Trang

Thứ Bảy, 24 tháng 1, 2015

168. BNS THÔNG LIÊN 81. 01.01.2012. BÀI 02.


NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT.

CHẤT VẤN & THẢO LUẬN
“với tác giả tuyên bố số 03”.
&&&

Kính quí đồng sanh và đồng đạo.
Kính hiền Đoàn Quốc Thông tác giả tuyên bố số 03.
Trong tuyên bố số 03 ngày 03-10-Nhâm Thìn (16-11-2012) hiền có đề kính gởi …toàn thể tín đồ ĐĐTKPĐ – TTTN.
Chúng tôi là một số phần tử trong ĐĐTKPĐ xin có lời chất vấn và thảo luận với hiền như sau:


A- PHẦN CHẤT VẤN:
Nơi trang 01 từ dòng 15 đến dòng 18 hiền viết:
Không nhìn nhận Thông Tri và Đạo Lịnh 01. Vì lẽ 02 văn bản nầy có nội dung vi phạm vào Tân Luật và Pháp Chánh Truyền ĐĐTKPĐ – TTTN, trên cơ sở pháp lý của Hội Thánh ĐĐTKPĐ – TTTN hoàn toàn vô giá trị.
&&&
Thưa với hiền Quốc Thông.
Đạo có nhiều Thông Tri và Đạo Lịnh. Do hiền không nói rõ Thông Tri và Đạo Lịnh 01 ký ngày nào nên chúng tôi hiểu rằng hiền đề cập đến:
Thông tri số 001/HT-TT do Hội Thánh ký ngày 12-02-1979.
Đạo Lịnh số: 01/HT-ĐL Hội Thánh ký ngày 01-3-1979.
Hai văn bản trên đây tương quan mật thiết và có nhiều điểm tương đồng. Tôi xin phép chất vấn về Đạo lịnh số: 01/HT-ĐL (ĐL 01).
Phần chất vấn chia làm 02 câu.
1- Chất vấn 01:
Hiền viết: …Không nhìn nhận Thông Tri và Đạo Lịnh 01. Vì lẽ 02 văn bản nầy có nội dung vi phạm vào Tân Luật và Pháp Chánh Truyền ĐĐTKPĐ…
Xin với hiền vui lòng chỉ rõ ĐL 01 vi phạm điều nào trong Tân Luật và khoản nào trong Pháp Chánh Truyền.
Tân Luật có 64 điều thì ĐL 01 vi phạm điều nào?
PCT có PCT Cửu Trùng Đài Nam phái, Nữ phái; PCT Hiệp Thiên Đài… ĐL 01 vi phạm khoản nào?
Bởi vì Tôi có nghe nhiều người nói là vi phạm như hiền nói nhưng chưa ai chỉ ra được là vi phạm cụ thể điều nào trong Tân Luật? Khoản nào của PCT? Phạm pháp khác với phạm luật nên cần chỉ ra thật rõ. Còn như không chỉ ra được thì hiền phải thành thật nhìn nhận rằng do tin vào nhận định của người khác mà không tự kiểm chứng.
Kính hiền Quốc Thông.
Mở đầu ĐL 01 ghi rõ:  Chiếu y Tân Luật và Pháp Chánh Truyền,
ÐIỀU THỨ HAI:
chấp hành nghiêm chỉnh và đứng đắn Pháp Chánh Truyền, Tân Luật, Giáo pháp Chơn truyền của Ðạo và các biểu quyết của Hội Thánh về mặt Ðạo, lập các Ðạo Lịnh, Thông Tri, Huấn Lịnh, chỉ đạo chư Chức sắc Nam Nữ làm nhiệm vụ giáo hóa và phổ  độ nhơn sanh trên đường Ðạo và đường Ðời.
Bên dưới ĐL 01 có 11 con dấu và chữ ký của những vị hữu trách trong hành chánh tôn giáo.
Đương nhiên chúng tôi tin vào các vị chức sắc đương cầm quyền hành chánh hơn văn bản của hiền; nhưng trong tinh thần cầu thị chúng tôi sẳn sàng lắng nghe ý kiến của hiền để làm cho vấn đề được sáng tỏ. Biết đâu hiền lại có hiểu biết sâu sắc và sáng suốt hơn các vị chức sắc có Ấn Ký đã ghi trong ĐL 01.
Chúng tôi rất mong hiền trả lời bằng văn bản.

