CÓ GAN HỎI MÀ KHÔNG CÓ GAN NGHE TRẢ LỜI LÀ HẠNG NGƯỜI CHI VẬY?
Đạo Hữu Dương Xuân Lương trả lời ba câu hỏi của các chi phái nêu ra về Hội Thánh Cao Đài, Phước Thiện và Đức Hộ Pháp.
BBT được biết sau khi hiền huynh Lương trả lời thì diễn đàn không mời hội luận nữa.
Theo nhận xét của BBT: Các vị chi phái học theo Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý 171/B Cống Quỳnh tưởng đâu đưa ba câu hỏi ấy là dồn Đạo Hữu Dương Xuân Lương vào thế bí. Nhưng không ngờ phần trả lời đã làm rõ sự thật, nên diễn đàn tẽn tò, xấu hổ không dám đối thoại
Bản pdf :
https://drive.google.com/file/d/1qLYzdDuSifQd8phzpXhz3XXhyi1fWpb0/view?usp=sharing
BẢN WORK.
LỜI THƯA TRƯỚC.
Hiền muội Victoria gởi đến Tôi 03
câu hỏi của hiền huynh Nguyễn …. trong nhóm học đạo online. Đó là những câu hỏi
rất hữu ích để hậu tấn biết được sự thật về đạo pháp của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ
(ĐĐTKPĐ) nói tắt là Đạo Cao Đài lập năm 1926 tại Chùa Gò Kén, làng Long Thành,
tỉnh Tây Ninh.
Hiền huynh đã trích văn từ Pháp
Chánh Truyền Chú Giải (PCT CG), từ Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, …. Nghĩa là hiền
huynh đã tạo ra cơ sở để thảo luận rất hữu ích. Đạo dạy: Nhứt vi u ám tất
giai văn, Nhứt thiết chúng sanh thành chánh giác tạm hiểu: một điểm nhỏ còn
mờ hồ, chưa rõ cũng phải được soi sáng cho minh bạch, Đó là con đường mang đến
sự hiểu biết, sự giác ngộ chơn chánh. Do vậy Tôi rất hân hạnh và rất vui để
thảo luận, hồi đáp.
Trong việc học đạo, tu thân thì
THÀNH THẬT là căn bản. Mình có thành thật với lòng mình mới biết còn yếu kém
chỗ nào để học hỏi, lòng mình có biết hay không thì chỉ có mình hay các Đấng
Thiêng Liêng mới biết. Thánh ngôn dạy về chữ tâm:
Gắng sức trau-dồi một chữ tâm,
Đạo-Đời muôn việc chẳng sai lầm.
Tâm thành ắt đạt đường tu vững,
Tâm chánh mới mong mối Đạo cầm.
Tâm ái nhơn sanh an bốn biển,
Tâm hòa thiên hạ trị muôn năm.
Đường tâm cửa Thánh dồi chưa vẹn,
Có buổi hoài công bước Đạo tầm.
Ngài Tất Đạt Đa thành đạo là do
thành thật với chính lòng Ngài, khi Ngài tu khổ hạnh được mọi người thán phục
nhưng tự lòng Ngài biết chưa đạt đến chân lý nên tìm con đường khác, nhờ vậy mà
nhân loại có Đức Thích Ca. Nếu Ngài không thành thật với lòng thì Ngài chẳng
thành Phật. DI LẶC CHƠN KINH do Ngài giáng cơ dạy:
KHAI KINH KỆ
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim thính văn đắc thọ trì
Nguyện giải Tân kinh chơn thiệt nghĩa
Tạm hiểu: Đến Tam Kỳ Phổ Độ Đức
Thích Ca mới nghe và đắc nghĩa DI LẶC CHƠN KINH nên giáng cơ giảng dạy. Bậc
minh triết như vậy mà mấy ngàn năm sau khi nhập Niết Bàn mới tường minh đạo
pháp thời Tam Kỳ Phổ Độ thì người đang học đạo như Tôi đâu dám cho mình là
biết.
Tự do là quyền của Thượng Đế ban
cho, do vậy Tôi xin thưa trước là Tôi hồi đáp để tạ lòng bạn đồng sanh, không
thuyết phục bất cứ ai thay đổi quan điểm hay lập trường trên đường học đạo,
hành đạo. May mà được có sự đồng cảm là do ơn trên bố hóa trong tâm hồn người
đọc. Tôi chỉ căn cứ vào chánh văn để tìm tòi chơn lý, trình bày hiểu của mình
về thể pháp, đạo pháp để quý bạn quyết định. Vui lòng lượng thứ những sai sót
Tôi thành thật biết ơn.
Nay kính.
Đạo Hữu Dương Xuân Lương.
Email: hoabinhchungsong220513@yahoo.com
Nguyên văn ba câu vấn:
Kính
thưa quý Huynh Tỷ trong nhóm học Đạo.
Hôm nay được Huynh … cho xem
4 câu hỏi của HH Dương Xuân Lương gởi cho nhóm học Đạo. Tệ đệ nhận thấy
nếu có thể trong tương lai, chúng ta cần mời HH Dương Xuân Lương cùng tham gia
thảo luận với chúng ta, để chúng ta cùng thảo luận và làm sáng tỏ một số khúc
mắc liên quan đến sự phân chia chi Phái (nhánh)
Tệ đê Xin phép được hỏi
lại huynh Dương Xuân Lương
1/ Nhánh chính (Hội Thánh Toà Thánh Tây Ninh) có
làm đúng lời dạy của Thầy và làm đúng vai trò của một Tổ Đình của Đại Đạo Tam
Kỳ Phổ Độ chưa?
A/ Thầy dạy “Thương
Yêu” nhưng quý Tiền Bối thưở ban đầu đả thực hiện “HẠNH “, Thương
Yêu như thế nào để dẩn đến xích mích và dẩn đến sự phân nhánh? Đơn cử là sự Độc Tài, Độc Tôn
của Hộ Pháp Phạm Công Tắc. Hiện nay đa số tín hửu của Hội Thánh TTTN vẩn còn kỳ
thị và xem các Chi Phái (Nhánh) khác là Bàn Môn Tả Đạo (theo tinh thần của ĐNĐ
số 8); như vậy có đúng theo Hạnh Thương Yêu mà Thầy đả dạy? Mục đích của Thầy
lập nên DDTKPĐ là để Tận Độ chúng sanh (kể cả người bàn môn tả Đạo). Và
chính THẦY
đả khằng định trong TNHT “Mấy nhánh rồi sau củng một nhà ...
B/ Giáo Chủ của Hội
Thánh Toà Thánh Tây Ninh là ai? Là “Thầy “- Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế
hay là Hộ Pháp Phạm Công Tắc. Đơn cử là TTTN tôn xưng Hộ Pháp là Thầy là Giáo
Chủ Hửu Hình. Nếu Hộ Pháp tự xưng như vậy
có đúng với Hạnh Khiêm Nhường của một bậc tu hành và có phạm thượng với Đức Chí
Tôn không? Trong khi đó Thầy đả dạy “Chính mình Thầy đến dạy dổ các con; chẳng
chịu giao chánh giáo chi tay PHÀM nửa”
C/ Khi quý tiền bối bắt đầu
vọng thiên cầu Đạo, Đức Chí Tôn (danh xưng lúc đó là AAA) đả cấm các Ngài không
được hỏi chuyện chính trị hay bàn chuyện quốc sự. Nhưng sau này Đức Hộ Pháp
tiếp tục làm chính trị, làm lảnh tụ một đảng phái. Như vậy HP có làm đúng vai
trò của mình không?
2/ Tổ Chức Hành Chánh (Thể
Pháp) của Hội Thánh TTTN có làm đúng theo Pháp Chánh Truyền Không? Đơn cử, Đức HP lập ra vây
cánh cho riêng mình (Phạm Môn, Phạm Nghiệp, …). Sau này khi bị chống đối thì
Ngài đổi thành Hội Thánh Phước Thiện (với Phẩm vị cao nhất là Phật Vị; tương
đương với Giáo Tông và Hộ Pháp). NHƯNG, trớ trêu thay, cái Hội Thánh này lại
được đặt dưới sự lảnh đạo của một vị Bảo Thế (một chi của Hội Thánh Hiệp Thiên
Đài), một việc Tréo cẳng Ngổng?
3/
Tôn chỉ của DĐTKPĐ là Từ Bi, Bác Ái, Công Bình. Trước khi vào Tịnh Tâm Điện của
Hiệp Thiên Đài có treo hình một cây cân Công Bình. Nhưng HP và Hội Thánh
TTTN có thực hiện hạnh Công Bình hay không? Đơn cử là HT TTTN đồng thuận
chính sách Độc Tài của HP Phạm Công Tắc và HP củng ngang nhiên nắm quyền cả hai
Đài Hành Pháp (CTD) và Bảo Pháp (HTĐ). Cho dù về phần tình có hợp cho mấy thì
về phần LÝ nó sai hoàn toàn. Thầy dạy, nếu một ngày nào trên thế gian này còn
một cảnh bất Công (bình), thì Đạo chưa thành.
On
Friday, June 28, 2024,
HẾT.
PHẦN HỒI ĐÁP.
Trước khi đi vào phần hồi đáp từng
vấn đề, hay sự kiện cụ thể tôi xin giới thiệu sơ đồ tổng thể của ĐĐTKPĐ và sơ
lược đôi dòng để việc trình bày được liền lạc. Hiểu được sơ đồ nầy là đã thông
được phân nửa vấn đề.
Sơ đồ tổng thể của ĐĐTKPĐ.
Bát Quái Đài là linh hồn của đạo
(thần) do Đức Chí Tôn vi chủ, BQĐ là vô vi cầm quyền lập pháp.
Hiệp Thiên Đài là chơn thần của đạo
(khí), Đức Chí Tôn là Chủ Quản và Đức Hộ Pháp là Chưởng Quản, HTĐ là bán hữu
hình, cầm quyền tư pháp.
Cửu Trùng Đài là xác thân của đạo,
là hình thể của Chí Tôn tại thế do Lý Giáo Tông là làm chủ, CTĐ cầm quyền hành
pháp.
Hành Chánh Đạo – Chánh Trị Đạo –
Phước Thiện.
Cửu Trùng Đài (Hành Chánh Đạo) là
Thánh Thể Đức Chí Tôn vậy Thánh Thể ấy hành đạo theo bài bản nào?
Sau khi lập thành Thánh Thể Đức Chí
Tôn dạy lập ra Chánh Trị Đạo là Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh để viết kịch bản cho
Hành Chánh Đạo thực hiện.
Có Hành Chánh Đạo và Chánh Trị Đạo
thì tài chánh đâu để hoạt động? Nếu hiểu kinh tế, tài chánh huyết mạch của xã
hội thì Phước Thiện chính là nguồn máu để Hành Chánh Đạo và Chánh Trị Đạo hoạt
động. Xã hội là tài nguyên, môi trường để xây dựng nền văn minh mới theo luật
cung-cầu.
Xin nêu một ví dụ cho dễ hiểu thì
một đoàn hát phải có đào kép, nhạc cụ, sân khấu (Hành Chánh), có người soạn
tuồng (Chánh Trị Đạo) và có tiền để duy trì đoàn hát (Phước Thiện). Xã hội là
khán giả.
Câu 1.
1/ Nhánh
chính (Hội Thánh Toà Thánh Tây Ninh) có làm đúng lời dạy của Thầy và làm đúng
vai trò của một Tổ Đình của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ chưa?
Hồi
đáp.
Đoạn
nầy Tôi chia làm 2 phần: nhánh chính và phần còn lại.
I/- Chữ nhánh chính:
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Q 1 trang 7, bản in 1972. Thầy dạy ngày 20-2-1926. … Cái
nhánh các con là nhánh chính mình THẦY làm chủ, sau các con sẽ hiểu. … (ảnh
chụp).
Phân tích & nhận xét:
… Cái nhánh các con là nhánh chính mình THẦY làm chủ, trong câu nầy chữ nhánh
là số ít, không phải số nhiều. Chữ nhánh số ít có nghĩa là chỉ có
một, không có cái thứ hai. Chữ Cái nhánh các con có nghĩa là cái
nhánh Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ và do chính THẦY làm chủ (là nhánh chính mình
THẦY làm chủ,). Nếu hiểu ĐĐTKPĐ là nhánh chính thì sẽ dẫn đến câu hỏi nhánh
phụ ở đâu? Có nhánh chính, nhánh phụ thì chữ nhánh biến sang số nhiều, là trái
với lời dạy trên. Tóm lại: Thời Tam Kỳ Phổ Độ Thầy (là gốc, là chủ) mở chỉ có
một nhánh ĐĐTKPĐ nói tắt là Đạo Cao Đài do chính Thầy làm chủ.
Tân luật Chương II. Điều thứ chín:
Muốn xin nhập môn phải có hai người đạo đức tiến dẫn đến người làm đầu trong
Họ. Hai người tiến dẫn phải lo lắng chỉ biểu và dìu dắt người mới cho hiểu biết
đạo lý. (Hết trích).
Khi nhập môn phải minh thệ: “Tên
gì? ... Họ gì? ... Thề rằng: Từ đây biết một Đạo Cao-Đài Ngọc-Đế, chẳng đổi dạ
đổi lòng, hiệp đồng Chư Môn-Đệ, gìn luật lệ Cao-Đài, như sau có lòng hai
thì Thiên-tru, Địa-lục.”
Câu Từ đây biết một Đạo Cao-Đài
Ngọc-Đế, ta thấy chữ một là số ít, một Đạo Cao Đài Ngọc Đế
là số ít, cả câu là số ít nên là chỉ có một Đạo Cao Đài Ngọc Đế. Ngọc Đế là
Thượng Đế, là Trời là Đức Chí Tôn dù gọi là gì thì cũng chỉ có một Đấng. Cả câu
đó có nghĩa là Đức Ngọc Đế lập ra một Đạo Cao Đài. Ngọc Đế không lập hai Đạo
Cao Đài, nếu có Đạo Cao Đài thứ hai thì đó không phải của Ngọc Đế lập.
Đối chiếu ý nghĩa đoạn: Cái nhánh các con là nhánh chính mình THẦY
làm chủ với đoạn Từ đây biết một Đạo Cao-Đài Ngọc-Đế, ta thấy cả hai
đều là số ít nên phù hợp nhau.
Tôi rất ấn tượng và hoan nghinh
hiền huynh M trả lời rất minh bạch là Thầy không dạy phân nhánh nên tra
cứu để hưởng ứng.
1/- Ba nhánh: Phật, Tiên, Nho.
Trích từ Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo,
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
1.1/- Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo
bài KHAI KINH câu 5-10:
Trong Tam giáo có lời khuyến dạy,
Gốc bởi lòng làm phải làm lành.
Trung Dung Khổng Thánh chỉ rành,
Từ bi Phật dặn: lòng thành lòng nhơn.
Phép Tiên đạo: tu chơn dưỡng tánh,
Một cội sanh ba nhánh in nhau.
Như vậy Kinh dạy có 3 nhánh và tên
gọi Nho, Phật (Thích), Tiên (Lão). Đây là ba nhánh thời Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ Phổ
Độ và cả ba nhánh đều từ một gốc sanh ra, gốc đó là Đạo là Thượng Đế.
1.2/ Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
Q 2 trang 210, bản in 1972, (23-1-1926).
Chín Trời mười Phật cũng là Ta,
Truyền đạo chia ra nhánh nhóc ba.
Hiệp một chủ quyền tay nắm giữ,
Thánh Tiên Phật Đạo vốn như nhà.
Bài thi trên đã xác định có 3
nhánh, tên của ba nhánh: Thánh Tiên Phật và ngày nay Thầy Hiệp một chủ quyền
tay nắm giữ, …. Vậy Hiệp một chủ quyền tay nắm giữ, có nghĩa là gì?
Theo Thánh Ngôn dạy Thầy dụng tinh hoa của Tam Giáo và Ngũ chi đưa vào trong
pháp luật, giáo lý ĐĐTKPĐ là cái nhánh do chính mình Thầy làm chủ. Phật Mẫu
Chơn Kinh câu 41-44:
Hiệp vạn chủng nhứt môn đồng mạch,
Qui thiên lương quyết sách vận trù.
Xuân Thu, Phất Chủ, Bát Vu,
Hiệp qui Tam Giáo hữu cầu chí chơn.
2/- Ba Thời kỳ hai Nguyên lý hay
Tại sao Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ Phổ Độ có 3 nhánh và Tam Kỳ Phổ Độ có một nhánh?
Trả lời câu hỏi trên thiết tưởng
phải căn cứ vào chơn truyền, nguyên lý của các thời kỳ. Chơn truyền của Nhứt Kỳ
và Nhị Kỳ là Đạo từ vô vi xuống lần đến hữu hình, nguyên lý của hai thời
kỳ nầy là Nhứt bản tán vạn thù (từ một gốc phân ra nhiều hình thức). Khai
thiên lập địa Thầy lập Phật giáo trước, kế đến Tiên giáo rồi mới tới Nho giáo. Hai
thời kỳ nầy nhân loại từ ăn lông ở lỗ tiến đến văn minh nông nghiệp, con người
di chuyển bằng cơ bắp hay sức kéo của gia súc nên còn ngăn cách bởi địa lý (Càn
vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt) nên Thầy phân ra làm ba nhánh (Phật, Tiên,
Nho) để khai sáng. Thầy lại cho quyền mỗi nhánh lập ra nhiều chi phái cho phù
hợp với tài nguyên và môi trường của vùng miền mà sống đạo và hành đạo (Ngũ
Chi).
Chơn truyền của Tam Kỳ Phổ Độ là Đạo từ
hữu hình tiến lần đến vô vi, nên nguyên lý của Tam Kỳ Phổ Độ Vạn thù quy
nhứt bản (từ nhiều hình thức khác nhau trở về cái gốc là đạo). Thời Tam Kỳ
Phổ Độ nhân loại đi từ văn minh nông nghiệp, tiến lên văn minh công nghiệp, văn
minh điện và điện tử. Nhân loại bước vào thời kỳ năm châu chung chợ, bốn biển
chung nhà Càn Khôn dĩ tận thức, các nền văn hóa giao lưu nhau nên xảy ra xung
đột. Thầy đến Quy Nguyên Tam Giáo, Hiệp Nhứt Ngũ Chi lại làm một và dạy thêm
những điều mới để xây dựng nền văn minh mới. PCT CG: Chí Tôn đã định khai
đạo đặng thị chứng cho các Tôn Giáo biết nhìn nhau trong đường hành thiện, trừ
tuyệt hại tranh đấu thù hiềm, làm cho Thế Giới đặng hòa bình, thoát cơ tận
diệt. Tam Kỳ Phổ Độ là buổi phản tiền vi hậu nên lập Tam giáo qui nhứt
thì Nho là trước, Lão là giữa và Thích là chót. Thầy ngồi sau chư Phật, Tiên,
Thánh, Thần mà đưa chúng nó lại vô vi chi khí, chính là Niết Bàn đó vậy.
Cho nên Đạo Cao Đài dụng Nho Tông chuyển thế.
Do nguyên lý của Tam Kỳ Phổ Độ nên
Thầy lập có một nhánh là ĐĐTKPĐ hay là một Đạo Cao Đài của Ngọc Đế, cả hai cách
gọi cho một thực thể đều là số ít.
II/- … (Hội Thánh Toà Thánh Tây Ninh) có làm đúng lời dạy của Thầy và
làm đúng vai trò của một Tổ Đình của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ chưa? (Vấn)
Hồi đáp:
Muốn biết đúng hay chưa thì căn cứ vào đâu? Thiển nghĩ Thầy cầm
cân công bằng nếu Thầy gia ân cho Hội Thánh tại Tòa Thánh Tây Ninh hoàn thành
nhiệm vụ là Hội Thánh làm đúng vai trò tổ đình ĐĐTKPĐ.
Vậy nhiệm vụ của Hội Thánh là gì? Đạo có thể pháp và bí pháp,
vậy nhiệm vụ của Hội Thánh là xây dựng thể pháp để thực thi bí pháp. Thể pháp
là hữu hình, xem xét được, nếu có thể pháp thì ắt có bí pháp.
Thể pháp là phần hữu hình nhìn thấy
được như: công trình kiến trúc (bao gồm phương hướng, hình dáng, màu sắc), cách thức bố trí nguồn máy nhân sự hay hành chánh tôn giáo, kinh, sách, nghi lễ trong tôn giáo nhằm thể hiện triết lý của tôn giáo về vũ trụ, nhân sinh hay xã hội. Thể pháp là hữu hình nên kiểm chứng được.
Bí pháp là phần ý nghĩa hay thông điệp ẩn tàng trong thể pháp. Bí pháp bao
gồm phần tìm hiểu cách thức vận hành để đạt được mục đích. Từ đó vạch ra chương trình, đề ra kế hoạch để thực thi. Nên nó tùy
theo tài nguyên, môi trường (khoa học kỹ thuật, phương tiện, nhân sự) của Đạo
hay Đời mà thể hiện. Bí pháp
trừu tượng, khó kiểm chứng nên phải nhờ thể pháp để lý hội.
Thể pháp là đất đứng là
đôi mắt mà bí pháp là tầm nhìn, là trí huệ... hướng đến chơn pháp của đạo. Về xã hội là xây dựng xã hội hòa bình, dân
chủ, tự do; thực thi tam lập (lập công, lập đức, lập ngôn) để dâng công đổi vị
khi bỏ xác phàm. Thể pháp là phương tiện, bí pháp là cứu cánh. Hể có thể pháp thì ắt có bí pháp.
Tóm lại: Sau khi các vị tiền bối tách đi, Thầy ban ơn cho Hội Thánh xây
dựng nên thể pháp là Hội Thánh làm đúng. Điều nầy đúng với nguyên lý của ĐĐTKPĐ
là đi từ hữu hình đến vô vi. Khi hữu hình không có mà nói đến vô vi chỉ là hữu
hư vô thiệt, không có gì để tin, mười voi không được bát xáo là vậy.
Pháp Chánh Truyền Chú Giải (PCTCG)
ban hành ngày 02-04-1931, bản in 1972 trang 93: Đạo có thể pháp làm ngoại
dung, và bí pháp làm nội dung, mà thể pháp tác thành mười điều chẳng đặng ba,
còn bí pháp thì chưa ai hiểu thấu, làm cho Đạo mất giá trị trước mắt chúng
sanh, đức tin càng ngày càng khuyết giảm. Để thế lực cho các Tôn Giáo khác công
kích Chánh-truyền, mà hại cho người hết lòng vì Đạo phải ngại ngại lo lo về
điều hư thiệt … Đó
là năm 1931.
Vậy khi các vị tiền bối tách ra khỏi Tòa Thánh Tây Ninh (1934)
các Đấng đã ban cho Hội Thánh tại Tòa Thánh Tây Ninh những thể pháp gì?
