnh đạo Giáo Hội đã từ bỏ cái mặc cảm là
làm chính trị, thật sự ra là hàng lãnh đạo phải làm chính trị trên phương diện
không phải đảng phái, không phải tham gia chính trường, nhưng mà như là những
người lãnh đạo tinh thần,như là những người cố vấn cho các giáo dân và biết
hướng dẫn các giáo dân đòi hỏi công lý, đòi hỏi tự do, dân chủ thì lúc đó cái ý
thức công dân của người giáo dân mới có thể đạt tới những thành tựu cho quê
hương đất nước Việt Nam.
PV Kiều Phong: Vâng, Kiều Phong xin được cám ơn Cha vì cuộc
phỏng vấn ngày hôm nay.
Linh mục Phan Văn Lợi: Xin cám ơn anh và xin cám ơn Việt Nam Thời
Báo đã có cuộc phỏng vấn này để cho chúng tôi được lên tiếng với đồng bào,
không những đồng bào công giáo mà tất cả mọi đồng bào Việt Nam, xin cám
ơn.