2- Chất vấn 02.
Hiền viết: …trên cơ sở pháp lý của Hội Thánh ĐĐTKPĐ – TTTN hoàn toàn vô giá trị.
Hiền đã đề cập đến cơ sở pháp lý của Hội Thánh nên chúng tôi nghĩ rằng PCT là vững chắc hơn hết. Xin trích đoạn PCT Hiệp Thiên Đài:
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: "Thầy khuyên các con lấy tánh vô tư mà hành đạo, Thầy cho các con biết trước rằng: Hễ trọng quyền thì ắt có trọng phạt".
CHÚ GIẢI: Vì lời khuyên của Thầy mà Đức Lý Giáo Tông xin buộc cả Chức Sắc Hiệp Thiên Đài phải Minh Thệ giữa Hội Thánh rằng: Lấy dạ vô tư mà hành Đạo, lại muốn tỏ ra rằng: Chức Sắc Hiệp Thiên Đài thật trọng quyền, Ngài mới ban dây sắc lịnh, buộc cả Tín Đồ và cả Chức Sắc Thiên Phong, hễ mỗi Chức Sắc Hiệp Thiên Đài mang dây sắc lịnh vào mình mà hành chánh nơi nào, thì phải tuân mạng, dầu lỗi quấy cũng phải chiều theo, chỉ để cho Hội Thánh có quyền định tội, lại buộc cả Chức Sắc nào đã thọ quyền của Hiệp Thiên Đài cũng phải minh thệ, y như vậy mới đặng hành chánh….
Theo PCT Hiệp Thiên Đài thì Ngài Hồ Bảo Đạo được ban dây sắc lịnh. Ngài thường nói Ngài chỉ có quyền Bảo Đạo (hữu hình) còn phần thiêng liêng thì Ngài Ca Bảo Đạo cầm. Nhưng Ngài vẫn được ban dây sắc lịnh. Ngài hành quyền Tướng Soái theo PCT ban cho (khi quyết định việc chi có quấy đi nữa) thì chỉ có Hội Thánh mới có quyền có ý kiến. Hội Thánh thời điểm 1979 thì đã đồng ý với ĐL 01 nên mới ký tên ban hành.
Chúng tôi chiếu theo PCT và thực tế thì ĐL 01 có đầy đủ pháp lý của Hội Thánh ĐĐTKPĐ trong đó. Vậy hiền vui lòng cho biết căn cứ vào đâu để hiền kết luận là Ấn Ký của Ngài Hồ Bảo Đạo là không có giá trị pháp lý? PCT là văn bản có giá trị cao nhất trong Pháp Luật đạo. Chắc chắn là hiền không có một văn bản nào có giá trị cao hơn PCT.
Nên khi Ngài Hồ Bảo Đạo đã có Ấn Ký trên ĐL 01 mà hiền viết là không có giá trị pháp lý thì hiền đã phạm vào PCT.
Hoằng khai ĐĐTKPĐ Thầy dạy: dân chủ mục (là thấy được) và tự do quyền (không phải xin cho). Tự do và dân chủ phải theo lẽ bác ái - công bằng. Nghĩa là tự do trong đạo đức và dân chủ có nhân quyền. Cho nên Thầy dạy lập ra cơ chế 03 Hội Lập Quyền Vạn Linh (03 HLQVL để cho con cái Thầy thể hiện tự do và dân chủ. Nội luật đã thể hiện:
Luật Lệ Chung Các Hội.
Ðiều Thứ Tám: Những việc Nghị viên muốn đem ra hội.
Nghị viên nào muốn xin canh cải, thêm bớt huỷ bỏ điều chi trong Luật đạo hoặc nói khác xin hạch hỏi, kích trách tại giữa hội thì phải gởi tờ xin trước ngày nhóm y theo hạng lệ đã định trong nội luật mỗi Hội nhóm..
Ðiều Thứ Chín: Quyền bàn tính.
Mổi Hội viên được quyền nói thông thả song phải thủ lễ nghĩa, giữ hạnh khiêm cung lấy lời tao nhã êm thuận chẳng nên nóng nãy và lớn tiếng mà làm cho mất vẽ ôn hoà của Hội.
Mỗi khi muốn nói phải đưa tay xin phép rồi chờ Nghị trưởng phân theo thứ tự cho phép mới được nói.
Chừng được phép nói, khi nhóm Ðại Hội nếu số Nghị viên trên hai mươi người thì phải đứng dậy nói.
Trong một cái vấn đề đem ra bàn luận thì Nghị viên được phép nói ba lần mà thôi, mỗi lần chẳng đặng quá 5 phút.
Nghị viên nào có xin trước y theo điều thứ tám đã buộc thì được quyền đem việc mình muốn xin sửa cải, hoặc mình muốn tra vấn, ra nói một lần trong nửa giờ; khi phải minh triết thêm nửa thì được nói thêm hai lần nửa, mổi lần 10 phút đồng hồ.
Khi hai hoặc nhiều Nghị viên đưa tay lên một lược xin phép nói thì Nghị trưởng định cho người chức lớn hoặc như đồng chức nhau thì người tuổi tác lớn nói trước rồi kế cho đến hết người xin một lược.
&&&
Nội luật Hội Nhơn Sanh.
Điều thứ tư. Khoản 04:
4- Xin sửa cải thêm bớt hay huỷ bỏ những luật lệ của Ðạo không phù hợp với trình độ trí thức tinh thần của Nhơn Sanh.
&&&
Theo Luật 03 HLQVL thì hiền có quyền trình. Còn quyết định thế nào là do toàn hội. Muốn tỏ điều chi thì hiền cứ chuẩn bị trình ra cho mọi người bàn luận công khai và quyết định khi hội. Tiếc thay hiền không làm theo cách đó mà tự mình làm cho mình phạm vào PCT.