1/- Về kiến trúc.
Thầy dạy: chi chi cũng tại Tây Ninh … khi các vị Tiền bối tách ra khỏi
Hội Thánh tại Tòa Thánh Tây Ninh thì là thể pháp gốc của đạo là Tòa Thánh Tây
Ninh chưa nên hình tướng.
Ngày
09-4-Ất Hợi 1935 Hội Thánh mở phiên họp bàn việc tu bổ Tòa Thánh, (Châu tri số
06 ngày 08-5-Ất Hợi “12-7-1935”).
Đầu
năm 1936 quyết định tiến hành xây dựng Đền Thánh trong hoàn cảnh khủng hoảng
kinh tế thế giới và đẩy thế giới vào Đệ nhị thế chiến 1939-1945. Trong tủ của
Hội Thánh chỉ có 1$46, giá lúa 0$20 một giạ …. (Lời Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp ngày
08-4-Nhâm Thìn “1952”).
Ngày
01-11-Bính Tý 1946 (14-12-1936) khởi công xây dựng. Các sử liệu đều nhìn nhận
rằng: Đền Thánh không có họa đồ thiết kế hay bản vẽ trước, hằng đêm Đức Hộ Pháp
được Đức Lý Giáo Tông chỉ dẫn. Cứ mổi sáng Đức Hộ Pháp chỉ dẫn cho công quả làm
công việc, làm xong phần đó là nghĩ. Có xin làm thêm Đức Hộ Pháp trả lời: Qua
được dạy có bấy nhiêu. Người làm công quả phát nguyện chay lạc 100% và thủ
trinh trong suốt thời gian xây dựng.
Đến
1941 thì Đức Hộ Pháp và nhiều Chức sắc khác bị Pháp bắt và đày đi Madagascar.
Tòa Thánh bị Pháp chiếm làm cho hư hại. Năm 1946 Đức Hộ Pháp trở về Tòa Thánh
và tiếp tục công trình. Đến năm 1955 mới tổ chức Lễ Khánh Thành.
Hội
Thánh được thiêng liêng chỉ dạy để tạo tác Bạch Ngọc Kinh hữu hình là Đền
Thánh. Thiêng Liêng cũng chỉ dạy để hoàn thành Bạch Ngọc Kinh vô vi ngay trước
Đền Thánh. Hội Thánh làm đúng nên thiêng liêng mới cầm tay chỉ việc để Đạo Pháp
hiện hữu như thế.
2/- Xây dựng Châu Thành Thánh Địa:
Khi các vị tiền bối tách đi chưa có qui hoạch vùng Châu Thành Thánh Địa và 40
cây số vuông làm thủ đô tôn giáo. Chưa có các thể pháp vệ tinh xung quanh Tòa
Thánh như Long Hoa Thị (Long Hoa chuyển thế), Lộ Trung Tim, Lộ Chánh Môn...
Chưa có Trí Huệ Cung và các thể pháp xung quanh như Sân bay, Ao Thất Bửu, Tân
Dân Thị, Long Hải Thị, Thiên Dương Thị, Thiên Thọ Lộ…, Trí Giác Cung, Vạn Pháp
Cung, Cực Lạc Thái Bình, Cầu Kỹ Nghệ, …các con đường và tên các con đường dẫn
về Tòa Thánh Tây Ninh chưa có kiến thiết đường xá vùng Châu Thành Thánh Địa có
tỷ lệ đường giao thông lớn nhất Việt Nam hiện nay. Trước 1975 nghề sản xuất
tinh bột mì của tỉnh Tây Ninh đứng đầu miền Nam Việt về chất lượng và số lượng
chính là nhờ Đức Hộ Pháp dạy lập Hợp Tác Xã Dân Sanh.
Hội Thánh được chỉ dạy 05 phương
án: gia cư, mưu sinh, giáo huấn, kiến thiết và tôn giáo để nâng cao dân đức,
dân trí, dân sinh (tam bửu ngũ hành) xây dựng Châu Thành Thánh Địa làm mẫu mực
cho việc lập những làng xóm Cao Đài sau nầy.
3/- Về Kinh văn.
Chưa có Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo, đến 1935 Thầy và các Đấng mới ban Kinh. Đến
1963 Hội Thánh phát hành Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Q2 (Lời Tựa Q1 đã xác định có 2
quyển).
4/- Hội Thánh Cao Đài. Là
hình thể hữu vi của Đức Chí Tôn được bổ sung, khi ban hành PCT CG các phẩm chức
sắc Hiệp Thiên Đài dưới Thập Nhị Bảo Quân chưa có, đến năm 1935 Đức Nguyệt Tâm
Chơn Nhơn nới giáng cơ dạy lập ra các phẩm từ Tiếp Dẫn Đạo Nhơn đến Sĩ Tải.
Năm 1937 Đức Hộ Pháp được mật lịnh
của Đức Chí Tôn giao quyền phong thưởng Chức sắc Cửu Trùng Đài cho Ba Hội Lập
Quyền Vạn Linh sau đó mới dâng lên cho các Đấng định quyết tại Cung Đạo.
5/- Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh.
Ngày 02-4-1931 ban hành Pháp Chánh Truyền Chú Giải thì đến 24-11-1931 mới có
Hội Nhơn Sanh lần đầu tiên, 24-26 tháng 12 năm 1931 mới có Hội Hội Thánh lần
đầu và đến 04, 05, 06 tháng 01 năm 1932 mới có Thượng Hội.
Sau khi có Hội Nhơn Sanh
(24-11-1931) rồi đến ngày 23-12-1931 (một tháng sau) Đức Chí Tôn mới dạy về Hội
Nhơn Sanh, Hội Hội Thánh và Thượng Hội (Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh) tại Thảo Xá
Hiền Cung (TNHT Q 2). Nghĩa là khi ban hành Pháp Chánh Truyền Chú Giải chưa có
Chánh Trị Đạo.
Trong đàn cơ trên Đức Chí Tôn dạy: Các
con phải nhớ rằng trên toàn thế giới Càn-Khôn, chỉnh có hai quyền: trên là
quyền hành CHÍ TÔN của Thầy, dưới là quyền hành của sanh chúng. Thầy đã lập
hình thể hữu vi của Thầy nghĩa là Hội Thánh của Đại Đạo ngày nay rồi thì Thầy
cũng phải ban quyền hành trọn vẹn của Thầy cho hình thể ấy, đặng đủ phương tận
độ chúng sanh, dưới quyền hành chuyển thế của đời, nghĩa là toàn nhơn loại đồng
quyền cùng Thầy, mà tạo hóa vạn linh vốn là con cái của Thầy, vậy thì vạn linh
cũng có thế đoạt vị vào hàng Thần, Thánh, Tiên, Phật đặng…
Sau khi các vị tiền bối tách đi rồi
Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh mới được kiện toàn. Đại Hội Nhơn Sanh năm 1974 (Giáp
Dần) kéo dài hơn hai tháng, những nội dung thảo luận trong Đại Hội cho thấy sự
phát triển vững mạnh của Quyền Vạn Linh. Hội Thánh Cao Đài dạy: Đạo Cao Đài có
Quyền Vạn Linh nhưng không có Hội Vạn Linh chính là lập quyền cho người đạo.
6/- Đặc biệt là chưa có Phước Thiện:
Phước Thiện không có trong Pháp Chánh Truyền nhưng Pháp Chánh Truyền xuất phát
từ Thiên Thơ (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển) thì Phước Thiện cũng từ trong Thiên Thơ mà
ra. Nhân sự Pháp Chánh Truyền Nam Phái có số lượng, nhân sự Phước Thiện không
giới hạn nên mới đủ chỗ cho con cái Chí Tôn lập công đạt vị. Cửu Trùng Đài giải
khổ về tinh thần. Phước Thiện giải khổ về vật chất. Cả hai tương đắc mới mong
tạo thời cải thế, tạo được thế giới mới, văn minh mới.
7/- Lý hội thể pháp và bí pháp. Hình
học là một khoa học nhưng vẫn phải nhờ những khái niệm như hình ảnh mặt nước
yên lặng cho ta khái niệm về mặt phẳng, hình ảnh sợi chỉ căng thẳng cho ta khái
niệm về đường thẳng. Từ đó có những định đề… và chứng minh…
Trong cuộc sống có những cái không
thấy được nhưng cảm nhận được như không khí chúng ta không thấy được nhưng ai
cũng phải chấp nhận có với những tên gọi khác nhau. Không ai thấy được trí
thông minh của người khác nhưng qua cách ứng xử, cách giải quyết, cách xử lý mà
ta cảm nhận được sự thông minh.
Trong đạo học hay niềm tin có những
vấn đề không thể chứng minh mà chỉ có thể lý hội hay mặc khải để hiểu. Theo
thiển ý thể pháp và bí pháp là những khái niệm chưa không hẳn là định nghĩa,
hiểu như thế nào là do khả năng lý hội và mặc khải chứ không phải chứng minh.
Đạo pháp vô biên nhưng Thầy và các Đấng dạy Hội Thánh làm cho Đạo Pháp hiện hữu
trước mắt chúng sanh. Đó là cách xác định Hội Thánh đã hành đạo đúng thiên ý.
Vấn:
A/ Thầy
dạy “Thương Yêu” nhưng quý Tiền Bối thưở ban đầu đả thực hiện “HẠNH
“, Thương Yêu như thế nào để dẩn đến xích mích và dẩn đến sự phân
nhánh? Đơn
cử là sự Độc Tài, Độc Tôn của Hộ Pháp Phạm Công Tắc. Hiện nay đa số tín hửu của
Hội Thánh TTTN vẩn còn kỳ thị và xem các Chi Phái (Nhánh) khác là Bàn Môn Tả
Đạo (theo tinh thần của ĐNĐ số 8); như vậy có đúng theo Hạnh Thương Yêu mà Thầy
đả dạy? Mục đích của Thầy lập nên DDTKPĐ là để Tận Độ chúng sanh (kể cả người
bàn môn tả Đạo). Và chính THẦY
đả khằng định trong TNHT “Mấy nhánh rồi sau củng một nhà ...
Câu
nầy có nhiều ý Tôi phân 3 đoạn để câu chuyện được minh bạch.
A1/- Thầy
dạy “Thương Yêu” nhưng quý Tiền Bối thưở ban đầu đả thực hiện “HẠNH
“, Thương Yêu như thế nào để dẩn đến xích mích và dẩn đến sự phân
nhánh?
Hồi
đáp.
Trang Tử viết trong Nam Hoa Kinh
phải là một lẽ vô cùng, quấy cũng là một lẽ vô cùng, lấy hai cái vô cùng ấy mà
đối luận thì đâu có ai đồng với ai? Lấy hai cái vô cùng ấy đối luận thì đến hết
đời cũng chẳng kết thúc, nếu kết thúc được thì thiên hạ đã không nói chuyện thị
phi đời nầy sang đời khác. Thầy lại cho môn đệ TỰ DO QUYỀN thì chuyện thị phi
càng đối luận càng mênh mông đại hải. Trời mưa nắng còn chưa vừa lòng hết mọi
người, nghĩa là Trời còn chưa vừa lòng hết mọi người thì trên thế gian nầy nếu
có một tổ chức nào, một cá nhân nào làm vừa lòng hết mọi người thì là giỏi hơn
Trời, Tôi không rơi vào vòng thị phi bất tận ấy và cũng không tin có một tổ
chức nào, một cá nhân nào làm vừa lòng hết mọi người. Chơn truyền của Chí Tôn
đại kỵ những điều ảo ảnh.
Do vậy Tôi dụng pháp luật đạo làm
tọa độ gốc, làm khuôn thước để hồi đáp. Mà pháp của đạo là do thiêng liêng lập
ra, luật của đạo là do Thầy và các Đấng dạy lập ra, cho nên Tôi tin vào pháp
luật đạo. Đức Lý Giáo Tông dạy: Pháp luật đạo là binh khí diệt tà quyền
thì Tôi căn cứ vào đó để luận giải. Đưa vào khuôn khổ pháp luật để tìm hiểu,
phân tích xem Hội Thánh tại Tòa Thánh Tây Ninh có hành đạo đúng với pháp luật
đạo hay không? Điều nầy cũng phù hợp với Lời Minh Thệ: “… Từ đây biết một
Đạo Cao-Đài Ngọc-Đế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng Chư Môn-Đệ, gìn luật
lệ Cao-Đài,”
Theo Tôi hiểu câu nầy cũng có một
phần như II bên trên: sau khi các vị tiền bối tách ra Hội Thánh tại Tòa Thánh
Tây Ninh được ơn trên nhìn nhận nên chỉ dạy để xây dựng nên những thể pháp căn
bản của ĐĐTKPĐ như đã trình bày.
A1.1/- Xét về pháp
xin trình ra Đạo Nghị Định Thứ Ba (1930), tại thời điểm đó các tiền bối không
có ai phàn nàn về Đạo Nghị Định nầy:
Pháp lý:
Đạo Nghị Định do Đức Lý Giáo Tông và Hộ Pháp Phạm Công Tắc lập nên thuộc về
Pháp. Phối Sư phải ở tại Tòa Thánh để hành chánh, khi phẩm Phối
Sư trở lên ra khỏi Tòa Thánh để hành chánh là phạm pháp (nặng hơn phạm luật).
Thực tế:
Đã nhập môn cầu đạo thì ai cũng phải minh thệ gìn luật lệ Cao Đài. Bậc Chức sắc
phải gương mẫu để đàn em noi bước. Pháp luật của đạo là binh khí diệt tà
quyền, nếu quý chức sắc thấy có bất công thì đó là tà quyền xen vào cửa
đạo để phá đạo thì chính quý Chức sắc phải cầm binh khí để chống ngăn, để diệt
tà quyền. Nếu chẳng may tà quyền hại chết đi nữa thì chẳng lẽ thiêng liêng
không biết hay sao? Hy sinh kiếp sống này để pháp luật đạo được sáng chói thì
có chi đáng tiếc với người đã biết đạo?
Chức sắc thiên phong từ phẩm Giáo
Hữu trở lên là phải phế đời hành đạo, đã phế đời thì tâm mình thanh sạch mình
biết, sao không ngó lại tâm mình để hành đạo mà bận lòng đến chuyện thị phi? Có
phải do không ngó lại tâm mình, không đủ tin nơi thiêng liêng nên mới rời xa
Tòa Thánh?
Đạo Nghị Định Thứ Ba thuộc về Pháp,
trong đó qui định Phối Sư phải ở tại Tòa Thánh mà không ở Tòa
Thánh là phạm pháp. Còn như giải thích lý do A, B, C để biện minh cho việc phạm
pháp là tình tiết giảm khinh mà thôi. Tôi không phải luật sư nên không chắc là
hiểu đúng, hiền huynh có thể tìm hỏi các vị luật sư xem cách hiểu luật của Tôi
có đúng được phần trăm nào chăng?
Đức Cao Thượng Phẩm phế đời hành
đạo khi con còn đi học ở Pháp, Ngài và người bạn đời đều nghe theo Đức Chí Tôn
về hành đạo từ đầu. Khi trả chùa Từ Lâm Tự, Ngài là người đầu tiên về khai sơn
phá thạch để xây dựng lên Tòa Thánh. Ngài bị thử thách đến nước bị buộc ra khỏi
Tòa Thánh về Thảo Xá Hiền Cung và bỏ xác phàm năm 1929. Ngài hành đạo như thế,
bị hàm oan như thế mà vẫn lấy đạo làm trọng nên đẻ lại tấm gương sáng lạn cho
đoàn hậu tấn. Ngài biết đạo, biết ngó cái tâm của mình để không thẹn với lòng
và đủ tin nơi Đức Chí Tôn nên coi thân mình như con tế vật để phụng sự cho đạo.
Cái gương chịu hàm oan cho đến chết của Đức Cao Thượng Phẩm chẳng lẽ quý vị
không thấy hay sao?
Euro 2024 đang diễn ra, luật định
năm nay thay đổi theo hướng nghiêm khắc hơn, thí dụ như qui định chỉ có thủ
quân mới được tiếp cận với trọng tài để phản ánh những tình huống nóng trên
sân. Do vậy nhiều cầu thủ rất nổi tiếng nhưng không phải là thủ quân đến phàn
nàn với trọng tài là bị thẻ vàng. Bóng đá là một trò chơi mà cũng phải có luật
lệ và áp dụng nghiêm minh như vậy mới tổ chức thành công được. Chẳng lẽ một tôn
giáo do chính tay Đức Chí Tôn lập theo triết lý QUỐC ĐẠO, có tam quyền phân
lập, có các Đấng kề cận hộ trì mà pháp của đạo lại thua một trò chơi như bóng
đá hay sao?
Pháp của đạo do Bát Quái Đài lập
nên là Thiên luật. Luật đạo lập ra do Hội Thánh (theo PCT CG) hay Ba Hội Lập
Quyền Vạn Linh, vì có tay người phàm trong đó nên là phàm luật, nhưng do nơi
Bát Quái Đài chỉ dạy nên là thiên điều tại thế. Đức Chí Tôn lập Thánh Thể của
Ngài tại thế thì cũng cho Thánh Thể ấy có đủ quyền trị thế bằng pháp và luật.
Theo PCT CG nhân sự hành đạo hể có công thì thưởng, có tội thì trừng nên có Tòa
Tam Giáo Cửu Trùng Đài, Tòa Tam Giáo Hiệp Thiên Đài và Tòa Tam Giáo Bát Quái
Đài. Về pháp luật đạo là vậy, hiền huynh tự do nhận định.
A1.2/- Phần bóng ngoài giờ:
Câu hỏi của hiền huynh đưa Tôi về ký ức mấy chục năm trước với những kỹ niệm
đẹp khi Tôi thăm viếng, giao lưu với quý vị ở các chi (Bến Tre, Tiên Thiên,
Trung Hưng Bửu Tòa, Thánh Thất Hòa Mã …) và Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý 171/B
Cống Quỳnh, SG. Chúng tôi có trò chuyện, tâm tình với nhau nhưng không tạo
thành văn bút. Nên khi nhận được câu hỏi của hiền huynh Tôi nghĩ có thể ghi lại
để bạn đồng sanh và hậu tấn biết chúng ta có tâm tình với nhau với ước mong xây
dựng đại nghiệp đạo.
Do vậy Tôi trình bày thêm thế nào
là thương yêu theo ĐĐTKPĐ. Theo Pháp Chánh Hiệp Thiên thì một án không có hai
hình một công không có hai thưởng cho nên Tòa đạo đã xử nơi cõi hữu hình nầy
thì về thiêng liêng không xử lại nữa. Mà Tòa đạo xử phạt chẳng qua là như quẹt
lọ mà thôi, hình phạt rất nhẹ so với khi về thiêng liêng tự xử. Cho dù bị trục
xuất đi nữa mà đương sự cứ làm lành lánh dữ thì chẳng lẽ thiêng liêng không
biết hay sao? Ấy là cơ Đại ân xá của Đức Chí Tôn nên mới được ơn phước ấy. Nếu
Pháp Chánh không xử thì án ấy còn nguyên, khi về thiêng liêng chính ta xử lấy
ta thì rất nghiêm khắc, có những lỗi không đáng mà ta tự định hình phạt cho ta
đến nước các Đấng cũng châu mày. Ngày nào mà đương sự chưa can đảm thú tội mình
với Giáo Tông và Hộ Pháp thì cõi hư linh cứ chối họ mãi mãi. Cho nên hành
đạo đúng pháp luật là giúp cho người nên đạo, giúp cho bạn đồng sanh cao thăng
phẩm vị, đó chính là sự thương yêu. Trong cơ Đại ân xá của Đức Chí Tôn ta
còn một ân huệ nữa là Ta xin không xử lấy mình mà xin Đại Từ Phụ định phận cho
mình. Mà Đại Từ Phụ từ bi vô lượng nên Ngài sẽ lãnh nợ (chứ không phải xóa nợ)
cho ta tái kiếp để chuộc lỗi (hết).
Vấn
A2/- Đơn cử là
sự Độc Tài, Độc Tôn của Hộ Pháp Phạm Công Tắc. Hiện nay đa số tín hửu của Hội
Thánh TTTN vẩn còn kỳ thị và xem các Chi Phái (Nhánh) khác là Bàn Môn Tả Đạo
(theo tinh thần của ĐNĐ số 8); như vậy có đúng theo Hạnh Thương Yêu mà Thầy đả
dạy?
Hồi
đáp.
Việc
hành đạo của Đức Hộ Pháp đã được Thiêng Liêng công nhận khi còn tại thế, công
nhận khi về thiêng liêng vị thì Ngài đâu cần ai bảo vệ. Tôi không làm công việc
mà Ngài chẳng cần, nhân câu hỏi của hiền huynh Tôi tra cứu và bòn chút công quả
trong việc thực thi tam lập (Pháp điều Tam Kỳ Phổ Độ) là chính. Xin hiền huynh
nhận ý trên làm căn bản trong hồi đáp liên quan đến Đức Hộ Pháp. Kính bút.
Trong
câu nầy có nhiều ý nên để cho minh bạch Tôi đưa đoạn: Đơn cử là sự Độc Tài,
Độc Tôn của Hộ Pháp Phạm Công Tắc vào hồi đáp chung với phần B. Thứ nữa
đoạn: như vậy có đúng theo Hạnh Thương Yêu mà Thầy đả dạy? Tôi đã hồi
đáp ở phần II và phần A1 nên xét thấy lặp lại sẽ dài dòng.
Do
vậy phần A2 hồi đáp đoạn:
Hiện nay đa số tín hửu của Hội Thánh TTTN vẩn còn kỳ thị và xem các Chi Phái
(Nhánh) khác là Bàn Môn Tả Đạo (theo tinh thần của ĐNĐ số 8) là chính yếu.
A2.1/-
Pháp lý Đạo Nghị Định Thứ Tám: Đức Lý Giáo Tông và Đức Hộ Pháp lập thành cho nên thuộc về pháp
của đạo (xem sơ đồ tổng thể). Hội Thánh Nhị Hữu Hình Đài Hiệp Thiên và Cửu
Trùng chỉ có quyền lập luật nên không phép cải sửa. Chỉ có Bát Quái Đài mới có
quyền cải sửa tại Cung Đạo Tòa Thánh Tây Ninh. Cho đến khi Hội Thánh Cao Đài
ngưng cơ bút tại Cung Đạo (31-1-1978) không có sự cải sửa nào với Đạo Nghị Định
Thứ Tám nên nó còn đầy đủ giá trị trong nền đạo. (Trường hợp Đức Hộ Pháp và Đức
Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt lập Đạo Nghị Định với Ấn-Ký là thuộc về Quyền
Thánh Thể nên thuộc luật).
Lưu
ý: trên thực tế
nhiều chi biện luận rằng sau khi các vị tiền bối tách khỏi Tòa Thánh rồi Đạo
Nghị Định Thứ Tám mới lập nên các Chi không nhìn nhận. Điều đó Tôi không tranh
cải hay thuyết phục. Song Tôi có nhắc quý bạn ấy rằng vui lòng xem Đạo Nghị
Định Thứ Ba năm 1930.
Thứ
nữa Tôi rất hoan nghênh hiền huynh M nhắc đến Chương Trình Hiến Pháp do Đức Lý
Giáo Tông dạy Ngài Phối Sư Thái Ca Thanh lập ra năm 1928. Do vậy xin trích Điều
thứ 22 để hưởng ứng.
Ðiều thứ 22: -Nghiêm cấm
trong Ðạo không ai đặng lấy danh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ và dùng THIÊN ÂN, THIÊN
NHÃN mà đề vào bìa Kinh sách, Bố cáo, vân vân... hay là in Thánh Tượng, Kinh
sách (bán hoặc phát không) nếu Kinh sách và Thánh Tượng ấy không có trình ban
kiểm duyệt xem xét trước và đóng con dấu kiểm duyệt. (Tôi không đề ĐĐTKPĐ trên
trang bìa tập trả lời nầy là vậy)
Ảnh
chụp Đạo Nghị Định Thứ Tám (1934).
A2.2/-
Diễn tiến pháp lý sau đó:
Ngày 17/10/Đinh Dậu, “DL: 08/12/1957” Đức Lý Giáo Tông, dạy tại Cung Đạo: “Chư Hiền Hữu Hiệp Thiên Đài về Đạo
Nghị Định của Lão là phương pháp lúc trước để phổ độ Nhơn Sanh mà thôi. Hiện
giờ cửa Đạo đã mở rộng, thì cơ qui nhứt thế nào cũng sẽ thực hiện được”
Ngày 10/4/Giáp Thìn “1964” Đức
Hộ Pháp dạy tại Giáo Tông Đường: “Vậy
ngày giờ đã gần đến, nên Bần đạo để lời khuyên cả Chức sắc và toàn đạo ráng thế
nào thống nhất Đạo cho được, mới có đủ sức mạnh để làm gương cho vạn quốc”
Theo cách hành chánh của Hội Thánh
tại Tòa Thánh Tây Ninh chỉ nhìn nhận cơ bút tại Cung Đạo, trước mặt Thánh Thể
của Đức Chí Tôn và cấm lấy cơ bút làm lịnh. Vậy tại sao đàn cơ của Đức Hộ Pháp
tại Giáo Tông Đường được trích dẫn?
Bởi vì Hội Thánh đã lấy hai trích
đoạn trên đưa vào Hạnh Đường Giáo Hữu (1972) nên hai đoạn trên mới có trong
hành chánh tôn giáo.
A2.3/- Thực hiện Cơ Quy Nhứt: Theo sự tìm hiểu của Tôi thì Hội
Thánh ĐĐTKPĐ và Hội Thánh các Chi đã hội họp nhau nhiều lần. Kết cuộc là Vi
bằng ngày 08-01-Kỹ Dậu (24-02-1969) Hội Thánh ĐĐTKPĐ và Hội Thánh 14 Chi họp
tại Tòa Thánh Tây Ninh do Đức Thượng Sanh chủ tọa. Phiên họp đã thống nhứt 09
điều kiện qui nhứt.
Trước đó có 04 vi bằng sau:
/. Vi Bằng ngày 26-3-Giáp Thìn.
(07-05-1964). Ngài Bảo Thế Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài họp với Hội Thánh
các Chi tại Tòa Thánh.
/. Vi Bằng ngày 30-3- Giáp Thìn (11-5-1964) tại
Tòa Thánh.
/. Vi Bằng ngày 16-7- Giáp Thìn
(23-8-64) Ngài Bảo Thế Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài chủ tọa tại Nam Thành
Thánh Thất.
(Lưu ý: Ngày 12-7-1965 ĐĐTKPĐ có tư
cách pháp nhân)
/. Vi Bằng ngày 02-06-Bính Ngọ
(19-07-1966) tại Tòa Thánh.
A2.4/- Các phái đạo qui nhứt:
Bán Nguyệt San THÔNG TIN số 54 phát hành ngày 20/6/1972 có thông tin: Phái
đạo Từ Vân qui nhứt về Toà Thánh Tây Ninh, Hội Thánh tiếp nhận đưa vào Trấn
Đạo Gia Định và bổ nhân sự đến hành đạo. Ngoài ra còn các Thánh Thất ở các Chi
khác cũng qui về.
Bán Nguyệt San THÔNG TIN số 65 phát
hành ngày 30-11-1972 cho thông tin Hội Thánh ĐĐTKPĐ và Hội Thánh các Chi mở
phiên họp Đại Hội Thống Nhất tại Hội Trường Ban Thế Đạo (Nội Ô Tòa Thánh Tây
Ninh) ngày 22-11-1972 (theo Điều VII trong 9 Điều Kiện Quy Nhứt về Tòa Thánh).
A2.5/- Con đường quy nhứt mở rộng. Phần
nầy cần lưu ý hai thời kỳ: Hội Thánh chưa bị cốt và thời kỳ Hội Thánh bị cốt.
Phân tích 09 Điều Kiện Quy Nhứt về
Tòa Thánh không thấy có chữ chi phái nào, mà chỉ thấy Hội Thánh các Chi. Không
thấy chữ Bàng Môn Tả Đạo nào trong 09 ĐKQN. Cũng không thấy khoản nào buộc phải
tái thệ. Chức sắc các Chi được quyền về Tòa Thánh hành đạo, khi cúng lễ cũng có
thống nhất vị trí.
Hiến Chương 2023 của Hội Thánh
Truyền Giáo Cao Đài (HTTGCĐ), (Trung Hung Bửu Tòa) LỜI NÓI ĐẦU viết: Trong
khi chờ đợi ngày thống nhất nền đạo …
Trong khi Thông Báo số 10 ngày
30-12-1995 của Ban Tôn Giáo chính phủ viết: Việc Xây Dựng Tổ Chức Giáo Hội
Các Phái Cao Đài, Cần Quán Triệt Nguyên Tắc: Không lập lại tổ chức Giáo hội như
cũ, không thống nhất các hệ phái Cao Đài … Rõ ràng nhà
nước Việt Nam có chủ trương: Không cho Đạo Cao Đài thống nhất.
Trong hoàn cảnh như vậy mà Hiến
Chương 2023 của HTTGCĐ viết câu: Trong khi chờ đợi ngày thống nhất nền đạo …
theo Tôi là một ý thức vượt trội hơn hiến chương của Chi phái 1997 và nhiều
hiến chương khác mà Tôi biết. Qua đó thấy rằng ý chí thống nhất nền đạo vẫn
xuyên suốt trong lòng HTTGCĐ. Tôi cũng mạo muội cho rằng rất nhiều người không
thuộc HTTGCĐ vẫn có ý thức Trong khi chờ đợi ngày thống nhất nền đạo …
nhưng chưa có điều kiện thổ lộ ra.
Các vị là Hội Thánh lại viết: Trong
khi chờ đợi ngày thống nhất nền đạo … vậy xin hỏi Tại sao phải chờ đợi và chờ
ai làm cho thống nhất trong khi quý vị là Hội Thánh?
Tại sao phải chờ?
HTTGCĐ ở Việt Nam nên tự biết hiện nay không thể làm gì được, bởi vì đảng và
nhà nước chủ trương không thống nhất các hệ phái Cao Đài, cho
nên phải chờ.
Vậy chờ ai?
Nhà nước Việt Nam có hứa với Hội Đồng nhân quyền Liên Hiệp Quốc đến năm 2099 sẽ
cải thiện nhân quyền. Vậy chờ đến khi đó chăng?
Tôi hiểu là HTTGCĐ chờ người theo
Đạo Cao Đài đang sinh sống tại những quốc gia có quyền tự do tôn giáo thực hiện
việc thống nhất nền đạo ở hải ngoại. Đó là tâm sự gởi đến những người thao thức
vì sự thống nhất nền đạo.
A2.6/- Vậy căn cứ vào pháp lý nào
để làm? Làm như thế nào?
Hội Thánh Cao Đài tại Tòa Thánh Tây
Ninh bị cốt năm 1983, khi Hội Thánh bị cốt thì hành đạo theo Thánh Lịnh 257,
theo đó Bàn Trị Sự (BTS) và Tín Đồ hiệp nhau công cử nhân sự cầm giềng mối đạo.
Như vậy pháp lý là 09 ĐKQN và Thánh Lịnh 257.
Theo luật đạo, cấp BTS là do người
đạo nơi địa phương công cử rồi dâng lên Hội Thánh, mà nay Hội Thánh bị cốt thì
vẫn công cử BTS theo luật (xem Hạnh Đường BTS), lập vi bằng xong xuôi rồi công
bố với đồng đạo địa phương và hành đạo (không có Hội Thánh thì không gởi). Khi
Hội Thánh bị cốt thì nhân sự các Chi có đủ quyền ngồi lại tuyên bố là nhân sự
của ĐĐTKPĐ. Nếu địa phương quý vị chưa có Bàn Trị Sự thì hiệp nhau công cử Bàn
Trị Sự và BTS cấp Sớ Cầu Đạo theo mẫu của Hội Thánh Cao Đài. Nếu địa phương của
quý vị đã có BTS thì liên hệ và yêu cầu cấp Sớ Cầu Đạo. Nếu các BTS yêu cầu
phải tái thệ thì đưa 09 ĐKQN cho quý vị đó xem. Nếu quý BTS vẫn khư khư yêu cầu
tái thệ thì yêu cầu lập Vi Bằng ghi rõ các việc vào, rồi quý vị cầm về và không
phải lệ thuộc vào các BTS quá quyền để hà hiếp môn đệ Đức Chí Tôn nữa. Đó là
quyền quy nhứt là của quý vị, không ai xâm phạm được trừ khi chính quý vị từ bỏ
quyền đó.
Còn Chức sắc các Chi muốn về ĐĐTKPĐ
thì sao? Mời xem Điều III.
III/- Để tiến đến sự thống nhất toàn vẹn, tạm thời tôn
trọng hệ thống tổ chức địa phương và Chức phẩm của mỗi Chi, chờ ngày quyền
Thiêng liêng quyết định tại Cung Đạo TÒA THÁNH Tây Ninh do Hiệp Thiên Đài Toà
Thánh phò loan.
a/- Đứng vào hàng chức sắc Thánh Thể Đức Chí Tôn
phải tùng y Đạo pháp, phế đời hành Đạo.
b/- Chức sắc các Chi về TÒA THÁNH tạm thời hành
sự dưới quyền Hội Thánh Hiệp Thiên Đài tối thiểu là một năm mới được dâng lên
quyền Thiêng liêng định vị tại cung Đạo.
c/- Khi hành lễ mặc áo tràng trắng, khăn đen, sắp
ngôi thứ trên từng lầu Hiệp Thiên Đài. (Hết trích)
Giờ
Tòa Thánh bị chi phái 1997 chiếm, Hội Thánh bị cốt thì không ai có quyền định
vị cho quý vị. Chức sắc ĐĐTKPĐ hành đạo nơi địa phương hay cơ quan phải có đủ:
chức, quyền, lịnh. Nay không đủ thì các vị không phải là Chức sắc bề trên nơi
địa phương, không cầm quyền hành chánh như Chức việc được nên có thể tư vấn cho
BTS mà thôi.
A2.6/- Đức Hộ Pháp dạy
tại Đền Thánh đêm 1-7-Kỹ Sửu (1949): ... mấy em nhớ
rằng Đền Thờ nầy là Đền Thờ chung của toàn con cái Đức Chí Tôn, không phải của
riêng mấy em tuy hữu công đào tạo, nhưng không phải mấy em làm chủ, toàn
con cái Đức Chí Tôn làm chủ, người ta về đừng có bạc đãi khi rẻ mích lòng
Đức Chí Tôn, trái ngược lại nam cũng vậy, nữ cũng vậy, lấy tình ái vô cực của
Đức Chí Tôn, lấy hình ảnh Đại Từ Bi an ủi họ, nhường nơi ăn chỗ ở cho họ, đặng
họ cứu vãng chúng sanh về phần hồn ấy là lời tâm huyết. …
Đạo Cao Đài dùng luật trị người
thay cho cảnh người trị người. Từ 09 ĐKQN cho đến trích văn của
Đức Hộ Pháp trên đây Tôi cả nghĩ rằng những người: kỳ thị và xem các Chi
Phái (Nhánh) khác là Bàn Môn Tả Đạo không hiểu đúng pháp luật và giáo lý
đạo, không tuân theo lời dạy của Hội Thánh và Đức Hộ Pháp. Lạ gì những người
bất tài, vô đức mượn cửa đạo để thỏa mãn tham vọng quyền lực bất chánh của họ.
Quyền của đạo là công chánh, công chánh thì cứ theo pháp luật đạo mà tiến tới,
không nên vì những người bất chánh mà chậm bước công quả trên đường quy
nhứt.
{{{Lưu ý: Năm 1997 ra đời, chi phái 1997 chiếm đoạt toàn bộ cơ sở đạo
trong Nội Ô Tòa Thánh Tây Ninh, chiếm đoạt hầu hết các Thánh Thất và Điện Thờ
địa phương. Quan trọng nữa là chi phái 1997 chiếm dụng danh hiệu sáu chữ
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ trong hiến chương 1965 và che dấu pháp nhân 10 chữ Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Cao Đài Tây Ninh trong hiến chương 1997 và pháp nhân 12 chữ
với 2 dấu ngoặc trong pháp nhân 2007: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (Cao Đài Tòa Thánh
Tây Ninh). Do vậy quy nhứt về TTTN không bao giờ đồng nghĩa với việc tùng phục
chi phái 1997 là kẻ ăn cắp căn cước của ĐĐTKPĐ}}}
Vấn
A3/- Mục
đích của Thầy lập nên DDTKPĐ là để Tận Độ chúng sanh (kể cả người bàn môn tả
Đạo). Và chính THẦY
đả khằng định trong TNHT “Mấy nhánh rồi sau củng một nhà ...
Hồi
đáp.
Thầy
dạy ngày 6-12-1926 (TNHT Q1 trang 56): Ta vì lòng đại từ đại bi, vẫn lấy đức
háo sanh mà dựng nên mối Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ; tôn chỉ để vớt kẻ hữu phần vào
noi địa vị cao thượng, để tránh khỏi số mạng luân hồi và nâng những kẻ tánh đức
bước vào cõi nhàn, cao hơn phẩm hèn khó nơi trần thế nầy. Hiền huynh viết
mục đích như vậy là OK.
Riêng
về chữ nhánh có lẽ chúng ta nên xem xét lại như phần đầu tiên Tôi đã dẫn chứng.
Nhánh như Tôi đã trình bày bên trên là Thời Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ có 3 nhánh. Do
nguyên lý của Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ nên có nhiều nhánh và trong mỗi nhánh lại có
chi phái. Như vậy từ đạo sanh ra ba nhánh, từ nhánh mới sanh ra chi phái. Theo
trình tự đó thì nhánh và chi phái khác nhau. Nhánh là tập hợp lớn còn chi phái
là phần tử trong tập hợp nhánh.
Thời
Tam Kỳ Phổ Độ
Thầy dạy: Cái
nhánh các con là nhánh chính mình THẦY làm chủ, sau các con sẽ hiểu. … Chữ
nhánh là số ít nên là một. Do nguyên lý của Tam Kỳ Phổ Độ nên Thầy lập nhánh số
ít, là có một. Trong đàn cơ trên Thầy dạy:
Bửu tòa thơi thới trổ thêm hoa,
Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà.
Chung hiệp rán vun nền đạo đức,
Bền lòng son sắc đến cùng Ta.
Câu Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà thiển
nghĩ là ba nhánh trước đây nay hiệp một, nghĩa là câu dạy nói từ quá khứ đến
ngày Thầy dạy; chứ không phải nói về phân nhánh trong tương lai. (Nhắc lại
là hiền huynh M cũng trình bày rằng Thầy không dạy phân nhánh, đã không dạy
phân nhánh thì chữ mấy nhánh là chỉ về quá khứ). Căn cứ vào đâu mà hiểu như
thế? Đó là căn cứ vào lời dạy ngay bên dưới bài thi trên Cái nhánh các con là nhánh chính
mình THẦY làm chủ, sau các con sẽ hiểu. … Thầy dạy Quy Nguyên Tam Giáo và Hiệp Nhứt Ngũ Chi
đưa vào trong pháp luật đạo.
Như vậy có mâu thuẫn với câu: Bền
lòng son sắc đến cùng Ta hay không? Thầy dạy ngày 15-9-Bính Dần (TNHT Q1
trang 44, bản in 1972). Đạo Quang, con cứ khai đàn cho chúng nó, và chỉ cách
thờ Thầy theo Tân Luật, cần chi chúng nó phải cầu đạo, vốn là môn đệ Thầy rồi.
Cười … Ngài Đạo Quang gốc bên Phật Giáo, theo Tôi hiểu các vị được Thầy đề
cập đến cũng là bên Phật Giáo. Lời dạy trên đây Thầy dạy rõ các vị đó vốn là
môn đệ Thầy rồi. … mở rộng ra thiển ý có nghĩa là Tam giáo vốn là môn đệ
của Thầy rồi, nên giữ bền đạo đức là về với Thầy được. Kết hợp với câu Mấy
nhánh rồi sau cũng một nhà có thể hiểu là dù cho môn đệ Thầy trong Tam Giáo
hay trong ĐĐTKPĐ mà bền lòng đạo đức thì đến với Thầy được. (Lưu ý: Thời điểm
dạy bài nầy Tân Luật chưa ra đời, đến 1-6-1927 mới ban hành Tân Luật)
Hiểu vậy cũng phù hợp với bài thi
Thầy dạy ngày 23-1-1926 (TNHT Q2 trang 210, bản in 1972).
Chín Trời mười Phật cũng là Ta,
Truyền đạo chia ra nhánh nhóc ba.
Hiệp một chủ quyền tay nắm giữ,
Thánh Tiên Phật Đạo vốn như nhà.
Tóm lại sự tìm hiểu của Tôi về chữ nhánh qua
ba thời kỳ mở đạo là như vậy.
B/
Giáo Chủ của Hội Thánh Toà Thánh Tây Ninh là ai? Là “Thầy “- Đức Chí Tôn
Ngọc Hoàng Thượng Đế hay là Hộ Pháp Phạm Công Tắc. Đơn cử là TTTN tôn xưng Hộ
Pháp là Thầy là Giáo Chủ Hửu Hình. Nếu Hộ Pháp tự xưng như vậy có
đúng với Hạnh Khiêm Nhường của một bậc tu hành và có phạm thượng với Đức Chí
Tôn không? Trong khi đó Thầy đả dạy “Chính mình Thầy đến dạy dổ các con; chẳng
chịu giao chánh giáo chi tay PHÀM nửa”
Câu
này có nhiều ý nên Tôi phân ra để hồi đáp cho minh bạch.
B1/- Giáo
Chủ của Hội Thánh Toà Thánh Tây Ninh là ai? Là “Thầy “- Đức Chí Tôn Ngọc
Hoàng Thượng Đế hay là Hộ Pháp Phạm Công Tắc. Đơn cử là TTTN tôn xưng Hộ Pháp
là Thầy là Giáo Chủ Hửu Hình. Nếu Hộ Pháp tự xưng như vậy có
đúng với Hạnh Khiêm Nhường của một bậc tu hành và có phạm thượng với Đức Chí
Tôn không?
Hồi
đáp.
Tôi đưa
phần A2 câu: Đơn cử là sự Độc Tài, Độc Tôn của Hộ Pháp Phạm Công Tắc vào
hồi đáp chung với phần B.
Đức
Chí Tôn vi chủ Bát Quái Đài là cầm quyền tối cao trong nền đạo, theo Sơ đồ tổng
thể là Quyền đạo (vô vi).
Đức Hộ
Pháp cầm quyền Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng là cầm
quyền Chí Tôn tại thế, trong Sơ đồ tổng thể là Quyền Thánh Thể hay Quyền Hội
Thánh (Nhị hữu hình đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng). Đó là làm theo lời dạy của
Đức Chí Tôn. Mời xem Vi Bằng Quyền Vạn Linh năm 1937 trang 17, 18.
Sau
đây là căn cứ pháp lý để hiểu.
B1.1/-
Đạo Nghị Định Thứ Sáu (1930).
Đạo
Nghị Định Thứ Sáu dạy: Chiếu theo Pháp Chánh Truyền của cả Hội Thánh Bát
Quái Đài, Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài. Căn cứ vào lời dạy trên thì
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ có 3 Hội Thánh.
B1.2/-
Xác định từ ngữ trong câu vấn: Theo Sơ đồ tổng thể thì chữ Hội Thánh Toà Thánh Tây Ninh hiền
huynh viết ở đây là phần Nhị Hữu Hình Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng trong sơ đồ.
Nghĩa là Quyền Thánh Thể mà ta thường nói là Hội Thánh Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ
hay Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh hay Hội Thánh Toà Thánh Tây Ninh như
hiền huynh viết trên đây.
B1.3/-
Đức Chí Tôn dạy
ngày 23-12-1931 (Thảo Xá Hiền Cung), (TNHT Q2, T 188, bản in 1972): …Các con
phải nhớ rằng toàn Thế-giới Càn-khôn, chỉnh có hai quyền: trên là quyền-hành
Chí-Tôn của Thầy, dưới là quyền-hành của sanh-chúng. Thầy đã lập hình-thể
hữu-vi của Thầy, nghĩa là Hội-Thánh của Đại-Đạo ngày nay rồi thì Thầy cũng phải
ban quyền-hành trọn-vẹn của Thầy cho hình-thể ấy, đặng đủ phương tận-độ
chúng-sanh, còn các con cả thảy đều đứng vào hàng sanh-chúng, dưới quyền-hành
chuyển thế của đời, nghĩa là toàn nhơn-loại đồng quyền cùng Thầy, mà tạo-hóa
vạn-linh vốn là con-cái của Thầy, vậy thì vạn-linh cũng có thể đoạt-vị vào hàng
Thần, Thánh, Tiên, Phật đặng.