&&&
B- ĐIỀU CẦN THẢO LUẬN CHO RÕ.
“Xác định HĐCQ ngày nay là một chi phái”.

Từ dòng 17 đến dòng 22 trang 01.
Nội dung đoạn nầy là hiền không nhìn nhận HĐCQ hiện nay và nêu ra những cái sai cụ thể của họ. Sang trang 02 hiền cũng nhận định họ sai thế nầy thế nọ…
Xin mừng là hiền đã hiểu được như thế; và xin chia buồn là hiền chỉ hiểu được như thế.
Bởi vì trong cả tuyên bố số 3 hiền chưa định quyết rằng từ năm 1997 HĐCQ xin hiến chương với chính phủ thì họ đã là một chi phái.
Điều nầy cũng giống như người viết bài luận văn mà thiếu kiến thức nên cứ nói lòng vòng, không viết được kết luận.
&&&

Chúng tôi chứng minh từ 1997 thì HĐCQ là một chi phái hầu hiền.
I- HIẾN CHƯƠNG 1965.
  ĐIỀU THỨ 1. - Danh hiệu là: Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, gọi tắt là (Đạo Cao Đài).
&&&
Hiến chương 1965 xác định cái gốc thể hiện nơi chương XII. THỐNG NHẤT và cuối hiến chương.
ĐIỀU THỨ 27. - Hiến Chương nầy sẽ là Luật căn bản thống nhứt đối với tất cả Chi Phái Cao Đài nào ngày sau chấp nhận và ký tên.

     Lập tại TÒA THÁNH TRUNG ƯƠNG
     Ngày 19 tháng 12 Giáp Thìn
     (21-01-1965 dl.)
T.M. HỘI THÁNH TÒA THÁNH TÂY NINH
     QUYỀN CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI
     BẢO THẾ
     Ấn Ký: Lê Thiện Phước
    