Trong quyền-hành ấy có nhiều
đẳng-cấp, nên khỏi phải chịu phẩm Người: ấy vậy Người là chủ-quyền của
vạn-linh. Thầy nói rõ: quyền Chí-Tôn là Thầy, quyền Vạn-linh là
sanh-chúng, ngày nào quyền-lực Chí-Tôn đặng hiệp một cùng Vạn-linh thì Đạo
mới ra thiệt-tướng. Thầy đã ban quyền-hành Chí-Tôn của Thầy cho hai đứa
làm đầu Hội-Thánh là Giáo-Tông cùng Hộ-Pháp. Vậy thì quyền-hành Chí-Tôn của
Thầy đặng trọn-vẹn khi Giáo-Tông cùng Hộ-Pháp hiệp một. Còn cả nhơn-loại
thì là quyền lực Vạn-linh. Quyền-hành Chí-Tôn của Thầy, duy có quyền-hành
Vạn-linh đối-phó mà thôi…
Trích đoạn: Thầy đã ban
quyền-hành Chí-Tôn của Thầy cho hai đứa làm đầu Hội-Thánh là Giáo-Tông cùng
Hộ-Pháp. Vậy thì quyền-hành Chí-Tôn của Thầy đặng trọn-vẹn khi Giáo-Tông cùng
Hộ-Pháp hiệp một đã dạy rõ Quyền Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp lại là Quyền
Chí Tôn. Căn cứ vào Sơ đồ tổng thể và lời dạy trên đây để phân tích, tìm hiểu
thì quyền Chí Tôn có 3 diện:
Quyền Chí Tôn tuyệt đối: là quyền tự hữu và hằng hữu do
chính Đức Chí Tôn cầm và vi chủ Bát Quái Đài, là vi chủ hồn của đạo. Quyền nầy
Đức Chí Tôn không giao cho ai cầm theo nghĩa: Thầy không giao chánh giáo cho
tay phàm.
Quyền Chí Tôn vô vi:
là do Lý Giáo Tông và Hộ Pháp vô vi hiệp lại. Quyền Chí Tôn vô vi thuộc về Bát
Quái Đài nên có quyền lập pháp. Hai quyền nầy hiệp lại lập ra các Đạo Nghị Định
từ một đến sáu (1930) và năm 1934 lập ra Đạo Nghị Định thứ bảy và tám. Quan sát
chúng ta thấy vô vi nên không xài Ấn Ký mà chỉ viết tên.
Quyền Chí Tôn tại thế:
là do Giáo Tông hữu hình và Hộ Pháp hữu hình hiệp lại. Quyền Chí Tôn tại thế là
Quyền Thánh Thể nên chỉ có quyền lập luật. Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung
Nhựt và Đức Hộ Pháp lập ra các Đạo Nghị Định là hữu hình nên có Ấn và chữ ký.
B1.4/- Châu Tri số 21
ngày 16-12-1934 (trích nội dung).
THÁI; THƯỢNG; NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ.
Kính cùng chư Chức Sắc Thiên Phong Nam Nữ, chư Chức
Việc và chư Đạo Hữu lưỡng phái.
Kính chư Hiền Huynh và chư Hiền Tỷ.
Hội Thánh xin cho toàn đạo hay rằng:
Chiếu theo tờ vi bằng kỳ nhóm Hiệp Thiên Đài và Cửu
Trùng Đài tại Toà Thánh ngày 26-10- Giáp Tuất (dl:02-12-1934) thì quyền hành
Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài đều giao cho Đức Hộ Pháp cầm, ấy là tuân
theo thể pháp định cho Hộ Pháp phải kiêm quyền hành Giáo Tông khi Giáo Tông qui
vị, cũng như Giáo Tông phải kiêm quyền hành Hộ Pháp khi Hộ Pháp qui vị.
Giữa Đại Hội Đức Hộ Pháp có tỏ ý cho Hội Thánh biết
rằng Ngài muốn lập một Ban Phụ Chánh để giúp Ngài; trong Ban Phụ Chánh có đủ
Chức Sắc Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài nam nữ.
Sau nầy sẽ có Đạo Nghị Định nói về ban nầy.
Sự xây trở trong nền Chánh Trị của Đạo chẳng qua là vì
Thiên Thơ tiền định, đến lúc Chí Tôn chuyển thế thì tức nhiên phải có chuyển
pháp, điều ấy nếu ráng kiếm hiểu thì cũng không chi lạ.
Hội Thánh chỉ ước mong cho chư Hiền Huynh và chư Hiền
Tỷ biết rằng dầu Hiệp Thiên Đài hay Cửu Trùng Đài đều là người của Hội Thánh,
còn sự hiệp nhứt của nhị Đài là phương thuốc hay đương thời, xin chư Hiền Huynh
và chư Hiền Tỷ ráng tận tâm đôi lúc nữa thì sẽ thấy điều vui mừng chung trước
mắt và hiểu rõ thiên ý của Đức Chí Tôn buổi nầy.
Rất mong thay.
Nay Kính.
Toà Thánh ngày 10-11- Giáp Tuất.
(16-12- 1934).
Thái Chánh Phối Sư. Thượng Chánh Phối Sư. Ngọc Chánh
Phối Sư.
Khai
Đạo.
Khai Thế.
Khai Pháp
Phạm Tấn
Đãi.
Thái Văn Thâu. Trần Duy Nghĩa.
B1.5/- Có mâu thuẫn với Pháp Chánh Truyền hay không?
Lời
dạy: Vậy thì quyền-hành Chí-Tôn của Thầy đặng trọn-vẹn khi Giáo-Tông cùng
Hộ-Pháp hiệp một có mâu thuẫn với PCT CG hay không?
Xin
thưa rằng không, bởi vì lời dạy trên đây nằm trong Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh
thuộc về Chánh Trị Đạo. Cho nên 15 phẩm có Dây Sắc Lịnh không áp dụng quyền
năng Dây Sắc Lịnh trong Hội Hội Thánh và Thượng Hội. Do vậy khi biểu quyết phải
theo Nội Luật mỗi hội.
PCT
CG là phân quyền khi hành chánh, xin xem trích đoạn sau.
PCT: "Thầy khuyên các con lấy tánh vô tư mà hành
đạo, Thầy cho các con biết trước rằng: Hễ trọng quyền thì ắt có trọng
phạt".
CHÚ GIẢI: Vì lời khuyên của Thầy mà Đức Lý Giáo
Tông xin buộc cả Chức Sắc Hiệp Thiên Đài phải Minh Thệ giữa Hội Thánh rằng: Lấy
dạ vô tư mà hành Đạo, lại muốn tỏ ra rằng: Chức Sắc Hiệp Thiên Đài thật
trọng quyền, Ngài mới ban dây sắc lịnh, buộc cả Tín Đồ và cả Chức Sắc Thiên
Phong, hễ mỗi Chức Sắc Hiệp Thiên Đài mang dây sắc lịnh vào mình mà hành
chánh nơi nào, thì phải tuân mạng, dầu lỗi quấy cũng phải chìu theo, chỉ để
cho Hội Thánh có quyền định tội, lại buộc cả Chức Sắc nào đã thọ quyền của
Hiệp Thiên Đài cũng phải minh thệ, y như vậy mới đặng hành chánh.
Tóm lại: PCT CG là
Hành Chánh Đạo (áp dụng quyền năng Dây Sắc Lịnh) nên tách Cửu Trùng Đài (chánh
trị - giáo hóa) riêng biệt với Hiệp Thiên Đài (luật lệ) khi cầm quyền hành
chánh. Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh thuộc về Chánh Trị Đạo (không áp dụng quyền
năng Dây Sắc Lịnh) nên không có chi gọi là mâu thuẫn.
B1.6/- Đức Hộ Pháp cầm quyền Chưởng Quản Nhị Hữu Hình
Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng (Quyền Chí Tôn tại thế).
Đức
Hộ Pháp có hai lần cầm quyền Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài Hiệp Thiên và Cửu
Trùng (Quyền Chí Tôn tại thế).
Lần đầu:
khi Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt còn tại thế. Chính Đức Quyền Giáo
Tông Thượng Trung Nhựt đã giao quyền Chưởng Quản Cửu Trùng Đài cho Đức Hộ Pháp
(ký ngày 27-12-1933).
Số
24
Toà Thánh, le 29 Janvier 1934.
TỜ GIAO QUYỀN.
Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt.
Kính cùng Đức Hộ Pháp.
Kính Hiền Hữu.
Vì có sự hiểu lầm mạng lịnh của tôi ký ngày 27-12-1933
nên tôi tưởng cần phải giải thich rõ cách thi hành mạng lịnh ấy như sau nầy,
xin Hiền Hữu truyền lại cho 03 vị Quyền Đầu Sư và Nữ Chánh Phối Sư biết:
1/- Tôi đã nhứt định an dưỡng một ít lâu thì cả
trách nhiệm Quyền Giáo Tông của Tôi đều tạm giao cho Hiền Hữu. Vậy từ đây Hiền
Hữu đã cầm trọn hai quyền Đạo nơi tay, thì việc chi cũng do Hiền Hữu tự quyền
định liệu rồi ban mạng lịnh cho toàn đạo tuân cứ.
2/- Tôi vui lòng để cho nhị vị Quyền Đầu Sư Thượng
Tương Thanh và Ngọc Trang Thanh tái thủ phận sự, nghĩa là được trở vào địa vị
Quyền Đầu Sư mà hành chánh y theo luật đạo.
Về việc tùng quyền thì tức nhiên từ đây duy có tùng
lịnh của hiền hữu mà thôi.
Nay kính.
Quyền Giáo Tông.
Ký tên Thượng Trung Nhựt.
Khi
nhị vị Quyền Đầu Sư còn hành đạo tại Tòa Thánh đã có sự giao quyền. Tôi không
thấy văn bản nào phản đối (cũng có thể là có mà Tôi tìm không được), nếu quý vị
nào có tài liệu phản đối vui lòng chia sẻ, xin cảm ơn trước.
*/-
Ngày 09-01-Giáp Tuất (22-2-1934). Nhằm lễ vía Đức Chí Tôn Đức Hộ Pháp tuyên bố
tại Đền Thánh: Không kham trách nhiệm chấp chưởng cả hai Đài Hiệp Thiên và Cửu
Trùng, nên giao trả quyền hành Giáo Tông lại cho Ngài Thượng Trung Nhựt.
Lần hai: Khi Đức Quyền
Giáo Tông đăng tiên.
Ngày 13-10-Giáp Tuất (19-11-1934) Đức Quyền
Giáo Tông đăng tiên. Liên Đài nhập bửu tháp sáng ngày 26-10- Giáp Tuất
(02-12-1934). Chiều cùng ngày Hội Thánh mở phiên họp quyết định giao cho Đức Hộ
Pháp kiêm nhiệm Quyền Chưởng Quản Cửu Trùng Đài. Ngày 10-11- Giáp Tuất (16-12-1934) Văn Phòng Nội Chánh ra
Châu Tri 21 như đã dẫn chứng tại B1.4.
B1.7/- Đức Lý Giáo Tông xác định
(13-11-1935).
Hộ-Pháp-Ðường, ngày 18 tháng 10 năm Ất-Hợi (13 Novembre 1935)
Lý-Thái-Bạch
Lão
chào Hộ-Pháp, chư chức-sắc Hiệp-Thiên, Cửu-Trùng và Hội-Thánh Ngoại-Giáo.
Ðợi
Lão biểu Cao-Thượng-Phẩm nâng loan (buông cơ).
Lão
đến tư đường của Hộ-Pháp nên cho miễn lễ, đứng hết.
Hộ-Pháp,
hèn lâu Lão không đến chuyện vãng cùng nhau đặng, một là vì không cơ-bút, hai
là vì Thiên-thơ biến-chuyển, Lão có đến cũng chẳng ích gì. Nay vì lễ Ðạo-Triều,
nên đến chúc-mừng chư Hiền-hữu. Lão để lời cám ơn Hộ-Pháp đã chịu lắm phen
nhọc-nhằn khổ-não làm cho Ðạo ngày nay đặng ra thiệt tướng. Lão chỉnh thẹn có
một điều là Lão chưa giúp hay vào đó. Lão đa tạ, đa tạ.
(Hộ-Pháp
bạch....................................)
-
Cười, Lão chẳng nói rõ, Hiền-hữu cũng thấy hiển-nhiên rằng từ thử, thảng Lão có
muốn nên cho Ðạo đi nữa thì cũng không thi thố chi đặng với một Hội-Thánh hữu
-hư, vô-thiệt, như vậy có phải? May thay! Thiên-thơ do một mặt chẳng chi dời
đổi trở ngăn, nên may ra nữa, từ đây Lão có phương cầm quyền trị thế.
(Hộ-Pháp
bạch: Thiên-thơ đã đổi, đệ-tử xin giao quyền hành của Quyền-Giáo-Tông lại
cho Ngài đặng Ngài đủ oai cầm Thiên-thơ vững chặt).
-
Cuời, Lão e cho, một là Lão đã cho, không lẽ lấy lại, hai là hành-pháp thì
dễ, hành-hình thì khó, không có nửa quyền trị thế của Lão nơi tay thì Hộ-Pháp
có thế nào điều hành Hội-Thánh cho đặng. Ấy vậy cứ để y.
Nghe
thi nầy và kiếm hiểu:
Bát-nhã từ đây vững lái thuyền,
Tuông pha khổ-hải độ nhơn-duyên.
Gay chèo thoát khổ đầy linh-cảm,
Rạch nước trừ oan đủ diệu-huyền.
Thổi thẳng cánh buồm thì Lão thủ,
Nâng an lòng bản cậy Thần-Tiên.
Phong ba mấy độ đà qua khỏi,
Ném thử Gián-Ma đóng Cửu-tuyền.
Thăng
Kết luận 1: Đức Hộ Pháp
cầm quyền Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng là lo nơi Ngọc
Hư Cung định Hội Thánh Cao Đài công cử (Chức sắc TTTN căn cứ vào Pháp Chánh
Truyền nên muốn bãi bỏ Phước Thiện nghĩa là các vị biết quyền hạn theo PCT), Ba
Hội Lập Quyền Vạn Linh tín nhiệm, Đức Lý Giáo Tông xác nhận nghĩa là đúng với
pháp luật và Thiên Thơ. Hiền huynh nhận định: Đơn cử là TTTN tôn xưng Hộ
Pháp là Thầy là Giáo Chủ Hửu Hình. tôn xưng hay viết: Đơn cử là sự Độc Tài, Độc Tôn của Hộ Pháp Phạm Công
Tắc cũng là tự do quyền.
Kết luận 2: Nếu
Hộ Pháp tự xưng như vậy có đúng với Hạnh Khiêm Nhường của một bậc tu hành và có
phạm thượng với Đức Chí Tôn không?
Nguyên lý của Tam Kỳ Phổ Độ là đi
từ hữu hình đến vô vi. Đạo Cao Đài dùng Nho Tông Chuyển Thế, không phải Tiên
Tông hay Phật Tông. Trong Nho Tông thì chính danh là phần rất quan trọng. Trái
cà, trái ớt nếu gọi sai tên thì làm sao hiểu? Màu đen, màu trắng gọi không đúng
tên làm sao sử dụng? Nếu không chính danh thì xã hội đảo điên, phải trái không
phân được thì xã hội về đâu?
Đức Hộ Pháp Chưởng Quản Nhị Hữu
Hình Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng là cầm quyền Chí Tôn tại thế là không chính
danh là tự mâu thuẩn với Nho Tông, vậy xưng danh Nho Tông Chuyển Thế hóa ra là
dối trá hay sao?
Đức Hộ Pháp cầm quyền Chí Tôn tại
thế mới có thẩm quyền và tư cách:
/- Viết 11 bài kinh trong Kinh
Thiên Đạo và Thế Đạo
/- Lập thể pháp và tuyên bố một thế
kỷ là 120 năm.
/- Lập ra những thể pháp căn bản
trình bày bên trên.
Đức Hộ Pháp không chính danh trái với lời Thầy
dạy, là phủ nhận quyền của Ngọc Hư Cung giao cho, vậy làm sao có đủ oai quyền
để lập ra thể pháp? Không có thể pháp làm cơ sở thì làm sao Đại Từ Phụ trở
pháp? Thầy và các Đấng nhìn nhận nên mới ban ơn để Đức Hộ Pháp lập các thể pháp
như đã trình bày. Thầy ban cho mỗi người có quyền tự do: Lành dữ hai đường
vừa ý chọn … nên hiền huynh có đủ quyền nhận định theo câu vấn nêu ra. (Xem
thêm câu III, 2.1)
[[[Về trở pháp: Thánh Ngôn Hiệp
Tuyển Q 2 ngày 12-2-1933: Đức Bà Bát Nương dạy: Em an dạ, từ đây đã quan
kiến sự kết-cuộc của Chí-Tôn đã định trước. Em nhớ lại, khi Ngọc-Hư định cho Hiệp-Thiên-Đài
cầm số-mạng nhơn-sanh, lập thành chánh-giáo, thì Đại-Từ-Phụ lại trở pháp, giao
quyền ấy cho Cửu-Trùng-Đài. Cả Ngọc-Hư Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đều
ngạc-nhiên sự lạ. Đại-Từ-Phụ phổ-giáo rằng: Hay, hay không lẽ để phận hèn,
ngày sau sẽ rõ thánh-ý Người quyết liệu.
Đức Bà Lục Nương dạy: Khi mơi
nầy em đặng tin lành: Ngọc-Hư lo chuyển pháp. Cả Thiên-thơ hủy phá, sửa-cải
pháp chơn-truyền. Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật vui mừng chẳng xiết, Diêu-Trì
Từ-Mẫu đẹp dạ không cùng, …)]]].
Nếu quý vị quan tâm Tôi rất hân hạnh chia sẻ (Xem thêm câu III, 2.1)
Vấn B2/- Trong khi đó
Thầy đả dạy “Chính mình Thầy đến dạy dổ các con; chẳng chịu giao chánh giáo chi
tay PHÀM nửa”
Hồi đáp.
Về xuất xứ
câu nầy nằm trong PCT CG (ban hành 2-4-1931) phần Hiệp Thiên Đài nên phải theo
nghĩa của PCT CG, nếu không theo nghĩa trong PCT CG mà tự suy diễn theo cách mồ
côi là trích văn mà mất ý, mất nghĩa có khi phản nghĩa. Xin trích nguyên văn
trong PCT CG theo thứ tự để minh lý:
Nguyên văn 1:
Nay Thầy nhứt định đến chính mình Thầy đặng dạy dỗ nhơn sanh mà thôi, chớ
không chịu giao nền Chánh Giáo của Thầy cho tay phàm nữa.
Nguyên văn 2:
Như có kẻ hỏi nữa: Thầy là Chí Tôn, huyền diệu vô biên, mà lại nói Thầy
không giao Thánh Giáo cho tay phàm nữa, sao lại cũng còn phải nhờ Hiệp Thiên
Đài, cũng là phàm vậy? Nếu không Hiệp Thiên Đài, thì Thầy không thể lập Đạo
sao?
Ta lại nói: Thầy là chúa sự vô vi,
nghĩa là chúa các việc vô hình, Thầy lại ban cho người đủ khôn ngoan trí thức
Thiêng Liêng, đặng làm chúa của sự hữu hình, nghĩa là chúa cả của vạn vật, nếu
muốn cho sự vô vi và sự hữu hình được tương đắc, thì cả hai ông chúa phải liên
hiệp nhau mới đặng, người có sức sửa cơ Tạo Hóa, song Tạo Hóa cũng tùy người mà
làm cho vạn loại trở nên tận thiên, tận mỹ.
Nguyên văn 3:
Thầy cùng các Đấng Thiêng Liêng không nhơn thân phàm ngữ, thế nào mà thông
công cùng cả chúng sanh, lại còn cao khó vói, khuất không rờ, chỉ nhờ lương
sanh giúp công gầy đạo đức. Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài là người giúp
công cho Thầy và các Đấng Thiêng Liêng gầy Đạo.
Nguyên văn 4:
Trước đã nói Hiệp Thiên Đài là chơn thần, Cửu Trùng Đài là xác thịt, Bát
Quái Đài là linh hồn. Hồn đặng tương hiệp cùng xác phải nhờ chơn thần, chơn
thần lại là bán hữu hình, tiếp vô vi mà hiệp cùng hình thể, cũng như Đạo tiếp
Thánh Đức của các Đấng Thiêng Liêng mà rưới chan cho nhơn loại. (Hay) Nhơn loại đặng liên hiệp cùng Trời
thể nào, thì Cửu Trùng Đài phải liên hiệp cùng Bát Quái Đài thể ấy.
Bát Quái Đài là hồn của Đạo mà Thầy
đã nắm chặt phần hồn thì xác phải nương theo hồn, mới mong giữ bền sanh hoạt, hồn
Đạo Thầy đã nắm chặt rồi; thì Đạo chẳng hề khi nào còn chịu dưới tay phàm nữa
(2) Ấy vậy Thầy nói không chịu giao
Thánh Giáo cho tay phàm là tại vậy.
Qua 4 trích đoạn theo thứ tự trên
đây chúng ta thấy gì?
Trường hợp 1:
Nếu để mồ côi câu: “Chính mình Thầy đến dạy dổ các con; chẳng chịu giao
chánh giáo chi tay PHÀM nửa “, thì khó có thể hiểu đúng ý nghĩa của nó. Một
câu quan trọng như thế mà không hiểu đúng sẽ kéo theo nhiều cái không đúng khác
theo nó (Nhất niệm vô minh vạn sự tòng)
Trường hợp 2:
Đưa câu “Chính mình Thầy đến dạy dổ các con; chẳng chịu giao chánh giáo chi
tay PHÀM nửa “, vào trong hệ thống của PCT CG để phân tích, câu trên có
nghĩa là Thầy vi chủ Bát Quái Đài là làm chủ hồn của đạo, Thầy không giao
hồn đạo cho TAY PHÀM, nhưng Thầy phải giao cho tay phàm là phần hữu hình của Hiệp
Thiên Đài và Cửu Trùng Đài để thể thiên hành hóa dưới quyền của Bát Quái Đài.
Nhất niệm vô minh vạn sự tòng,
để mồ côi câu: “Chính mình Thầy đến dạy dổ các con; chẳng chịu giao chánh
giáo chi tay PHÀM nửa thì không thể nào hiểu đúng theo PCT CG.
Tóm lại
qua các trích đoạn câu: “Chính mình Thầy đến dạy
dổ các con; chẳng chịu giao chánh giáo chi tay PHÀM nửa” có nghĩa là Thầy
không giao hồn đạo (Bát Quái Đài) cho tay phàm nắm. Thầy là vô vi nên phải nhờ
phần hữu hình của Hiệp Thiên và Cửu Trùng thể thiên hành hóa. Đó là theo PPT
CG, hiền huynh tự quyết nhé.
Vấn
C/ Khi quý tiền bối bắt đầu vọng thiên cầu Đạo, Đức Chí Tôn (danh xưng lúc đó là
AAA) đả cấm các Ngài không được hỏi chuyện chính trị hay bàn chuyện quốc
sự. Nhưng sau này Đức Hộ Pháp tiếp tục
làm chính trị, làm lảnh tụ một đảng phái. Như vậy HP có làm đúng vai trò của
mình không?
Hồi
đáp:
Đạo Cao
Đài là một tôn giáo pháp quyền, nghĩa là đạo dùng luật trị người để thay cảnh
người trị người. Đạo dạy Nhứt vi u ám tất giai
văn, Nhứt thiết chúng sanh thành chánh giác. Do
vậy Tôi căn cứ vào PCT CG khoản quyền năng Dây Sắc Lịnh làm căn bản khi hồi đáp
câu nầy.
Đức Chí Tôn cấm không được hỏi quốc
sự hay chính trị và Đức Chí Tôn cũng dạy: Trung, mặc kệ nó, chúng nghi cho
các con lo quốc sự, Thầy vì các con xin lắm mới ép lòng chịu vậy, chớ chánh trị
với Đạo chẳng có buổi liên hiệp cùng nhau. Thầy nói ít các con hiểu nhiều.
(Ngày 15-9-Bính Dần, 1926. TNHT Q 1, trang 45, bản in 1972.)
Phân tích:
Đức Chí Tôn không dạy cấm tìm hiểu về chánh trị, vì nếu không hiểu về chánh trị
thì làm sao biết chánh trị là cái gì, chánh trị ở đâu, chánh trị đang làm gì để
không vô tình liên hiệp với chánh trị. Đây là chứng cứ.
C.1/- Phương Châm Hành Đạo dạy:
Mỗi lần thuyết Đạo, cứ theo chánh lý giải bày, chẳng nên tôn trọng Đạo mình
thái quá mà mục hạ đến Tôn-Giáo khác; chẳng đặng luận bàn quốc-sự; chẳng đặng
bày điều huyễn hoặc làm cho náo động lòng người cùng mất cuộc trị bình trong
nước; chẳng đặng dùng thói dị-đoan mê-tín mà mê-hoặc lòng người.
C.2/- Vi bằng 03 Hội Lập Quyền Vạn
Linh năm Đinh Sữu (1937) trang 30 qui
định:
b/- ...Lại cũng yêu cầu Hội Thánh
phải truyền lịnh cho mỗi Văn phòng Đầu Quận Đạo phải có một tủ sách. Ngoài kinh
sách của Đạo còn phải sắm các sách có giá trị về luật đời, luật hình, luật hộ,
luật lao động, luật Làng, Tổng... đặng đào luyện cho chức việc nơi quận mình
cho lảu thông hầu đối đãi với đời khỏi phạm pháp hoặc Đời đối với Đạo muốn
phạm pháp cũng không được; và cũng nên đóng một số nhựt báo của đời để đào
luyện cho chức việc và đạo hữu am hiểu tình hình thế giới, và tin tức nước
nhà....
Những trích văn trên dạy người đạo
phải biết về chánh trị để không phạm luật đời và đời muốn phạm đến đạo cũng
không được.
C.3/- Thời gian biểu của
Đức Hộ Pháp năm 1941-1946:
Ngày 04-6- Tân Tỵ (28-6-1941) lúc 8
giờ sáng chính quyền Pháp vào Nội Ô Toà Thánh bắt Đức Hộ Pháp.
Ngày 04- 6 nhuận- Tân Tỵ
(27-7-1941) Đức Hộ Pháp và Ngài Khai Pháp cùng với một số Chức Sắc bị lưu
đày sang đảo Madagascar ở Phi Châu. (Ngày và tháng âm lịch bị bắt và đi đày
trùng nhau chỉ khác ở tháng 6 thường và nhuận).
{ĐHP: Về sài gòn: 26-7- Bính Tuất
(22-8-46).
Về Toà Thánh: 04-8-Bính Tuất
(30-8-46)}.
Khoản thời gian nầy Ngài Tiếp Đạo
đã được Đức Lý Giáo Tông và Ngài Thượng Trung Nhựt về cơ dạy lập ra Nội Ứng
Nghĩa Binh (tiền thân của Quân Đội Cao Đài). Theo Pháp Chánh Truyền Chú Giải,
chỉ có 15 phẩm có Dây Sắc Lịnh (12 vị Thời Quân và Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng
Sanh) và quyền hành Dây Sắc Lịnh:
C.4/- PHÁP CHÁNH TRUYỀN: "Thầy khuyên các con lấy
tánh vô tư mà hành đạo, Thầy cho các con biết trước rằng: Hễ trọng quyền thì ắt
có trọng phạt".
CHÚ GIẢI: Vì lời
khuyên của Thầy mà Đức Lý Giáo Tông xin buộc cả Chức Sắc Hiệp Thiên Đài phải
Minh Thệ giữa Hội Thánh rằng: Lấy dạ vô tư mà hành Đạo, lại muốn tỏ ra rằng:
Chức Sắc Hiệp Thiên Đài thật trọng quyền, Ngài mới ban dây sắc lịnh, buộc cả
Tín Đồ và cả Chức Sắc Thiên Phong, hễ mỗi Chức Sắc Hiệp Thiên Đài mang dây sắc
lịnh vào mình mà hành chánh nơi nào, thì phải tuân mạng, dầu lỗi quấy cũng
phải chìu theo, chỉ để cho Hội Thánh có quyền định tội, lại buộc cả Chức
Sắc nào đã thọ quyền của Hiệp Thiên Đài cũng phải minh thệ, y như vậy mới đặng
hành chánh. (Bảo Văn Pháp Quân cũng phải vậy nữa nghe.)
Ngài Cao Tiếp Đạo được ban Dây Sắc
Lịnh, theo PCT CG thì khi Ngài hành chánh chỉ có Hội Thánh Cao Đài có quyền
buộc tội Tướng-Soái của Đức Chí Tôn, PCT CG không ban cho ai khác quyền
định tội. Hội Thánh đã không định tội.
Một vài câu hỏi cần nêu ra
cho công bằng: Theo hồ sơ từ chính quyền thực dân Pháp họ định đày Đức Hộ Pháp
đi Madagascar (1941) để chết bên đó nhưng đến năm 1946 thì tại sao Pháp phải
đưa về Tòa Thánh Tây Ninh? Do lòng nhân từ của thực dân Pháp hay do áp lực nào?
Đức Hộ Pháp chết ở Madagascar theo
kế hoạch của thực dân Pháp thì có Tòa Thánh Tây Ninh như ngày nay và Châu Thành
Thánh Địa với quy hoạch 40 cây số vuông làm Thủ đô tôn giáo hay không?
Tiếp theo tới phần Đức Hộ Pháp,
Ngài cũng có Dây Sắc Lịnh.
C.5/- Đức Hộ Pháp tuyên bố làm
chánh trị (Thượng Tôn Quản Thế).
Khi Đức Hộ Pháp về Tòa Thánh thì
Nội Ứng Nghĩa Binh đã có. Từ Nội Ứng Nghĩa binh Ngài ban cho Quân kỳ và tiêu
chí: Bảo Sanh – Nhơn Nghĩa – Đại Đồng và Đức Hộ Pháp cầm quyền Thượng Tôn Quản
Thế (1947) để lập Quân đội Cao Đài.
Về hậu trường:
Đức Lý Giáo Tông thảo luận với Đức Hộ Pháp về việc nầy và khuyên Đức Hộ Pháp
phải lập Quân Đội Cao Đài (để không bị đóng đinh lần nữa).
Về xã hội:
Ngày 8-1-Đinh Hợi (1947) QĐCĐ chính thức làm lễ xuất quân. Quân kỳ 3 màu vàng,
xanh, đỏ, trên góc có bánh xe tiến hoá. Trong dịp này, Đức Phạm Hộ Pháp có nói
rõ: "Ngày hôm nay, lá cờ của Chi Thế ra mặt với Đời, cùng cây Thư Hùng
Kiếm, y theo lời hứa của Đức Chí Tôn lập cho nước Việt Nam một nền Quốc Đạo, cơ
quan cứu sanh cho vạn loại. Vậy Quân Đội Cao Đài phải giữ gìn thanh gươm nghĩa
hiệp, cờ nhân nghĩa cho vững vàng".
Cũng trong ngày 08-01-1947 Quân đội
Cao Đài có ký thêm với Pháp một Hiệp ước nữa. Nội dung của Hiệp ước được Đức
Ngài nhắc đến trong Thánh Lịnh ngày 24-01- Kỹ Sửu. “21-02-1949”.
***/- Phiên nhóm Bộ Quốc Sự Vụ ngày
mồng 9 tháng 2 năm Đinh Hợi (1947) “Lời Thuyết Đạo Q 1”.
Nếu đã biết rằng vì ủng hộ một chủ
nghĩa, nên chủ nghĩa đó tạo ra quân đội để làm hậu thuẩn, thì chúng ta phải
nhận định rằng chánh trị tạo ra quân đội chớ quân đội không khi nào tạo ra
chánh trị.
Cũng như chúng ta ngày nay, hỏi vậy
chúng ta theo đuổi chủ nghĩa nào? Có phải chúng ta theo đuổi chủ nghĩa Cao Đài
không? Nếu đúng như thế thì chủ nghĩa Cao Đài vì muốn tồn tại nên phải lập ra
quân đội. Như vậy quân đội là của chánh trị lập thành, nên quân đội phải tuân
theo nguyên tắc chánh trị. Như thế quân đội phải do chánh trị điều khiển vì
chúng ta làm chánh trị.
Làm chánh trị là làm Quốc sự, nên
nước nào cũng có Bộ Quốc Sự. Bộ Quốc Sự muốn đạt thành con đường chánh trị của
mình thì quân đội là cơ quan tạo nên để ủng hộ chánh trị đó vậy. …
…. Chúng ta ngày nay vì làm chánh
trị nên phải có quân đội, ngày nào nếu chúng ta không làm chánh trị nữa thì
quân đội phải giải tán.
C.6/- Về Quân Đội Cao Đài,
Đức Hộ Pháp dạy rõ trong Lễ Khai
mạc Hội Nhơn Sanh của Quyền Vạn Linh năm Tân Mão
(1951):
Nhưng
lạ gì cái tuồng đời, duy có những kẻ không làm nên gì hết thì không ai trích
điểm, vì có làm gì đâu mà có nên, có hư,
trắng trợn như vậy thôi thì có gì mà trích điểm, chúng ta có làm gì thì lẽ cố
nhiên chúng ta phải gặp việc nên hư, phải quấy, ấy là lẽ thường chúng ta có
làm, nên chúng ta bị trích điểm và ta biết cầu cho thiên hạ trích điểm.
Giờ
phút nầy Bần Đạo nói về Đạo Cao Đài đối với tương lai vận mạng của nước
Việt Nam chúng ta. Đạo Cao Đài đã tròn phận sự của nó là đeo đuổi
theo cái nguồn gốc tinh thần đạo đức. Bần Đạo nói: "Nó là Quốc hồn nước
Việt Nam vì nước Việt Nam vi chủ nó không được, lại là tinh
thần và tín ngưỡng của toàn nhơn loại tức là nó phải chịu dưới chủ quyền Quốc
tế".
Ấy
vậy Thánh Thể của Đức CHÍ TÔN, hay nói là Hội Thánh thay thế hình ảnh của Ngài,
tỷ như đứng về mặt khách quan khi thấy điều bất chánh bất bình của nhơn quần xã
hội, nên phải đảm đương đem chơn lý và công bình nêu trên mặt thế mà thôi. Đạo
làm dùm phận sự tạo thế cho Đời. Mà sự làm ấy rất nên đắc lực hay là nói rõ Đạo
đảm nhiệm phận sự của mình với cử chỉ vô thân vô vị.
Đó
là nói về chính trị tổng quát của Đạo.
2.
Còn luận về việc đối nội của Đạo.
Hơn
năm năm qua, trải nhiều nỗi khó khăn nghèo khổ, toàn thể con cái Đức Chí Tôn
phải đảm đương gánh vác nặng nề để tạo nghiệp mà Đức Chí Tôn ban chung cho toàn
con cái của Ngài.
Xem
qua các cơ quan ba vị Thái Thượng Ngọc Chánh Phối Sư nắm chủ quyền giữ vững nền
Chánh Trị Đạo với 9 viện. Trong thời buổi khó khăn loạn lạc, Đạo muốn thực
hiện Bảo Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng nên mới xuất hiện ra Quân đội. Cái thêm ấy,
chúng ta cho vinh diệu chớ không phải là cái nhục, thảng có kẻ nghi kỵ trích
điểm hoặc giả một ngày kia thiên hạ nói: Đạo thì không thể có Quân đội, hay là
họ đem ra tố cáo chúng ta giữa Liên Hiệp Quốc đi nữa, thì chúng ta xin trả lời
rằng: chúng ta hy sinh tánh mạng để bảo vệ và dìu dắt nhơn sanh tiến đến con
đường Đại đồng thế giới và tinh thần Đạo Đức nhơn nghĩa. Cái phận sự tối trọng
ấy chẳng phải dễ làm chúng ta dám cố gắng hy sinh cho thiên hạ, thì thiên hạ
không ai làm đặng vì không có cơ quan nào đứng ra đương đầu để đảm đương một
lời hy sinh dường đó. Thật Bần Đạo chưa hân hạnh ngó thấy vậy. Ngoài ra họ có
thể mượn quyền lực để lập danh phận quyền lợi cho họ mà thôi, chớ chưa hề dám
hy sinh đảm nhiệm một trách vụ Thiêng Liêng như Quân Đội Cao Đài đã khấn hứa.
Hiện
nay Bần Đạo phân đoán chí lý nội tình của Đạo nhận thấy một bên là Hội Thánh
thì mấy ông già nua, còn một bên Quân đội là trai trẻ có tinh thần giục tấn.
Một
bên là hình ảnh Thánh Thể Đức Chí Tôn đi trên đường mực thước từ từ nhi tiến,
còn một đàn thì chạy theo cho kịp trào lưu biến chuyển, nên chí quyết tiến cho
hơn, một đàn thì mỗi khi đi để chơn đi thì sợ đạp nhầm đến con kiến. Còn một
đàn thì nếu thân mình không nhanh chóng lẹ làng thì một mũi đạn đủ đưa họ làm
người thiên cổ.
Đức Hộ Pháp đã giải thích rõ về
QĐCĐ hiền huynh có toàn quyền để nhận xét về trích đoạn trên để đồng tình hay
không đồng tình là quyền tự do.
C.7/- Theo sử gia Nguyễn Long Thành
Nam của Phật Giáo Hòa Hảo thì chính Đức
Hộ Pháp lập ra Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia và làm chủ tịch. Trích
văn:
Mặt Trận Thống Nhứt Toàn Lực Quốc Gia do Đức Hộ Pháp Phạm
Công Tắc làm Chủ tịch, gồm các thành phần: Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo, Bình
Xuyên, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng và Cao Đài Liên Minh (Tướng Trình Minh
Thế). Ngày 21-3-1955 Mặt trận gởi đến Thủ tướng một văn thơ, mà dư luận gọi là
tối hậu thư, yêu sách Thủ tướng cải tổ chánh quyền. Thủ tướng yêu cầu Mặt Trận
gởi đại diện đến dinh Độc Lập để trao đổi quan điểm. Phái đoàn đi phó hội ngày
25-3-1955 gồm có Ngài Bảo thế Lê Thiện Phước (Cao Đài), ông Trần Văn Ân (nhân
sĩ Cố vấn Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia), Tướng Lâm Thành Nguyên (quân
đội Phật Giáo Hòa Hảo), Đại tá Trần Thái Huệ (quân đội Cao Đài), ông Nhị Lang
(Liên Minh) và tôi là Thành Nam (Phật Giáo Hòa Hảo), lúc đó Tướng Trình Minh
Thế vẫn còn là một thành viên Ban Chấp Hành Mặt Trận, mặc dù ông đang là sĩ
quan quân đội quốc gia từ ngày về hợp tác (18-2-1955). Do đó, khi ký tên tham
gia Mặt Trận, Tướng Thế có ghi thêm một câu ở dưới chữ ký của mình rằng: ‘’Tôi
là thiếu tướng quân đội quốc gia, cố nhiên không có quyền làm chánh trị, nhưng
vì nhận rõ nguy cơ chung của dân tộc, tôi tán thành bản quyết nghị này”.…
… Tôi còn nhớ lúc đó Mặt Trận không hề nghĩ đến việc đưa
một người trong Mặt Trận ra làm Thủ tướng, bởi vì như thế sẽ làm mất chánh
nghĩa: tranh đấu giành cái thế Thủ tướng. Yêu sách căn bản của Mặt Trận lúc đó
là cải tổ cơ cấu quốc gia ở cấp trung ương để bộ máy chánh quyền hữu hiệu, có
đại diện tính, không bị cá nhân thao túng, nhứt là cá nhân ông Ngô Đình Nhu.
Chớ Mặt Trận không chủ trương giành ghế Thủ tướng của ông Ngô Đình Diệm. Nếu
ông Diệm không còn làm Thủ tướng nữa, thì cũng không phải người của Mặt trận ra
làm Thủ tướng, mà Mặt Trận có chủ trương rõ rệt giao nhiệm vụ đó cho một nhân
sĩ Miền Nam độc lập, để trấn an nhân tâm và quân đội, cứu vãn tình hình. Trái
lại, Mặt trận cũng ý thức rằng, nếu Mặt Trận nắm lấy chánh quyền, Mặt Trận sẽ
mất chánh nghĩa và lòng dân lòng quân không được yêyên, bởi lo ngại cái thế
thượng phong của Mặt Trận sẽ bao trùm lên sinh hoạt quốc gia. Tôi còn nhớ lúc
đó Bác sĩ Hồ Văn Nhựt được Mặt Trận nhắc nhở đến trong cuộc thảo luận về chức
vụ Thủ tướng tương lai.
Những nhân vật có tầm vóc chánh trị trong Mặt Trận lúc đó là
ông Trần Văn Ân, Hồ Hữu Tường. Trước đó, còn có quý ông Nguyễn Đức Quỳnh, Bác
sĩ Lê Kiểu. Đây là các nhân sĩ không đảng phái. Ngoài ra, đại diện các tổ chức
trong Mặt Trận đều là những người có kinh nghiệm đấu tranh, và biết nhìn cuộc
diện, cho nên đã thảo luận rất sâu rộng vấn đề này, trước khi đi đến quyết định
nguyên tắc là không đưa người của Mặt Trận làm Thủ tướng. Do đó không hề có
việc ông Lê Văn Viễn sẽ làm Thủ tướng.
Đó là những điều quan trọng trong đường lối chủ trương lúc đó
của Mặt Trận Thống Nhứt Toàn Lực Quốc Gia, mà từ sau khi Mặt Trận tan vỡ năm
1955, không có cơ hội nói lên, cho nên công luận trong nước và thế giới chỉ
được nghe một chiều dư luận của phía chiến thắng, qua bộ máy tuyên truyền của
Chánh phủ Ngô Đình Diệm.
C.8/- Quốc gia hóa Quân đội Cao
Đài. Đến ngày 2-5-1955 tình thế của
Việt Nam đã ổn định về chánh trị nên Đức Hộ Pháp ký kết với Thủ Tướng Ngô Đình
Diệm Quốc gia hóa Quân Đội Cao Đài. Quốc gia hóa Quân Đội Cao Đài nghĩa là Đạo
Cao Đài không làm chính trị nữa. Quốc gia hóa không phải là giải tán mà thể
hiện chính nghĩa của đạo thể hiện Chánh Trị Đạo là cứu nguy đồng đạo, đồng bào
xong rồi thì giao lại cho chính phủ.
Bất cứ một đảng phái chánh trị nào
cũng nhắm tới nắm chính quyền, Quốc Trưởng Bảo Đại đã từng mong muốn Đức Hộ
Pháp lập chính phủ trước khi giao cho Ngô Đình Diệm nhưng Ngài không chấp nhận.
Quân Đội Cao Đài khi đó thừa sức nắm chánh quyền nhưng chọn con đường Quốc gia
hóa.
Đạo có Chánh Trị Đạo, và chánh trị
đạo cũng không nhắm tới nắm chính quyền; chánh trị đạo để thực hiện 05 phương
án: gia cư, mưu sinh, giáo huấn, kiến thiết và tôn giáo để nâng cao dân đức,
dân trí và dân sinh. Đối chiếu hành tàng của Quân Đội Cao Đài với hành tàng của
chánh trị đạo để hiểu Đức Hộ Pháp làm Thượng Tôn Quản Thế để phục vụ đạo hay vì
lợi ích riêng?
C.9/- Đức Hộ Pháp bị khủng bố.
Khi chưa Quốc gia hóa thủ tướng Ngô Đình Diệm rất trọng thị Đạo Cao Đài (dự Lễ
Khánh Thành Tòa Thánh Tây Ninh) và khi đã Quốc gia hóa ngày 2-5-1955 thì điều
gì xảy ra cho Đức Hộ Pháp và nền đạo?
Ngày 20-8- Ất Mùi (05-10-1955).
Nguyễn Thành Phương, Lê Văn Tất đem binh lính về bao vây Hộ Pháp Đường.
Ngày 25-8-Ất Mùi (10-10- 1955) Hội
Thánh họp với Thiếu Tướng Lê Văn Tất là đại diện của Nguyễn Thành Phương.
- Ngày 23-10-1955 ông Diệm được bầu
làm Tổng Thống.
- Ngày 26-10-1955, chính thể Việt Nam Cộng Hoà được thành lập.
Ngày 05-01- Bính Thân (16-02-1956)
lúc 3 giờ Đức Hộ Pháp rời Toà Thánh đi Nam Vang. Cùng đi trên xe có: Giáo Hữu
Thái Của Thanh lái xe. Ông Ba Hiệu và Cô 2 Đạm. Băng sau có Ngài Hồ Bảo Đạo bên
trái Ông Thoại bên phải và Ông Hồ Thái Bạch ngồi trên gói đồ ở trước mặt Ông
Thoại.
C10/- Câu chuyện của Ngài Khai Đạo
(Phạm Tấn Đãi), Thời Quân Chi Đạo. Có lần Ngài
Khai Đạo đưa phái đoàn chính khách thăm viếng Đền Thánh.