     CỬU TRÙNG ĐÀI
     ĐẦU SƯ
     Ấn Ký: Thượng Sáng Thanh
&&&

II- HIẾN CHƯƠNG 1997.
Điều 1: Danh hiệu Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Cao Đài Tây Ninh, gọi tắt là Đạo Cao Đài Tây Ninh.
Hiến chương 1997 là của chi phái như các chi phái khác nên không có tư cách của Trung Ương.
Điều 36: Dự án sửa đổi Hiến Chương do HĐCQ đề nghị lên Đại Hội Hội Thánh.
Hiến Chương nầy gồm: Lời Nói Đầu, 09 Chương và 36 Điều, được Đại Hội Đại biểu Cao Đài Tây Ninh họp tại Tòa Thánh Tây Ninh ngày 5-4-1997 biểu quyết nhất trí thông qua.
HỘI THÁNH ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ CAO ĐÀI TÂY NINH
HỘI ĐỒNG CHƯỞNG QUẢN.
&&&

III- SO SÁNH & KẾT LUẬN:
1- Danh hiệu:
So sánh bằng cách đơn giản nhất là đếm số chữ tại điều 01 hiến chương 1965 và hiến chương 1997 hiền cũng thấy đây là 02 khai sanh với 02 tên khác nhau:
+ Cái gốc có 06 chữ (gọi tắc 03 chữ).
+ Chi phái 1997 tên đầy đủ 10 chữ (gọi tắt có 05 chữ).
2- Tư cách Trung Ương.
Hiến chương 1965 ghi rõ tư cách Trung Ương.
Hiến chương 1997 không có tư cách Trung Ương.
Đến đây hy vọng rằng hiền có đủ dữ kiện để xác định HĐCQ ngày nay là một chi phái lập năm 1997.
3- Đạo Nghị Định thứ 8.
Điều thứ nhất: Những Chi Phái nào do bởi Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ làm gốc lập thành mà không do nơi mạng lịnh Hội Thánh, thì cả chúng sanh chẳng đặng nhìn nhận là của Chí Tôn và phải định quyết là Bàng Môn Tả Ðạo.
ĐL 01 qui định HĐCQ phải tuân y Tân Luật, PCT, Đạo Luật… ĐL 01 không ban quyền cho HĐCQ đổi danh hiệu của đạo, không ban quyền cho HĐCQ đem banh vàng, xanh, đỏ vào Cung Đạo thay cho cơ bút.
Theo đạo sử thì 03 HLQVL đã thông qua danh sách cầu phong Lễ Sanh từ Đại Hội Nhơn Sanh năm 1974 mà mãi đến 1976 Hội Thánh chưa dâng danh sách cho Đức Lý Giáo Tông chấm phái (tại cung Đạo). Do vậy mà cho đến nay các vị vẫn không có Thánh Danh của chức sắc. Luật đạo nghiêm nhặc như thế thì không thể chấp nhận mấy trái banh vàng, xanh, đỏ kia thay cho cơ bút đặng.
Tóm lại: HĐCQ đổi danh hiệu của đạo; đem banh vàng, xanh, đỏ vào cung đạo thay cho cơ bút để phong chức cho nhau là đã ra ngoài mạng lịnh Hội Thánh nên chúng tôi có đầy đủ cơ sở để kết luận: từ năm 1997 thì HĐCQ là một chi phái.
4- Mở rộng chứng cứ:
+ Còn như hiền chưa đủ tự tin để kết luận thì hiền mở internet. Gõ google.vn rồi vào TỦ SÁCH CAO ĐÀI hiện có trên internet. Hiền tìm biên bản phiên họp tại Hội Trường Ủy Ban Nhân Dân Huyện Hòa Thành ngày 06-3-1997. Hiền xem thêm sẽ rõ như ban ngày: Từ ngày xin hiến chương 1997 thì HĐCQ đã là một chi phái.
+ Hiền tìm đọc tổng kết hành đạo của chi phái 1997 thì họ cũng chỉ tổng kết từ 1997 đó thôi.
5- Kết luận:
Tóm lại: chúng tôi căn cứ vào:
-         02 hiến chương 1965 và hiến chương 1997.
- Đạo Nghị Định thứ 8. Điều 01
Để kết luận: kể từ 1997 HĐCQ là một chi phái ra đời ngay trong Nội Ô Tòa Thánh Tây Ninh.
&&&