Khi
ra đến cửa thì có vị khách hỏi tại sao Đạo Cao Đài có quân đội? Ngài chỉ vào
tượng ông Thiện trước Đền Thánh và giải thích: Đức Chí Tôn dạy lập ra tượng ông
Thiện, nét mặc hiền hòa, nhưng trên tay Ngài có binh khí là để bảo vệ lẽ phải,
bảo vệ sự sống cho người lương thiện không có phương tự vệ trước sự hung ác,
tàn nhẫn của cường quyền. Trong cảnh loạn lạc dân chúng bị sát hại rất tàn nhẫn
nên Đạo Cao Đài phải đứng ra bảo vệ mạng sống cho họ. Chiến sĩ Quân đội Cao Đài
hy sinh mạng sống để bảo vệ đồng bào, bảo vệ cơ nghiệp đạo. Biết bao nhiêu nạn
nhân nơi thôn quê sằn dã đã được Quân đội Cao Đài cứu mạng và đưa về sống tạm ở
những Châu vi của đạo hay khu vực an ninh. Khi cơn nguy hiểm đã qua, nước nhà
có chính phủ ổn định thì Quân đội Cao Đài đã quốc gia hóa. Ai muốn theo binh
nghiệp thì theo, ai muốn ở lại cửa Đạo làm công quả thì Hội Thánh sắp xếp cho
họ công quả. Do sứ mạng bảo vệ sanh mạng con cái Đức Chí Tôn trong cơn loạn
lạc, bảo vệ đại nghiệp Đạo nên có Quân đội Cao Đài. Khi làm xong sứ mạng thì quốc
gia hóa. Đó là câu chuyện Tôi nghe quý Chức sắc thuật lại, nhân câu hỏi của
hiền huynh Tôi ghi lại để tưởng nhớ các vị tiền bối.
Tóm lại:
Theo PCT CG Đức Hộ Pháp là một trong 15 phẩm có Dây Sắc Lịnh, Ngài toàn quyền
hành chánh, chỉ có Hội Thánh có quyền định tội, và Hội Thánh nhìn nhận công
nghiệp của Đức Hộ Pháp. Theo lịnh Ngọc Hư Cung Ngài cầm quyền Chưởng Quản Nhị
Hữu Hình Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng là cầm số mạng nhơn sanh để lập thành
chánh giáo. Thầy và các Đấng nhìn nhận Quyền Chí Tôn tại thế nên cầm tay chỉ
việc để lập thành thể pháp căn bản của đạo. Khi Ngài cầm quyền Thượng Tôn Quản
Thế Thầy và các Đấng vẫn về dạy việc. Ngài làm chánh trị nên phải lập Quân Đội
Cao Đài được thiêng liêng nhìn nhận. Ngài trình bày trước Ba Hội Lập Quyền Vạn
Linh cũng được nhìn nhận. Khi Ngài triều thiên thì Lý Giáo Tông giao quyền
phong thưởng Chức sắc Hiệp Thiên Đài lại, nghĩa là quyền năng của Ngài còn lớn
hơn khi mang xác phàm. Đó là bằng chứng khi còn tại thế cũng như khi về thiêng
liêng vị Thầy và các Đấng đều nhìn nhận. Thượng Đế là Đại Từ, Đại Bi nên ban
cho mỗi người có quyền tự do nhìn nhận hay không nhìn nhận.
Vậy vấn đề và câu hỏi: Nhưng sau
này Đức Hộ Pháp tiếp tục làm chính trị, làm lảnh tụ một đảng phái. Như vậy HP
có làm đúng vai trò của mình không? Hiền huynh có đủ quyền tự do để kết
luận, ấy là quyền tối trọng của Thầy ban cho.
Vấn
II/ Tổ
Chức Hành Chánh (Thể Pháp) của Hội Thánh TTTN có làm đúng theo Pháp Chánh
Truyền Không? Đơn cử, Đức HP lập ra vây cánh cho
riêng mình (Phạm Môn, Phạm Nghiệp, …). Sau này khi bị chống đối thì Ngài đổi
thành Hội Thánh Phước Thiện (với Phẩm vị cao nhất là Phật Vị; tương đương với
Giáo Tông và Hộ Pháp). NHƯNG, trớ trêu thay, cái Hội Thánh này lại được đặt
dưới sự lảnh đạo của một vị Bảo Thế (một chi của Hội Thánh Hiệp Thiên Đài), một
việc Tréo cẳng Ngổng?
Hồi
đáp.
Tôi
chia ra làm nhiều phần để hồi đáp được minh bạch.
Vấn
1/- Tổ
Chức Hành Chánh (Thể Pháp) của Hội Thánh TTTN có làm đúng theo Pháp Chánh
Truyền Không? Đơn cử, Đức HP lập ra vây cánh cho riêng mình (Phạm Môn,
Phạm Nghiệp, …). Sau này khi bị chống đối thì Ngài đổi thành Hội Thánh Phước
Thiện (với Phẩm vị cao nhất là Phật Vị; tương đương với Giáo Tông và Hộ Pháp).
Hồi
đáp.
1/-
Tổ Chức Hành Chánh (Thể Pháp) của Hội Thánh TTTN có làm đúng theo Pháp Chánh
Truyền Không?
Đạo
Cao Đài có thể pháp và bí pháp. Cả thể pháp và bí pháp của Đạo Cao Đài có nguồn
từ Thiên Thơ (bao gồm cả Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo). Nguồn máy hành chánh
tôn giáo là một trong những thể pháp của đạo bao gồm PCT và những phần khác
trong Thiên Thơ. Chữ PCT dùng ở đây mặc định là PCT CG, bởi vì PCT trong
Thiên Thơ không các phầm Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự và Thông Sự.
Hiểu
theo tân toán học thì nguồn máy hành chánh tôn giáo là một tập hợp mở, PCT CG là
một phần tử trong tập hợp đó, ngoài ra còn những phần tử khác từ Thiên Thơ đã
xuất hiện và còn nhiều phần tử mới nữa cũng từ Thiên Thơ sẽ được đưa vào nguồn
máy hành chánh. Xét trên cơ sở đó Hội Thánh ĐĐTKPĐ tổ chức nguồn máy hành
chánh theo Thiên Thơ, trong đó có PCT CG và những phần tử không có trong PCT CG
nhưng có trong Thiên Thơ (như Phước Thiện, Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh, Trí
Huệ Cung, Trí Giác Cung, Vạn Pháp Cung, …) và trong tương lai còn nhiều cơ quan
nữa cũng chiếu theo Thiên Thơ mà đưa vào trong nguồn máy hành chánh tôn giáo. Thánh
Thể của Đức Chí Tôn như một cơ thể sống mới đáp ứng được luật cung cầu để phụng
sự nhơn sanh tùy vào tài nguyên và môi trường xã hội, khoa học kỹ thuật. Chỉ
dùng PCT CG để xét nguồn máy hành chánh đạo là chưa chánh lý.
Xét về
tương quan của nhân sự trong PCT Cửu Trùng Đài và những phần tử khác trong
nguồn máy hành chánh tôn giáo thì nhân sự trong PCT Cửu Trùng Đài có nhiệm vụ
điều hợp và các phần tử khác có nhiệm vụ điều hành mà Đạo Luật Mậu Dần (1938)
là một ví dụ điển hình.
Tóm
lại: Hội Thánh
ĐĐTKPĐ tổ chức nguồn máy hành chánh theo PCT CG và thêm vào đó những phần tử có
trong Thiên Thơ, trong tương lai còn nhiều cơ quan nữa cũng từ Thiên Thơ xuất
hiện trong nguồn máy hành chánh đạo.
Nhất
nguyên đa cực: Trong
chu kỳ thất ức niên (700.000) của ĐĐTKPĐ nếu Thánh Thể của Đức Chí Tôn không là
cơ thể sống thì nó phải thối rửa và làm ô uế cho xã hội. Do vậy Đức Chí Tôn tạo
ra Thánh Thể của Ngài sống động và linh hoạt theo tài nguyên và môi trường tôn
giáo lẫn xã hội để phụng sự nhơn sanh theo luật cung cầu mà không bao giờ ra
khỏi đường ray hay chệch hướng vì Đức Chí Tôn giao Thiên Thơ của Ngài cho con
cái Ngài gìn giữ thông qua Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh. XE NHƯ Ý của ĐĐTKPĐ đưa
nhân loại vào nền văn minh mới: văn minh tâm linh hay văn minh Cao Đài Giáo qua
nhiều cảnh giới mà vẫn theo nguyên lý, pháp luật của đạo, ấy là Kỳ khai tạo
nhứt Linh Đài, Diệt hình tà pháp cường khai Đại Đồng, là nhất nguyên đa
cực.
Nhân
loại khao khát, ao ước nhân quyền, tự do tôn giáo nên ngày đêm tìm kiếm, gào
thét. Tình cảnh xã hội như thế nên tôn giáo không thể tụng kinh, gỏ mõ thâu đêm
suốt sáng, cầu nguyện hết ngày nầy qua ngày khác rồi hô hào là phụng sự. Tôn
giáo phải xây dựng dân chủ, nhân quyền trong chính tôn giáo để góp phần xây
dựng xã hội. Tôn giáo không làm được như vậy thì chỉ là ảo ảnh, tạo ra đau đớn
và làm chậm đà văn minh của nhơn loại. Đại Hội Nhơn Sanh là một quyền trong Ba
Hội Lập Quyền Vạn Linh, Nội luật Hội Nhơn Sanh thể hiện tự do trong đạo đức,
dân chủ có nhân quyền để xây dựng hòa bình cho bản thân, gia đình và xã hội nên
là bửu pháp nhân quyền của đạo trình chánh trước nhân loại.
Thầy
dạy: Đạo cũng do nơi cái phàm mà phát ra, và tiếp lấy cái thiêng liêng của
Thầy mà hiệp đồng, mới sanh sanh, hóa hóa, thấu đáo càn khôn. … Cho nên Thánh
Thể của Đức Chí Tôn cũng sanh sanh, hóa hóa mà chuyến XE NHƯ Ý vẫn trên đường
ray để đi đến cứu cánh.
(Theo
Tôi biết có nhiều phần tử trong Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý 171/B Cống Quỳnh Sài
Gòn đã và đang cổ xúy cho việc áp dụng PCT ban sơ. Mới nghe thì tưởng các vị
muốn bảo toàn lời dạy Đức Chí Tôn nhưng xét sâu hơn là cách giết đạo rất tinh
vi như cho người đạo dùng viên thuốc độc bọc đường vậy. Bởi vì làm như thế là
bỏ Bàn Trị Sự, bỏ các phẩm Chức sắc Hiệp Thiên Đài từ Tiếp Dẫn Đạo Nhơn trở
xuống, đập luôn Tòa Thánh Tây Ninh, bỏ hết hành chánh tôn giáo … ĐĐTKPĐ chỉ còn
lại mấy trang giấy với khối vật chất vô hồn mà thôi)
2/- Phước Thiện
không có trong Pháp Chánh Truyền mà đặt vấn đề Phước Thiện có đúng với Pháp
Chánh Truyền hay không là chưa chánh lý, chưa hiểu đúng về Phước Thiện, là
không thỏa đáng. PCT trong Thiên Thơ mà ra thì Phước Thiện cũng trong Thiên
Thơ mà ra, trong tương lai còn nhiều cơ quan nữa của đạo cũng chiếu theo Thiên
Thơ mà nên hình.
Theo Bán Nguyệt San Thông Tin số 77
phát hành ngày 10-6-1973 đăng lại sự kiện xảy ra năm 1951, xin tóm lược và
trích đoạn như sau:
Năm 1951 nhiều Chức sắc Thiên Phong
xét thấy Pháp Chánh Truyền không có Phước Thiện nên muốn đưa ra Ba Hội Lập
Quyền Vạn Linh để giải tán Phước Thiện. Ngài Đạo Nhơn Trịnh Phong Cương thay
mặt Hội Thánh Phước Thiện thỉnh giáo và Đức Hộ Pháp trả lời (Ngài Thừa Sử Phạm
Ngọc Trấn ghi lại):
…. Phước Thiện không có trong Pháp
Chánh Truyền, họ trích điểm là phải. Mà chính Thầy cũng nhìn nhận là không khi
nào Phước Thiện có trong Pháp Chánh Truyền, dầu rằng mấy con cầu xin đem danh
từ Phước Thiện vào Pháp Chánh Truyền lại còn sai hơn nữa. Thầy vẫn lấy quyền
Chí Tôn tại thế, không bao giờ làm trái ngược vậy được.
Bởi khi lập Pháp Chánh Truyền, Thầy
có hội cùng Đức Lý Giáo Tông được trọn quyền thay thế Đức Chí Tôn. Hể cái gì Hộ
Pháp và Giáo Tông hiệp lại lập ra trong cửa Đạo tức là lời dạy bảo của Đức Chí
Tôn. Không có việc gì từ nhỏ chí lớn mà không có mạng lịnh Chí Tôn trong đó.
Quyền hành và trách nhiệm trọng
đại, nên Đức Lý Giáo Tông nôn nóng lập thành Pháp Chánh Truyền chú giải cho kịp
Thiên Thơ của Đức Chí Tôn đã định. Nếu lập Pháp trễ thì Đạo phải loạn thì còn
gì cho công trình các Đấng Thiêng Liêng dày công dìu dẫn từ ban sơ. Ấy
vậy Pháp Chánh Truyền chú giải đó là phân quyền cho Chức Sắc Cửu Trùng Đài và
Hiệp Thiên Đài cho khỏi bị giành quyền nhau mà thôi. Và đồng thời trao
trọn quyền ấy cho Hộ Pháp có đủ phương kềm chế nền Đạo của Đức Chí Tôn. Pháp
Chánh Truyền ở trong cuốn Thiên thơ mà ra, còn chú giải là phân quyền hành.
Quyển Thiên Thơ Đức Chí Tôn đã để tại thế gian nầy. Ngài giao cho con cái
của Ngài gìn giữ mà làm của báu không gì bằng: Tức là “Thánh Ngôn Hiệp
Tuyển”. Trong quyển Thiên Thơ nầy, ngày kia có sản xuất nhiều cơ quan khác
trọng yếu nữa chớ không phải một cơ quan Phước Thiện mà thôi.
Mấy con cứ mạnh dạn trả
lời: “Pháp Chánh Truyền Hộ Pháp và Giáo Tông lấy trong Thánh Ngôn lập ra
thì Phước Thiện, Phạm Môn nó cũng ở trong Thánh Ngôn của Đức Chí Tôn dạy lập ra
chớ không có chi gọi là lạ”.
Nếu không phải sứ mạng, nghĩa là
người nào không phải là mạng lịnh của Trời thì không khi nào Trời trao cả Bí
Pháp cho tay phàm mà cầm đặng xử dụng.
Buổi nọ Đức Lý Giáo Tông dạy lập
Pháp trước rồi sau Ngài sẽ giáng cơ chấn chỉnh đặng lập cho đủ các cơ thể hữu
vi, mới có đủ phương giúp Hội Thánh làm hình thể của Đức Chí Tôn mới xứng phận
cho Ngài.
Đức Chí Tôn đã dạy hồi mới khai
Đạo: “Thầy đã chán biết thế gian nầy là phàm mà Thầy đến Thầy lấy cái phàm
hiệp lại làm Thánh, làm cho tránh đặng cái phàm không lẫn lộn trong cái Thánh.
Mà hễ Thầy lập nên Thánh thể, nếu còn vướng chút phàm thì đã ra phàm, không còn
Thánh thể. Các con nên hiểu phẩm vị cao trọng ấy mà trau lòng cho ra Thánh thể
mới đáng giá.
Thầy đã khuyên với các con, từ mỗi
đứa cứ giữ phận sự mình làm cho trọn phận; còn ngoài ra việc chi cũng mặc Thầy,
các con đừng sợ mất mà ngần ngại bước đường Đạo là quí báu. Thầy đã nói muôn
việc chi để Thầy lo, các con lo không đặng đâu”
ĐỨC HỘ PHÁP NÓI:
Thầy cho các con biết cái chủ nghĩa
Phước Thiện của Đạo Cao Đài lập ra đây nếu nó ra sớm thì sẽ bị chết trong
trứng. Vì nó là chướng ngại của thế gian. Bởi vì đời cứ bôn xu trên đường duy
vật, danh vị, quyền lợi càng tranh đấu mãi.
Còn Đạo dục tiến tinh thần, đem bác
ái công bằng trải trên mặt thế, cộng hòa nhơn loại, làm cho xã hội bình đẳng,
nâng đỡ kẻ nghèo đến tột bực, không giàu mà sang, tuy nghèo mà tự toại. Chủ
nghĩa ấy nó đương đầu với các sắc dân vương vị, đế quyền, bảo sao mà không phản
trắc, cũng vì quyền với lợi. Đừng nói chi ngoài đời trong Đạo mà cũng còn làm
tánh đức đó. Qua nói là bậc Chức Sắc lớn, không phải hàng Đạo Hữu mà thôi.
Cơ cứu thế, Đức Chí Tôn dạy lập hồi
mới khai Đạo, cũng vì cái khó khăn mà duy trì đến ngày 15 tháng 8 Quí Dậu
(1933) Qua mới thuyết trình trong bài diễn văn đã giãi rõ. Bắt đầu từ Phước
Thiện mới nảy nở đến tháng giêng năm Ất Hợi (1935) mới được bành trướng, thì
Đức Lý Giáo Tông cho phẩm Giáo Thiện mượn áo mão của Lễ Sanh 03 năm để bổ đi
các Tỉnh, lo mở Phước Thiện. Ngài dạy đợi đến ngày Hội Thánh lập nên Hội Quyền
Vạn Linh để đưa ra hội quyết định.
Thì dĩ nhiên chủ nghĩa Phước Thiện
đã ấn định trong Đạo Luật năm Mậu Dần (1938) Quyền Vạn Linh đã công nhận, nó đã
thành luật, còn có quyền nào mà sửa đổi hay giải tán.
Bởi lẽ ấy mà Đức Lý Giáo Tông
lập Đạo nghị định số 48/ĐNĐ năm 1938, phân minh trật tự Thập Nhị Đẳng Cấp
Thiêng Liêng Vị.
Qua nhắc lại, khi Anh Cả chúng ta
là Đức Quyền Giáo Tông khởi xướng tạo cơ sở Lương Điền công nghệ buổi nọ, mà
chánh quyền Pháp còn kiếm cớ buộc tội, đến đỗi ngồi ngục hai ngày.
Còn Qua cũng vì Tờ Phúc Sự trình
bày với Đế Quốc Pháp buổi nọ năm 1937, vì nguyên do chánh quyền Pháp nghi kỵ.
Nền Đạo Đức Chí Tôn có hai cơ quan
trọng yếu nhứt là Cửu Trùng Đài, cơ quan hành chánh bảo tồn văn hiến tương lai,
còn Phước Thiện là cơ quan bảo tồn nhơn loại, an ủi vỗ về, nuôi sống thi hài,
có chi hay cho bằng. Lại nữa Chí Tôn đã giao cho Thánh Thể của Ngài chủ quyền,
dưới thì có Vạn Linh gìn giữ.
Chủ quyền đã có sẵn nơi tay mà
không thực hiện, hay là vô tình mà bỏ mất đi, là tại nguyên nhân quả kiếp của
giòng dõi VN hay là toàn thể nhơn loại chưa hưởng sớm được….
(Ảnh
chụp tại link: https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2017/07/2415-nhieu-co-quan-tu-thien-tho-ma-ra.html#more )
Đức Hộ Pháp cũng có bút phê: ngày
nay Phước Thiện ra đời là QUỐC ĐẠO đã nên hình.
2.1/- Phước Thiện hành đạo:
Theo Đạo Luật Mậu Dần (1938) Phước Thiện cầm quyền điều hành nên phải tùng vào
quyền điều hợp của Hành Chánh. Bởi vì Đạo Luật Mậu Dần có 4 chương, 17 điều.
Chương HÀNH CHÁNH từ điều 1-17.
Chương PHƯỚC THIỆN lấy điều 10-11
của chương Hành Chánh tạo thành.
Chương PHỔ TẾ lấy điều 14 của
chương Hành Chánh tạo thành.
Chương TÒA ĐẠO lấy điều 15 của
chương Hành Chánh tạo thành.
Hành chánh như một Viện Đại Học mà
Phước Thiện, Phổ Tế, Tòa Đạo là những phân khoa trong đó.
Mỗi năm, sau ngày Hội Quyền Vạn
Linh có Đại Hội Phước Thiện. Đại Hội Phước Thiện lập “Chánh Trị Đạo cho Phước
Thiện” cũng như Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh lập ra Chánh Trị Đạo cho Hội Thánh
Cao Đài vậy.
Nhân sự Cửu Trùng Đài từ Giáo Hữu
trở lên có số lượng nhất định cho mỗi phẩm. Còn nơi địa phương một Hương chỉ có
một vị Chánh Trị Sự, một ấp đạo có 01 vị Phó Trị Sự và 01 vị Thông Sự. Như vậy
con đường lập công quả của nhơn sanh theo hành chánh bị giới hạn về số lượng và
chỉ dành cho người đạo. Bị hai sự giới hạn như vậy nếu tìm hiểu về chiều sâu
thì cơ tận độ (độ hết) và độ tận (đưa đến nơi) còn bị giới hạn trong phạm vi
người có đạo và chính trong người đạo cũng bị giới hạn.
Nhân sự Phước Thiện không giới hạn
ở mọi phẩm cấp, lại còn mở rộng cửa cho người ngoại đạo tham gia Phước Thiện.
Như vậy Phước Thiện thể hiện cơ tận độ (cả người đạo và ngoại đạo lại không
giới hạn số lượng “hằng hà sa số”) và độ tận đến Phật vị. Theo Đạo Luật Mậu Dần
(1938) Phước Thiện có 2 nhiệm vụ chính: tạo kinh tế, tài chánh cho nền đạo và
lo nhân sự trong nghi lễ đạo đặc biệt là tang tế sự.
Nhân sự Cửu Trùng Đài (có trong
Pháp Chánh Truyền) ra lịnh đi hành đạo nơi đâu, thi hành nghi lễ như thế nào
trong tang lễ là cầm quyền điều hợp. Nhân sự Phước Thiện căn cứ vào lịnh của
hành chánh để sắp đặc nhân sự thực hành theo bài bản qui định trong luật đạo và
Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo nên cầm quyền điều hành. Phước Thiện không có trong
Pháp Chánh Truyền nên phải dưới quyền Cửu Trùng Đài. Đó là một trong những yếu
tố để Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo (1935-1936) dạy: Cơ tận độ nhơn sanh duy kể
từ ngày ban Tân Kinh nầy mà thôi.
Trong thể pháp thì Cửu Trùng Đài là
Thánh Thể Đức Chí Tôn, vậy nguồn máu nào nuôi Thánh Thể đó để xây dựng nền văn
minh mới? Phước Thiện chính là nguồn máu để nuôi Thánh Thể. Thánh Thể ấy hành
đạo theo đường lối nào? Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh định ra Chính Trị Đạo để
Thánh Thể ấy thể thiên hành hóa.
Như vậy Phước Thiện là của toàn đạo
hay của Đức Hộ Pháp? Câu trả lời xin để hiền huynh tự quyết.
2.2/- Phước Thiện là cầu nối
Đạo-Đời.
Đức Chí Tôn dạy ngày (21/7/1926), TNHT
Q2: Kinh-điển giúp đời siêu phàm nhập Thánh chẳng khác chi đũa
ăn cơm, chẳng có đũa, kẻ có cơm bốc tay ăn cũng đặng. Các con coi kinh-điển
lại, rồi thử nghĩ lại sự công-bình thiêng-liêng mà suy-gẫm cho hay lẽ phải Thầy
khuyên các con theo sau Thầy mà đến phẩm-vị mình thì hay hơn tuông bờ lướt bụi,
đi quanh kiếm quất nghe à.
Phước Thiện thiên về thực hành,
hành đạo bằng con đường cứu khổ về vật chất, mở những Sở lương điền, Công nghệ,
tiểu thủ công nghiệp, công ty, xí nghiệp, công trường xây dựng cho đến ngân
hàng để thực thi đạo pháp. Phước Thiện bày ra trước mắt xã hội nên người ngoài
tôn giáo thấy việc cứu khổ rất hữu ích, thiết thực họ sẽ bước vào tìm hiểu nên
Phước Thiện đưa đạo vào đời bằng việc cứu khổ và đời bước vào Phước Thiện để
thực thi tam lập. Mà tam lập (lập công, lập đức, lập ngôn) là pháp điều Tam Kỳ
Phổ Độ ai tùng theo đó thì tất đắc giải thoát.
2.3/- Quyền phong thưởng:
Quyền phong thưởng cho Chức sắc Phước Thiện hay là buộc tội chức sắc ấy thì về
quyền đặc biệt của Đức Hộ Pháp mà thôi.
Đức Lý Giáo Tông là vô vi nên nhiều
nơi lập đàn cơ và được phong chức Đầu Sư, Thời Quân, Thượng Sanh … tính ra có
đến hàng chục vị Đầu Sư trong khi PCT dạy chỉ có ba vị Đầu Sư vậy thì thật ở
đâu, giả ở đâu? Thời Quân cũng vậy, thậm chí Thánh ngôn dạy ở thế này chẳng có
hai Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh mà cơ bút các nơi rộ lên là Đức Lý về
phong thưởng phẩm Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh, vậy thiệt ở đâu, giả ở
đâu?
Đức Hộ Pháp là hữu hình cầm quyền
phong thưởng nhân sự Phước Thiện, Ngài phong thưởng hay trách phạt ai thì có Ấn
Ký nên không nơi nào mạo danh Hộ Pháp để phong thưởng cho nhân sự Phước Thiện
được.
Qua đây ta thấy vô vi dễ bị lợi
dụng, còn hữu hình thì căn cước rõ ràng, khó lòng mạo nhận. Đó là sự thật về
Phước Thiện. Hiền huynh có quyền tự do để viết: Đơn
cử, Đức HP lập ra vây cánh cho riêng mình (Phạm Môn, Phạm Nghiệp,
…). Sau này khi bị chống đối thì Ngài đổi thành Hội Thánh Phước Thiện (với Phẩm
vị cao nhất là Phật Vị; tương đương với Giáo Tông và Hộ Pháp).
2.4/- Hiểu cho đúng đối phẩm.
Việc đối phẩm của Chức sắc là để
chầu lễ Đức Chí Tôn và áp dụng nghi thức cúng tế trong Quan Hôn Tang Lễ mà
thôi. Hoàn toàn không có ý nghĩa trong khi hành chánh. Chức sắc Phước Thiện đối
phẩm với Chức sắc Cửu Trùng Đài cũng trong qui định ấy. Không có một quyền nào
ngang hàng với quyền hành pháp của Cửu Trùng Đài khi hành chánh. Cách bố trí 4
cơ quan: Hành Chánh, Phước Thiện, Phổ Tế, Tòa Đạo trong Đạo Luật Mậu Dần (1938)
đã thể hiện ý chí đó.
3/- NHƯNG,
trớ trêu thay, cái Hội Thánh này lại được đặt
dưới sự lảnh đạo của một vị Bảo Thế (một chi của Hội Thánh Hiệp Thiên Đài), một
việc Tréo cẳng Ngổng?
Hồi đáp.
Trong một bài toán đơn giản thì chỉ
có một đáp số, học phương trình bậc nhất thì có một ẩn số, học phương trình bậc
hai thì được hai ẩn số, phương trình bậc ba thì ẩn số nhiều hơn. Mới học thì
cộng trừ nhân chia, học lên nữa thì có bình phương, lập phương, rút căn,
logarit … Đó là xã hội, còn trong trường của Thầy Trời thì sao?
Học lớp ba (Kinh Đệ Tam Cửu) thì
mới lãnh kinh sách của Hội Thánh về xem:
Cung Như Ý Lão Quân tiếp khách,
Hội Thánh minh giao sách Trường xuân,
Thanh quang rỡ rỡ đòi ngàn,
Chơn hồn khoái lạc lên đàng vọng Thiên.
Học lớp năm (Kinh Đệ Ngũ Cửu) mới
đắc văn sách.
Đắc văn sách thông Thiên định địa,
Phép huyền công trụ nghĩa hóa thân.
Kỵ kim quang kiến Lão Quân,
Dựa xe Như ý oai thần tiễn thăng.
Học lớp tám (Kinh Đệ Bát Cửu) mới
có thần thông.
Cung Tận Thức thần thông biến hóa,
Phổ Đà Sơn giải quả Từ Hàng.
Cỡi Kim Hẩu đến Tịch San,
Đẩu vân nương phép Niết Bàn đến xem.
Đọc Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương
Hiếu ta thấy Ngài Trần Đạo Quang là bậc tu hành đạo cao đức trọng về với ĐĐTKPĐ
từ buổi đầu, nhưng Thiêng Liêng không phong cho Ngài phẩm chi hết. Đến khi dâng
Tân Luật Đức Lý mới phong Quyền Thượng Chưởng Pháp để đủ sáu bàn tay Chưởng
Pháp khi dâng luật. Sau đó mới phong Ngài là Ngọc Chưởng Pháp. Như vậy hiền
huynh hiểu sao?
Phước Thiện có gốc từ Hiệp Thiên
Đài. Nhân sự của Phước Thiện là người của Hiệp Thiên Đài để trợ giúp Cửu Trùng
Đài và khi đến phẩm Hiền Nhơn thì trở về Hiệp Thiên Đài. Phước Thiện không có
trong PCT nên khi hành đạo với Cửu Trùng Đài phải chịu sự điều hợp của hành
chánh. Phước Thiện chịu sự nhọc nhằn để lo về vật chất (cơm áo gạo tiền, lo
tang sự), giúp Thánh Thể của Đức Chí Tôn khỏi phải đi ăn xin, để con cái Đức
Chí Tôn thoát khỏi sự trói buộc của cơm áo gạo tiền, từ đó có sự thảnh thơi mà
sống trong văn hóa Cao Đài, lập nền văn minh mới do Đức Chí Tôn truyền dạy. Quyền
phong thưởng nhân sự là quyền riêng của Đức Hộ Pháp. Diễn văn ngày 04-10-1933
của Đức Hộ Pháp:
… Từ bậc Thính Thiện
tới phẩm Chơn Nhơn thì phận sự thật hành Thể pháp đặng giúp ích cho Hội Thánh
về phương truyền giáo, nên hiệp một với Cửu Trùng Đài. Tuy các Ngài không quyền
chức đặc biệt thì mặc dầu, mà quyền hành thiêng liêng đạo đức của mỗi người đã
đào tạo tự nhiên phẩm trật….
…. Từ bậc Hiền Nhơn tới
Phật Tử, thì lo bảo thủ Bí pháp tâm truyền và nhập cùng Hiệp Thiên Đài làm một.
Chức trách của mấy vị nầy cũng không phân biệt tôn giáo nào, hoặc là tu hay là
không tu, quyền Vạn linh và quyền Chí Tôn đã công nhận cho rằng đáng phẩm thì
cũng đặng đồng thể đồng quyền cùng Chức sắc HTĐ, chung nắm quyền hành luật pháp
…
PCT CG Hiệp Thiên Đài dạy: Ấy
vậy Cửu Trùng Đài là xác, Hiệp Thiên Đài là hồn. Đã nói rằng Cửu Trùng Đài là
Đời, tức nhiên là xác của Đạo, còn Hiệp Thiên Đài là Đạo, tức nhiên là chơn
thần của Đạo, vậy thì xác thịt có định hạn lệ đẳng cấp, chớ chơn thần chẳng
hề định hạn lệ đẳng cấp đặng. …
…Chư Hiền Hữu cùng như chư Hiền
Muội sẽ thấy rằng: Thầy không quyết định trách nhậm của mỗi người Chức Sắc Hiệp
Thiên Đài, bởi cớ mà gây nên lắm điều trắc trở trong phẩm trật của cả Thiên
Phong. Nghĩa là: Để tự nhiên cho cả Chức Sắc Hiệp Thiên Đài lập vị mình, thế
nào cho xứng đáng cùng phẩm định…
Theo Đạo sử khi Cửu Trùng Đài thiếu
nhân sự thì Quyền Chí Tôn tại thế bổ nhiệm các vị Thời Quân hành quyền Đầu Sư,
Chánh Phối Sư … bên Cửu Trùng Đài, điều đó đúng với câu: chớ chơn thần
chẳng hề định hạn lệ đẳng cấp đặng.
Ngài Lê Thiện Phước là nhân sự Hiệp
Thiên Đài được Thầy phong phẩm Bảo Thế thuộc Chi Thế. Ngài Bảo Thế là
Tướng-Soái của Đức Chí Tôn, từng cầm quyền Đầu Sư bên Cửu Trùng Đài, còn bên
Hiệp Thiên Đài Ngài từng thừa quyền Hộ Pháp, thừa quyền Thượng Sanh, vậy có chi
là sai với câu: chớ chơn thần chẳng hề định hạn lệ đẳng cấp đặng chăng,
có chi sai với trích đoạn trên chăng, thưa hiền huynh?
Trong mỗi người có bộ phận đơn
năng, có bộ phận đa năng tất cả phải chịu sự điều động của bộ não. Khả năng con
người trong tổ chức có người hữu dụng người đa dụng và diệu dụng thì có chi
rằng lạ?
Hiệp Thiên Đài là chơn thần của
đạo, là bộ não của đạo, Thời Quân là Tướng-Soái của Thầy nên thông công trực
tiếp được với thiêng liêng thì sự biến hóa, diệu dụng kể sao cho hết. Khi các
bậc phẩm bên Phước Thiện chưa có đủ nhân sự, các vị Thời Quân Chi Đạo không
thống quản Phước Thiện thì Ngài Bảo Thế Thống Quản là đúng với câu chớ
chơn thần chẳng hề định hạn lệ đẳng cấp đặng… là Ngài hành đạo đúng với
PCT CG, làm nhiệm vụ Tướng-Soái của Thầy giao, còn hiền huynh hiểu là một việc Tréo cẳng Ngổng cũng là quyền tự do.
Thông tin thêm:
Đức Hộ Pháp thuộc chi Pháp, khi mang Dây Sắc Lịnh thả mối ở giữa, nhưng có khi
Ngài mang Dây Sắc Lịnh thả mối bên phải là sao?
Có người căn cứ PCT CG nói Ngài thả
mối sai, nhưng người nhớ lời Thầy dạy cẩn ngôn, cẩn hạnh để ý tìm học sâu vào
nội dung công việc mới biết ấy là Đức Hộ Pháp đang làm việc do Đức Cao Thượng
Phẩm nhờ nên thả mối theo Chi Đạo. Tướng-Soái của Thầy hành đạo thì biến hóa vô
cùng mà vẫn đúng với Thiên Thơ.
Mở rộng 1: Quan sát phong thưởng và
trách phạt. Nhân sự Cửu Trùng Đài từ hàng Giáo
Hữu trở lên có số lượng cụ thể cho mỗi phẩm vị, khi các vị tiền bối tách ra
khỏi Tòa Thánh Tây Ninh thì các vị cũng dùng cơ bút và nói rằng Đức Lý Giáo
Tông và Đức Chí Tôn phong chức, ban thưởng. Nhân sự Hiệp Thiên Đài cũng chịu
cảnh ngộ tương tự. Thiệt thiệt, hư hư làm cho nhơn tâm khó lòng xác định.
Tôi quan sát không thấy Đức Lý Giáo
Tông hay Đức Chí Tôn của các chi phái giáng cơ rút phẩm của bất cứ vị Chức sắc
nào (cũng có thể là Tôi không biết có trường hợp rút phẩm). Nếu ghi nhận của
Tôi là đúng thì điều đó trái ngược với cơ bút tại Cung Đạo Tòa Thánh Tây Ninh,
Đức Lý Giáo Tông về cơ (26-5-1964) trách phạt 8 vị Phối Sư, 01 vị Giáo Sư và 01
vị Giáo Hữu: Ba vị Phối Sư Thái Bộ Thanh, Thượng Tước Thanh và Ngọc Non Thanh được
về hưu dưỡng lão. Hai vị Phối Sư Thượng Thiện Thanh và Thương Tuy Thanh cũng được
về hưu. Ba vị Phối Sư Thượng Vinh Thanh,
Thái Đến Thanh và Thái Hào Thanh bị ngưng quyền chức cho đến ngày có lịnh mới. Giáo
Sư Ngọc Mỹ Thanh và Giáo Hữu Thượng Tý Thanh cũng chịu biện pháp này.
Viết thêm đôi dòng: Ông Nguyễn Thành Tám cầu phong bên Hiệp
Thiên Đài Đức Lý Giáo Tông ban phẩm Lễ Sanh. Ông Lê Minh Khuyên cầu phong bên
Cửu Trùng Đài, Đức Lý Giáo Tông ban phẩm Sĩ Tải bên Hiệp Thiên Đài. Lễ Sanh
Thượng Tám Thanh được bổ nhiệm hành đạo bên Hiệp Thiên Đài đắc lực nên Hội
Thánh Hiệp Thiên Đài xin cho qua Sĩ Tải Hiệp Thiên Đài. Đàn cơ tại Cung Đạo
đêm mùng 5-12-Tân Sửu (dl 10-1-1962). Hội Thánh Hiệp Thiên Đài xin cho Lễ Sanh
Thượng Tám Thanh được chuyển qua Sĩ Tải HTĐ.
/- Trường hợp của Thượng Tám Thanh không thể chấp
thuận, đương sự cứ phục vụ bên Hiệp Thiên Đài với chức vị hiện hữu, sau có chỗ
dùng. (hết
trích)
Quý vị biết các Chi có trường hợp nào tương tự vui
lòng chia sẻ.
Mở rộng 2: Hiểu về PCT. Các vị Chức sắc ở Tòa Thánh Tây Ninh am
hiểu PCT và biết quyền tự do trong đạo đức nên hiểu rằng Phước Thiện không có
trong PCT thì muốn hủy bỏ để bảo vệ PCT. Nhờ vậy mà Đức Hộ Pháp mới giải thích
cho các vị biết và hậu tấn mở mang thêm rất ư là thú vị. Trong tinh thần trao
đổi chung nếu tổ chức quý vị có những bài học nào về PCT như thế vui lòng chia
sẻ Tôi rất vui để biết.
III/ Tôn chỉ của DĐTKPĐ là Từ Bi, Bác Ái, Công Bình. Trước
khi vào Tịnh Tâm Điện của Hiệp Thiên Đài có treo hình một cây cân Công Bình.
Nhưng HP và Hội Thánh TTTN có thực hiện hạnh Công Bình hay không? Đơn cử
là HT TTTN đồng thuận chính sách Độc Tài của HP Phạm Công Tắc và HP củng ngang
nhiên nắm quyền cả hai Đài Hành Pháp (CTD) và Bảo Pháp (HTĐ). Cho dù về phần
tình có hợp cho mấy thì về phần LÝ nó sai hoàn toàn. Thầy dạy, nếu một ngày nào
trên thế gian này còn một cảnh bất Công (bình), thì Đạo chưa thành.
Xin hồi đáp từng phần.
Vấn 1/- Tôn chỉ của DĐTKPĐ là Từ Bi, Bác Ái, Công
Bình. Trước khi vào Tịnh Tâm Điện của Hiệp Thiên Đài có treo hình một cây cân
Công Bình. Nhưng HP và Hội Thánh TTTN có thực hiện hạnh Công Bình hay
không?
Hồi đáp.
Cảm ơn hiền huynh căn cứ vào Cây Cân Công Bình để nêu vấn đề.
Khi xưa Đức Thế Tôn chỉ tay lên mặt
trăng và dạy: theo tay ta thì thấy trăng nhưng tay ta không phải là trăng. Nếu
hiểu trăng là chân lý thì chân lý đó xa diệu viễn và rất khó kiểm chứng, mãi đến
thế kỹ thứ 20 nhân loại mới đặt dấu chân lên mặt trăng.
Cây Cân Công Bình là một thể pháp, tìm hiểu ý nghĩa thể pháp và
cách thể pháp được tạo ra như thế nào sẽ soi sáng nhiều việc.
Về ý nghĩa: Quan sát Cây Cân Công Bình ta thấy ngón tay chỉ xuống, có
nghĩa là chân lý, là công bình đã đem xuống trên mặt đất nầy nên kiểm chứng
được chứ không diệu viễn như thời Nhị Kỳ Phổ Độ nữa. Cánh tay từ phương Nam có
nghĩa là Thầy đã bố trí cách kiểm chứng khi Thầy Giáo Đạo ở Phương Nam, nghĩa
là cách kiểm chứng có trong Đạo Cao Đài.
Cách tạo ra thể pháp: Cả Tòa Thánh Tây Ninh không có bản
vẽ mà do Đức Lý Giáo Tông chỉ dạy từng thể pháp qua tâm linh đồng tử. Khi đồng
tử nhận được sự chỉ dạy thì truyền lại cho công thợ thi hành. Giá trị thể pháp
do nơi sự tín nhiệm hay không tín nhiệm của Hội Thánh và nhơn sanh.
Kiểm chứng 1: Tâm linh đồng tử. Cây Cân Công Bình được
thiêng liêng chỉ dạy qua tâm linh đồng tử là Đức Hộ Pháp. Ngày 3-1-1926 (THNT
Q1) Đức Chí Tôn dạy về đồng tử: Phải có một chơn linh tinh tấn mới mầu
nhiệm, huyền diệu, phải trường trai mới đặng linh hồn tinh tấn; phải tập tành
chí Thánh, Tiên, Phật, mới phò cơ dạy đạo cả chúng sanh. Kẻ phò cơ chấp bút
cũng như Tướng-Soái của THẦY để truyền đạo cho thiên hạ. Các con đừng tưởng
việc bút cơ là việc tầm thường…. khi Đức Hộ Pháp cầm quyền Chưởng Quản Nhị
Hữu Hình Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng (Quyền Chí Tôn tại thế) thì được thiêng
liêng chỉ dạy tạo ra Cây Cân Công Bình. Chứng tỏ Ngài đáp ứng được điều kiện
của đồng tử theo lời dạy của Đức Chí Tôn trên đây nên mới được dạy. Đó là cách
thiêng liêng nhìn nhận việc hành đạo của Ngài (Hành bất ngôn chi giáo là
vậy).
Kiểm chứng 2: Công quả tín nhiệm. Đức Hộ Pháp được dạy thì chỉ lại
cho công quả thực hiện. Công quả tín nhiệm Ngài nên làm theo sự chỉ dạy của
Ngài. Lưu ý người làm công quả khi tạo tác Tòa Thánh phải tự nguyện và trường
chay khác với làm công nhật lãnh lương. Làm công nhật lãnh lương thì chủ bảo
sao làm vậy, không làm chủ đuổi việc, kêu người khác. Người công quả thì họ tin
tưởng, kính phục họ mới làm.
Kiểm chứng 3: Hội Thánh và nhơn sanh nhìn nhận, tín nhiệm nên Cây Cân
Công Bình (thể pháp) mới tồn tại đến ngày nay và được hiền huynh nhắc đến là
một ví dụ điển hình.
Kết luận. Đức Chí Tôn cầm Cân Công Bình, Ngài đã nhìn nhận (kiểm
chứng 1), công quả tín nhiệm (kiểm chứng 2), Hội Thánh và nhơn sanh tín nhiệm
(kiểm chứng 3). Cái ý nghĩa ngón tay chỉ xuống có nghĩa là kiểm chứng được ngay
trên mặt thế nầy là như vậy.
Vấn 2/- Đơn cử là HT TTTN
đồng thuận chính sách Độc Tài của HP Phạm Công Tắc và HP củng ngang nhiên nắm
quyền cả hai Đài Hành Pháp (CTD) và Bảo Pháp (HTĐ). Cho dù về phần tình có hợp
cho mấy thì về phần LÝ nó sai hoàn toàn. Thầy dạy, nếu một ngày nào trên thế
gian này còn một cảnh bất Công (bình), thì Đạo chưa thành.
Hồi đáp.
2.1/- Đơn cử là HT TTTN đồng thuận chính sách
Độc Tài của HP Phạm Công Tắc và HP củng ngang nhiên nắm quyền cả hai Đài Hành
Pháp (CTD) và Bảo Pháp (HTĐ).
Hồi đáp.
Nội dung về Đức Hộ Pháp Tôi đã căn cứ vào Thiên
Thơ, lịnh của Ngọc Hư Cung, PCT CG, Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh và kiểm chứng từ
Thiêng Liêng, Hội Thánh, Quyền Vạn Linh công nhận và đã hồi đáp nên không phải
lập lại nữa, hiền huynh vui lòng đọc lại. Xin chia sẻ bài thi trong TNHT Q2
trang 223, bản in 1972:
Bắt ấn trừ yêu đã tới kỳ,
Ngọc Hư định sửa mối Thiên-thi.
Cửu-Trùng không kế an thiên hạ,
Phải để Hiêp-Thiên đứng trị vì.
Thành pháp dìu đời qua bể khổ,
Nên công giúp thế lánh cơn nguy.
Quyền hành từ đấy về tay nắm,
Phải sửa cho nên đáng thế thì.
Gọi là chia sẻ vì Tôi nghe phụ thân và các chú bác bàn luận
bài thi nầy từ khi còn niên thiếu, rồi lớn lên nền đạo bị khảo đảo kinh hồn,
học đạo hơn 30 năm nay đến giờ mới tự tin để thưa chuyện với hiền huynh. Bài
thi nầy nếu để mồ côi rồi cố tìm hiểu ý nghĩa thì càng thêm rối trí, vì không
hiểu sử dụng 02 câu: Cửu-Trùng không kế an thiên hạ, Phải để Hiêp-Thiên đứng
trị vì như thế nào trong hiện tại và tương lai. Bởi vì Cửu Trùng Đài cầm
quyền hành pháp mới có quyền hành chánh, nhân sự Cửu Trùng Đài hùng hậu, có
thánh danh sao lại không kế an thiên hạ? Hiệp Thiên Đài cầm quyền tư
pháp, nhân sự lại ít làm sao đứng trị vì?