C- ĐỀ NGHỊ SAI TRÁI CẦN BÁC BỎ:
“Do hiền nhận thức sai dẫn đến đề nghị sai”.
Trang 01 từ dòng 24 đến cuối trang 01 hiền nêu nhiều đề nghị với ông Lê Minh Khuyên (là người của chi phái 1997).
Ông Khuyên không thăng phẩm nhưng ông đã là người trong biên chế của chi phái từ 1997 và ông phục vụ cho chi phái rất tích cực. Hiền chưa nhận thức được kể từ 1997 thì HĐCQ là một chi phái nên có đề nghị rất sai trái với luật pháp đạo. Tiếp đây chúng tôi cung cấp vài thông tin về luật pháp đạo để tỏ rõ thêm sự sai trái của ông Khuyên trước công luận.
&&&
I- Dây sắc lịnh và ông Lê Minh Khuyên.
1- Các phẩm được PCT ban cho dây sắc lịnh.
Theo PCT HTĐ thì chỉ có Chưởng Quản 03 chi (Pháp, Đạo, Thế) và Thập Nhị Thời Quân là có dây sắc lịnh (tổng cộng có 15 phẩm có dây sắc lịnh). Căn cứ vào đâu mà khẳng định như vậy?
Xin thưa rằng: Căn cứ vào đạo phục chức sắc HTĐ trong PCT.
Khi chức sắc HTĐ thọ lịnh hành đạo từ một trong 15 phẩm kể trên thì vị ra lịnh đó có đủ quyền lập Thánh Lịnh ban dây sắc lịnh cho người mình sai phái. Người nhận Thánh Lịnh ban dây sắc lịnh từ chi nào thì thả mối theo chi đã ban Thánh Lịnh cho phân biệt.
2- Qui định ban dây sắc lịnh trong 03 HLQVL:
2.1- Trong Luật Lệ Chung Các Hội có qui định ban dây sắc lịnh cho vị phụ trách trật tự.   Ðiều Thứ Mười Ba:
Ðại Hội tại Toà Thánh. Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh.
Hai Hội nầy nhóm tại nhà nhóm trong Toà Thánh….
….Ty cảnh sát tuần phòng ở ngoài hầu giử.
Lúc nhóm Hội Nhơn Sanh thì một Lễ Sanh Phái Ngọc lãnh cai quản Ty ấy mặc thiên phục, buộc giây sắc lịnh Tam Sắc Ðạo của Hiệp Thiên Ðài ban cho trong lúc Hội nhóm khi Hội giải tán thì đem nạp lại cho Hiệp Thiên Ðài.
Lúc nhóm Hội Thánh thì một Giáo Hữu Phái Ngọc cai quản Ty ấy; mặc thiên phục buộc giây sắc lịnh Tam Sắc Ðạo của Hiệp Thiên Ðài ban cho trong lúc Hội nhóm. Khi Hội giải tán thì đem nạp lại cho Hiệp Thiên Ðài. (Mổi 2 giờ đồng hồ đổi phiên canh).
Theo chổ chúng tôi tìm hiểu với ông  Ông Lễ Sanh Thái Hai Thanh, ông Lễ Sanh Thượng Thiện Thanh, ông Lễ Sanh Thượng Tiếng Thanh, ông Lễ Sanh Ngọc Nghệ Thanh…được biết rằng hằng ngày khi hết giờ hội nhóm thì dây sắc lịnh đó được đem về Hiệp Thiên Đài, khi đến giờ thi hành phận sự mới được thỉnh về dùng theo qui định.
***: Theo nội luật Hội Nhơn Sanh nơi Ðiều Thứ Ba:
Một Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài đến chứng kiến và bảo thủ Luật Lệ không cho Hội phạm đến.
Chức sắc HTĐ được cử đến dự Đại Hội Nhơn Sanh dĩ nhiên là có Thánh Lịnh và được ban dây sắc lịnh.
Vi bằng Hội Nhơn Sanh năm 1974 có ghi lại việc Vị chức sắc đại diện cho Hiệp Thiên Đài (có đeo dây sắc lịnh) cầm chuông dành cho Chủ Tọa Hội Nhơn Sanh rung. Các nghị viên trong hội chất vấn quyền hạn của vị chức sắc nầy (có quyền rung chuông hay không) còn ghi lại đó.