Không để bài thi trên mồ côi, vậy phải đưa cái gì vào để hiểu
và hiểu đúng?
2.1.1/- Xin thưa phải để bài thi trên với bài
trong TNHT Q2 ngày 12-2-1933: Đức Bà Bát Nương
dạy về trở pháp: Em an dạ, từ đây đã quan kiến sự kết-cuộc của Chí-Tôn đã
định trước. Em nhớ lại, khi Ngọc-Hư định cho Hiệp-Thiên-Đài cầm số-mạng
nhơn-sanh, lập thành chánh-giáo, thì Đại-Từ-Phụ lại trở pháp, giao quyền ấy cho
Cửu-Trùng-Đài.
Thiển ý bài Đường thi dạy trước và Hội Thánh Cao Đài căn cứ
vào đó giao cho Hiệp Thiên Đài cầm số mạng nhơn sanh lập thành chánh giáo, rồi
mới có bài dạy ngày 12-2-1933 chuyển pháp, tất cả đều nằm trong Thiên Thơ:
Bắt ấn trừ yêu đã tới kỳ,
Ngọc Hư định sửa mối Thiên-thi.
Cửu-Trùng không kế an thiên hạ,
Phải để Hiêp-Thiên đứng trị vì.
Thành pháp dìu đời qua bể khổ,
Nên công giúp thế lánh cơn nguy.
Quyền hành từ đấy về tay nắm,
Phải sửa cho nên đáng thế thì.
Là Ngọc Hư Cung định
cho Hiệp Thiên Đài cầm số mạng nhơn sanh lập thành chánh giáo như Bà Bát Nương
dạy: Em nhớ lại, khi Ngọc-Hư định cho Hiệp-Thiên-Đài
cầm số-mạng nhơn-sanh, lập thành chánh-giáo, thì Đại-Từ-Phụ lại trở pháp, giao
quyền ấy cho Cửu-Trùng-Đài. Đức Bà Bát
Nương dạy: Em nhớ lại có nghĩa là chuyện đã qua mới nhớ lại, vậy
bài Đường Thi dạy trước và Hội Thánh thi hành rồi sau đó mới dạy bài Đại Từ Phụ
trở pháp ngày 12-2-1933.
2.1.2/- Châu tri số 21,
ngày 16-12-1934 (trích nội dung cần).
Chiếu theo tờ vi bằng kỳ nhóm Hiệp Thiên Đài và Cửu
Trùng Đài tại Toà Thánh ngày 26-10- Giáp Tuất (dl:02-12-1934) thì quyền hành
Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài đều giao cho Đức Hộ Pháp cầm, ấy là tuân
theo thể pháp định cho Hộ Pháp phải kiêm quyền hành Giáo Tông khi Giáo Tông qui
vị, cũng như Giáo Tông phải kiêm quyền hành Hộ Pháp khi Hộ Pháp qui vị.
Sự xây trở trong nền Chánh Trị của Đạo chẳng qua là vì
Thiên Thơ tiền định, đến lúc Chí Tôn chuyển thế thì tức nhiên phải có chuyển
pháp, điều ấy nếu ráng kiếm hiểu thì cũng không chi lạ.
Nhận
xét: Hội Thánh hiểu bài Đường thi nên thực hiện.
2.1.3/- TNHT Q2,
Đức Lý Giáo Tông dạy ngày 18 tháng 10 năm Ất-Hợi (13 Novembre 1935).
Hộ-Pháp, hèn lâu Lão không đến chuyện vãng cùng
nhau đặng, một là vì không cơ-bút, hai là vì Thiên-thơ biến-chuyển, Lão có đến
cũng chẳng ích gì. Nay vì lễ Ðạo-Triều, nên đến chúc-mừng chư Hiền-hữu. Lão để
lời cám ơn Hộ-Pháp đã chịu lắm phen nhọc-nhằn khổ-não làm cho Ðạo ngày nay đặng
ra thiệt tướng. Lão chỉnh thẹn có một điều là Lão chưa giúp hay vào đó. Lão đa
tạ, đa tạ.
(Hộ-Pháp bạch....................................)
- Cười, Lão chẳng nói rõ, Hiền-hữu cũng thấy
hiển-nhiên rằng từ thử, thảng Lão có muốn nên cho Ðạo đi nữa thì cũng không thi
thố chi đặng với một Hội-Thánh hữu -hư, vô-thiệt, như vậy có phải? May thay!
Thiên-thơ do một mặt chẳng chi dời đổi trở ngăn, nên may ra nữa, từ đây Lão
có phương cầm quyền trị thế.
(Hộ-Pháp bạch: Thiên-thơ đã đổi, đệ-tử xin giao
quyền hành của Quyền-Giáo-Tông lại cho Ngài đặng Ngài đủ oai cầm Thiên-thơ vững
chặt).
- Cuời, Lão e cho, một là Lão đã cho, không lẽ lấy
lại, hai là hành-pháp thì dễ, hành-hình thì khó, không có nửa quyền trị thế của
Lão nơi tay thì Hộ-Pháp có thế nào điều hành Hội-Thánh cho đặng. Ấy vậy cứ để
y.
2.1.4/- Nội Luật Thượng Hội.
Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt và Đức Hộ Pháp ban hành ngày 27-02-1932.
Điều 14: Sau khi hội Thượng Hội thì Giáo Tông và
Hộ Pháp phải đình Hội lại 15 phút đồng hồ đặng hai người vào Ðại Ðiện mật nghị
rồi phải trở ra cho Thượng Hội hay những điều của hai đàng nhứt tâm quyết định.
Luật
định Giáo Tông và Hộ Pháp vào đại điện mật nghị 15 phút nhưng khi Hộ Pháp triều
thiên thì Giáo Tông vào có một mình và khi trở ra cũng chỉ có một mình Giáo
Tông tuyên bố đồng ý hay không đồng ý về luật lệ cũng như chánh trị đạo của Ba
Hội Lập Quyền Vạn Linh. Về hữu vi rõ ràng là chỉ có một mình Giáo Tông vào đại
điện trong 15 phút rồi trở ra, còn về tâm linh trong 15 phút nơi đại điện Giáo
Tông thông công với Hộ Pháp như thế nào (kể cả trước đó) là câu chuyện tâm linh
đặc biệt của Ngài nên thuộc về vô vi.
Thứ
nữa là thành phần trong Thượng Hội có: Giáo Tông là Hội trưởng, Hộ Pháp là Phó
Hội trưởng, 03 vị Chưởng Pháp, 04 vị Đầu Sư và Thượng Phẩm Thượng Sanh. Hộ
Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh đều về thiêng liêng vị nên Hội trưởng và các
nghị viên còn lại trong Thượng Hội là bên Cửu Trùng Đài.
Xét
về thành phần thực tế của Thượng Hội và quyền hạn của Giáo Tông rõ ràng là cả
về luật lệ và chánh trị đạo đều do Cửu Trùng Đài nắm giữ. Thiết tưởng ý nghĩa
câu: Đại-Từ-Phụ lại trở pháp, giao quyền ấy cho Cửu-Trùng-Đài đến đây
đã tương đối sáng tỏ.
2.1.5/- Kết luận.
Đức Bà Bát Nương dạy: Em nhớ lại, khi Ngọc-Hư định cho Hiệp-Thiên-Đài cầm
số-mạng nhơn-sanh, lập thành chánh-giáo, thì Đại-Từ-Phụ lại trở pháp, giao
quyền ấy cho Cửu-Trùng-Đài. Cả Ngọc-Hư Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đều
ngạc-nhiên sự lạ. Đại-Từ-Phụ phổ-giáo rằng: Hay, hay không lẽ để phận hèn,
ngày sau sẽ rõ thánh-ý Người quyết liệu.
Có
nghĩa là sứ mạng của Hiệp Thiên Đài đã xong, nên giao lại cho Cửu Trùng Đài. Bài
thi là chứng cứ lịch sử giai đoạn Đức Hộ Pháp Cầm Quyền Chưởng Quản Nhị Hữu
Hình Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng đã xong rồi sắp tới là thời kỳ của Cửu Trùng
Đài, tất cả đều từ Thiên Thơ mà ra. Lời dạy Đức Lý Giáo Tông: May thay! Thiên-thơ do một mặt
chẳng chi dời đổi trở ngăn, nên may ra nữa, từ đây Lão có phương cầm quyền
trị thế hoàn toàn ứng
hợp với các trích đoạn trên. Từ
12-2-1933 Cả Ngọc-Hư Chư Thần, Thánh, Tiên,
Phật đều ngạc-nhiên sự lạ đến tháng 7-2024 hậu tấn mới hiểu
được chút ít, thiệt là đáng mừng, thiệt là đáng kinh sợ, xin cúi lạy mừng.
Trong
trường của Thầy lớp ba được giao sách về học, lớp năm thì biết chút chút, lớp
tám mới biết Phi Tưởng Thiên. Vui quá, mừng quá nên xin nói thêm đến lớp chín
(Kinh Đệ Cửu Cửu) mới biết: Vùng thoại khí bát hồn vận chuyển, Tạo Hóa Thiên
sanh biến vô cùng … Vùng Thoại Khí có nhiều nghĩa trong đó có nghĩa là
bầu không khi đối thoại để tiến hóa theo luật của Bát phẩm chơn hồn mà đối
thoại thì phải có văn hóa đối thoại mới tiến hóa theo Bát phẩm chơn hồn, không
có văn hóa đối thoại (một người nói ngang ba làng cãi không lại, hay gàn bác
sách, làm con cua bò ngang) quyết chí đi ngược với luật tấn hóa thì rất
uổng cái điểm linh quang và tự do quyền Thầy ban cho. Đường đạo vô cùng vô tận,
đường chân trời ngay trước mắt, nhưng đi không bao giờ tới, cho nên Kinh Nhập
Học mà không có Kinh Học Xong nói hoài không hết, xin dừng phần nầy. Cười lớn
chút nha…
2.2/- Hiền huynh viết: Cho dù về phần tình
có hợp cho mấy thì về phần LÝ nó sai hoàn toàn là quyền tự do khi vấn.
Nhưng Tôi khẳng định là Tôi căn cứ trên pháp và luật của đạo
để hồi đáp. Tôi không dùng tình, không dụng cảm xúc làm căn bản mà dùng pháp
luật đạo làm căn bản để minh lý. Tôi sẵn lòng học hỏi với những vị chỉ ra phần
hồi đáp sai tại đâu, sai thế nào đối với pháp luật đạo. Thỉnh thoảng có nói vui
để phần hồi đáp tươi tắn vì e rằng nói pháp luật hoài khô khan quá chớ chẳng hề
có ý nào là xin thông cảm bỏ qua.
Đạo Cao Đài là một tôn giáo pháp quyền để xây dựng và bảo vệ
nhân quyền, Đạo có pháp luật đạo là binh khí diệt tà quyền không cầm
binh khí mà dùng tình là cầu cạnh thiên hạ là thất sách, còn tệ hơn là hạ sách.
Đức Lý Giáo Tông dạy ngày 1-8-1931
(TNHT Q2): …Lão hạ mình bỏ quyền Nhứt Trấn lãnh việc Giáo Tông mà lập
vị cho đoàn em bước tới. Lão đã lắm phen thấy điều khó khăn mắc mỏ của phần ấy
nên ra tay dục loạn đặng phân rõ chánh tà hầu giúp phương cho Hội Thánh trừ
khử…
Ngày nay đã hành chánh thì cũng nên lập mình cho đủ tư
cách một người cầm sanh mạng của nhơn loại …Hiền hữu biết rằng trong trận trí
binh nầy, nếu không đủ tài tình oai dõng thì chẳng hề thắng đặng…
Thầy thả một lũ hổ lang chung quanh chúng ta và hằng xúi nó
cắn xé chúng ta nhưng Thầy cho chúng ta một bộ thiết giáp mà hổ lang không sao
thấy được, ấy là đạo đức. Thầy dạy giữ bộ thiết giáp ấy cho đến ngày hội hiệp
cùng Thầy. Vậy bộ thiết giáp ấy là gì? Người thì bảo là bộ đạo phục Thầy ban
cho, nhưng trên thực tế biết bao nhiêu người mặc đạo phục (có Chức sắc nữa)
chạy theo vật chất làm tôi tớ cho quỉ vương quay lại cắn xé đồng đạo. Người thì
bảo tụng kinh cầu nguyện, nói lời hiền lành cho vừa lòng hết mọi người, ta có
quyền quan sát và nhận định xem các vị muốn làm vừa lòng hết mọi người ấy đi về
đâu, thật tình muốn làm vừa lòng hết hay có mưu đồ riêng. Theo sự hiểu của Tôi
bộ thiết giáp đạo đức của Thầy ban là pháp luật đạo. Bởi vì pháp của đạo phát
xuất từ Thượng Đế, từ Bát Quái Đài, luật của đạo phát xuất từ lương tâm của
người đạo nên pháp luật đạo có Thiên Thượng và Thiên Hạ có Bác Ái – Công Bình,
pháp luật đạo chính là đạo đức là bộ thiết giáp Thầy ban mà hổ lang không sao
thấy đặng, bỏ pháp luật đạo là chịu dưới phép tà thần.
Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối, câu 12 dạy: Xét câu minh thệ gởi
mình cõi thăng … câu Minh Thệ dạy: … ... Thề
rằng: Từ đây biết một Đạo Cao-Đài Ngọc-Đế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp
đồng Chư Môn-Đệ, gìn luật lệ Cao-Đài, … thăng là về với Thầy mà về được,
về tới nơi chính là biết hiệp đồng chư môn đệ gìn luật lệ Cao Đài.
Thánh ngôn dạy: Giữ bộ thiết giáp (đạo đức) ấy cho đến ngày
hội hiệp cùng Thầy. Kinh dạy Xét câu minh thệ gởi mình cõi thăng mà câu
minh thệ là Thề rằng: Từ đây biết một Đạo
Cao-Đài Ngọc-Đế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng Chư Môn-Đệ, gìn luật lệ
Cao-Đài, đem ra đối chiếu, phân tích là cơ
sở để hiểu bộ thiết giáp (đạo đức) Thầy ban chính là gìn pháp luật đạo. Thiển nghĩ học
đạo, hành đạo lấy pháp luật đạo làm khuôn thước là thượng sách.
2.3/- Câu vấn: Thầy dạy, nếu một ngày nào trên
thế gian này còn một cảnh bất Công (bình), thì Đạo chưa thành.
Hồi đáp.
Đạo là gì?
Sao gọi Đạo?
Đạo, tức là con đường để cho Thánh, Tiên, Phật đọa trần do
theo mà hồi cựu vị. Đạo là đường của các nhơn phẩm, do theo mà lánh khỏi luân
hồi. Nếu chẳng phải do theo Đạo, thì các bậc ấy đều lạc bước mà mất hết ngôi
phẩm. Đạo, nghĩa lý rất sâu xa, nhưng phải hiểu trước bao nhiêu đó, rồi mới học
các nghĩa huyền bí khác cho đích xác đặng. (Thầy dạy tại Tây Ninh, Chùa Gò Kén năm Bính
Dần, 1926. TNHT Q2, trang 119, bản in 1972),
Bát phẩm chơn hồn luân chuyển hóa sanh miên viễn trong trường
công quả của Đức Chí Tôn để lập vị mình thì trước qua sau tới, không bao giờ
dừng lại. Trên đường luân chuyển hóa sanh không có dối làm sao biết thiệt,
không có thiệt làm sao biết dối. Không có bất công thì lấy gì đối chứng với
công bằng. Đạo Đức Kinh dạy người không lành là của cải của người lành, không
biết điều ấy, tuy trí nhưng đại mê.
Theo Tôi hiểu câu: Thầy dạy, nếu một ngày nào trên thế
gian này còn một cảnh bất Công (bình), thì Đạo chưa thành có nhiều tầng
nghĩa.
/- Mỗi người phải tự xét trong lương tâm mình để cư xử theo
luật công bằng, phải xét mình để không vô tình tạo cảnh bất công cho người
khác.
/- Người đạo cảnh giác với những kẻ ẩn dương nương phật để hà
hiếp nhơn sanh tạo bất công ngay trong cửa đạo với mưu đồ bất chánh.
/- Mở rộng ra Thầy dạy chúng ta phải quan tâm đến những bạn
đồng sanh bị cường quyền áp bức, bị kẻ gian xảo đè nén trong xã hội.
/- Phải học đạo của Thầy để đem công lý đánh đổ cường quyền trong
bản thân mình, trong tôn giáo lẫn xã hội. Đó là Thầy nung đúc môn đệ học hỏi,
thực thi tam lập (lập công, lập đức, lập ngôn) để phụng sự nhơn sanh.
/- Thầy đưa ra phép thử cho nhơn sanh nhận biết người có ý
chí, có lòng đạo đức vận dụng lời dạy ấy làm phép hằng tâm trên đường phụng sự
đồng thời nhận diện những người sống đạo bằng cái lỗ miệng đem lời dạy ấy ra
hát hò khi có dịp.
Trong qui luật của âm dương thì đạo biến hóa vô cùng, như
đường chân trời trước mắt chúng sanh vậy, càng đi tới thì đường chân trời càng
lùi xa. Nhưng khi bước đi trên con đường đạo thì phần đường đi được chính là
thành quả của hành giả. PCT CG dạy ráng phân biệt đường đạo (chung) và phần đạo
(riêng) là như thế.
Hiểu như vậy thì nền đạo vẫn hoàn thành từng giai đoạn mà
không bao giờ hoàn tất. Nhơn sanh thực thi tam lập (lập công, lập đức, lập
ngôn) đến đâu là phần phước của mỗi kiếp sanh. Lớp nhơn sanh nầy ra trường
(thành đạo) thì lớp nhơn sanh khác nhập trường (học đạo và hành đạo), trường
thi của Thầy lúc nào cũng có người ra trường và có người nhập trường. Cũng như
khách đi qua con đường rồi thì con đường vẫn còn đó, khách chưa bước lên đi nữa
thì con đường vẫn hiện hữu.
Thí dụ như Đức Bà Bát Nương dạy: Em
nhớ lại, khi Ngọc-Hư định cho Hiệp-Thiên-Đài cầm số-mạng nhơn-sanh, lập
thành chánh-giáo, thì Đại-Từ-Phụ lại trở pháp, giao quyền ấy cho Cửu-Trùng-Đài
Có nghĩa là giai đoạn
của Ngọc Hư Cung giao Hiệp Thiên Đài cầm số mạng nhơn sanh lập thành chánh giáo
đã hoàn thành thì Đại Từ Phụ trở pháp giao quyền cầm số mạng nhơn sanh lập
thành chánh giáo trong giai đoạn tiếp theo cho Cửu Trùng Đài. Đó là qui luật
của tạo hóa, của âm dương cho nên trong Kinh Dịch quẻ 63 là Ký Tế (đã xong) thì
lập tức đến quẻ 64 là Vị Tế (bắt đầu), vạn sự vạn vật hể Ký Tế là Vị Tế. Hoàn
thành từng giai đoạn (Ký Tế) là bước vào giai đoạn mới, hoàn cảnh mới, trường
lớp mới (Vị Tế) nên không bao giờ hoàn tất.
Lời kết: Thầy là Cha, Đức Lý Giáo Tông là Anh Cả. Cha và Anh Cả có
lúc không đồng ý nhau đến nước Anh Cả từ nhiệm. Cha có buồn nhưng chấp nhận ý
của Anh Cả và Đức Hộ Pháp nên dạy sắp đặt cho Anh Cả đăng điện tái thủ quyền
hành để Ngài có đủ oai quyền cầm giềng mối đạo. Bài học của Cha và Anh Cả dạy
chúng ta: khác ý nhau là có thật, nhưng phải tạo ra bầu không khí đối thoại để đạt
tới một giải pháp và thuận hòa nhau để phụng sự cho đạo.
Rất cảm ơn hiền muội Victoria và hiền huynh đã tạo bầu không
khí đối thoại để Bát phẩm chơn hồn luân chuyển hóa sanh. Hy vọng rằng Vùng
thoại khi sẽ tiếp tục giúp ích cho chúng ta trải bước trên đường học đạo và
hành đạo.
Nay kính.
Đạo Hữu Dương Xuân Lương.
Email liên lạc: hoabinhchungsong220513@yahoo.com
WhatsApp: +1 469 642 4667.
Hết.
Ngần ngại từ đây hết hỏi
đon,
Thân mình dầu tuyệt Đạo không mòn.
Phải duyên kêu khách ngoài ngàn dặm,
Lỡ hội đừng mong buổi cúi lòn.
Thâu.
Đức Lý Giáo Tông ban cho
tiền bối Lê Thị Ngần.
Đạo Sử ngày 19-12-1926.
Phụ lục.
Trong phần nêu câu hỏi
có nhắc đến câu hỏi của Dương Xuân Lương như sau:
1/
Lời dạy nào trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển dạy lập ra các nhánh (chi phái) của
ĐĐTKPĐ?
2/
Các nhánh đó được ban cho Kinh gì khi hành đạo?
3/
Một tôn giáo có 2 phần Đức tin và tổ chức tôn giáo. Vậy nhánh của quý vị được
dạy tổ chức tôn giáo như thế nào?
4/
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là một cái nhánh do chính mình Thầy làm chủ (Đức Chí Tôn
làm chủ), chính Đức Chí Tôn dạy lập ra Thể pháp như thế. Còn nhánh của quý vị do
ai làm chủ? Lập thể pháp như thế nào?
Hết.
Do đâu có 4 câu hỏi
trên?
Hiền muội Victoria tham
gia diễn đàn hội luận với một số bằng hữu thuộc nhiều chi phái. Các vị có đề
tài: SỰ PHÂN NHÁNH TRONG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ hay ĐẠO CAO ĐÀI.
Do vậy Tôi có nhờ hiền
muội làm nhịp cầu gởi đến quý vị các câu hỏi trên.
Chủ Nhật 30-6-2024 Tôi
được hân hạnh mời tham gia diễn đàn, được tiếp đón rất thân tình, nồng hậu và
ngõ lời mời tham gia vào những lần kế tiếp. Tôi rất vui nhận được lời mời như
thế nên sẵn lòng đáp ứng.
Hiền huynh M, thuyết
trình viên trả lời câu số 1: Thầy
không dạy phân nhánh … cả diễn đàn không có ai phản đối câu trả lời trên …
Các câu hỏi và trả lời
trong hội luận là một kỷ niệm đẹp, xin ghi lại tình cảm trân trọng lẫn nhau.
Kính.
Đạo Hữu Dương Xuân
Lương.
Email liên lạc: hoabinhchungsong220513@yahoo.com
WhatsApp: +1 469 642
4667