Cũng trong cuộc hội năm 1974 nầy, vị đại diện HTĐ có tranh luận với nghị viên thì nghị viên phản ánh rằng vị đại diện cho HTĐ không có quyền tranh luận (không được quyền ra ngoài Thánh Lịnh).
Như vậy đủ để chứng tỏ việc dùng dây sắc lịnh rất nghiêm minh:
+ Thi hành nhiệm vụ cụ thể ghi trong Thánh Lịnh chớ không được ra ngoài phạm vi Thánh Lịnh. Khi xong việc thì đương nhiên phải đem dây sắc lịnh về trả lại.
+ Không bao giờ cho phép người được ban dây sắc lịnh cái quyền ban dây sắc lịnh cho người khác.
+ Chưa từng thấy trường hợp nào có một trong 15 phẩm kể trên lập Thánh Lịnh ban dây sắc lịnh cho phẩm bên dưới suốt đời.
2.2- Đặc quyền của 15 phẩm kể trên.
Theo PCT HTĐ thì một trong 15 phẩm kể trên có đủ quyền đặc biệt: … Lỗi quấy cũng phải chìu… .
Ông Khuyên muốn chứng minh tính hợp pháp khi đeo dây sắc lịnh vào năm 1997 thì phải trình ra được Thánh Lịnh của 01 trong 15 phẩm kể trên ký Thánh Lịnh ban dây sắc lịnh cho ông Khuyên suốt đời và dĩ nhiên Thánh Lịnh có ghi rõ ông Khuyên được phép dùng vào việc gì?.
Chúng tôi tin chắc rằng không có một vị nào trong 15 phẩm kể trên lập một Thánh Lịnh vượt qui định chung (dù rằng các vị có thẩm quyền để vượt ra khỏi qui định chung).
Ông Khuyên không thể “nổ” rằng không có Thánh Lịnh thu hồi nên ông cứ dùng. “Nổ” như thế tự thân đã trái với qui định ban dây sắc lịnh.
***: Nếu ông Khuyên trình ra được Thánh Lịnh ban dây sắc lịnh suốt đời thì chắc chắn là ông Khuyên cũng không có quyền ban dây sắc lịnh cho ông Truyền Trạng Trần Anh Dũng và trấn thần áo mão chi phái.
II- Đạo Luật Mậu Dần (1938).
 Chương thứ ba. PHỔ TẾ. Điều 14:  LUẬT
Chiếu theo Thánh Giáo của Đức Chí Tôn và Đạo Nghị Định số 8 của Đức Lý Giáo Tông, thì toàn cả Chúng Sanh nhứt định không nhìn nhận các Chi Phái phản Đạo và phải định quyết là Bàn Môn Tả Đạo.
Khoản 4 & 5 qui định:
4- Đối với các Chi Phái do Đại Đạo lập thành mà phản loạn Chơn Truyền, ngày nay đã lỗi thệ cùng Thầy, thì xin Hội Thánh thể lòng đại từ đại bi của Đức Chí Tôn, mở kỳ ân xá cho họ đặng nhập môn tái thệ y theo Châu Tri số 31 đề ngày 18 tháng 9 năm Bính Tý, duy trong Châu Thành Tòa Thánh, những kẻ phản Đạo không đặng nhập môn trở lại mà thôi.
5- Hiện thời đương lo tạo tác Tòa Thánh, cấm nhặt các Chi Phái vào Thánh Địa toan mưu khuấy rối. Chừng nào Toà Thánh lập xong, dầu Chức Sắc các Chi Phái muốn nhập môn làm Tín Đồ đi nữa, thì cũng phải có Quyền Vạn Linh và Quyền Chí Tôn công nhận mới đặng.
Đối chiếu các đoạn trích từ Đạo Luật thì hiền sẽ thấy đoạn trên trong tuyên bố số 3 của hiền hoàn toàn sai với pháp luật ĐĐTKPĐ.
Chính vì hiền không kết luận được từ 1997 HĐCQ là một chi phái nên mới đề nghị Ông Khuyên là người của chi phái về gánh vác việc phục hồi cơ đạo làm trò cười cho bậc thức giả, gieo hoang mang trong lòng người đạo trung kiên…..
&&&
( CÒN TIẾP)
D- GIẢO NGHIỆM THI HÀI ĐỨC HỘ PHÁP.
“hiền Quốc Thông tự mâu thuẩn”