BBT không cắt xén đoạn nào trong bài để tỏ lòng tôn trọng sự thật lịch sử.
BÀI 9.
Jeudi
26 Novembre 1926 (21-10-Bính Dần)
Thinh danh mãn thế đức tồn linh,
Thanh trực nhứt triêu quán thế tình.
Hữu phước độ nhơn chiêu vạn tánh,
Cần lao thống hiệp hậu gia đình.
Hoàng triều hiệp
nghĩa nam Thiên vận,
Phụ Hớn hưng suy vấn Khổng Minh.
Nhựt nguyệt song quang thùy bạch chuyển,
Hồn quân vị vãn đáo hầu thần.
Con khá kiếm cao xa
mà hiểu nghe, còn nội trợ con, Thầy dạy:
Bạch truật tinh sao
khả phục qui,
Tứ quân tu trạch khảo trần bì.
Thanh chi hữu hiệp tam phân phụ,
Liên thạch cầu đa bất phạt tì.
Trong ấy có bài
thuốc và kiếm nghĩa bài thi, nhớ lời căn dặn.
Nguyễn Thị Quít: (Cẩm Giang, Triêm Hóa)
Nên nhà đã lập hiếm
phương hay,
Ðường Ðạo Thầy khuyên .... cúng tài.
Mới thấy con chưa từng phải quấy,
Khá chờ xem thử biết Thầy hay.
Thâu
Phạm Thị Hóa: (Long Thành, Tây Ninh)
Thầy hay thương mến
lũ con hoang,
Song chớ ỷ y phải ngỡ ngàng.
Nếu biết tánh so đo đắn phận,
Dầu nhiều cay đắng cũng thanh nhàn.
Thâu
Trần Thị Phụng:
Thanh nhàn nhờ hứng
giọt Cam Lồ,
Ðâu bẵng vui riêng nết Lão Tô.
Cực nhọc buồn vui đời đã chán,
Thôi thôi tự toại niệm Nam Mô.
Thâu
Ðoàn Thị Liên:
Nam Mô hai chữ dựa
màu thiền,
Ðến nửa kiếp còn lắm lợi riêng.
Gia nghiệp đã an con cái đủ,
Khá tua cửa Phạm đến cầu duyên.
Thâu
Ðặng Thị É:
Cầu duyên Phật khử
oan gia,
Trái chủ đừng khinh gánh đến già.
Lựa chọn đã .... nơi đạo đức,
Sau quên ngước mặt ngó đầu nhà.
Thâu
Ðỗ Thị Diệu:
Ðầu nhà có mắt ngó
người hiền,
Con vốn giòng lành Lão mới khuyên.
Nếu muốn khử tiêu tai nạn đến,
Thì nên khẩn nguyện sợ oai quyền.
Thâu
Nguyễn Thị Dự:
Oai quyền làm chủ
Phật, Tiên, Thần,
Chẳng vị song cầm vững nét cân.
Hỏi kẻ còn ai hơn thế nữa,
Thì toan đến khẩn độ phàm thân.
Thâu
Lê Thị Chi:
Phàm thân thương kẻ
lắm lao đao,
Bởi kiếp tiền khiên trả chớ sao.
Thành dạ tu tầm Thầy sửa số,
Ðem qua biển khổ chẳng ba đào.
Thâu
Trương Văn Ðộng:
Ba đào ngọn nước
với nguồn sông,
Như một cây trôi ở giữa dòng.
Thấy vậy thương tình cho kẻ vớt,
Ðem về làm của với làm song.
Thâu. Thầy sẽ trọng dụng, khá học Ðạo.
Trang Văn Giáo:
Làm song ngăn đón
lũ gian hùng,
Mạnh yếu đánh thoi cũng gọi hùng.
Quyết lập thân danh tua sửa lưỡi,
Nói hiền kẻ dữ nịnh thành trung.
Thâu
Trịnh Văn Kỳ:
Thầy phong con chức Giáo Hữu, nội một tuần con sắp đặt việc nhà cho an rồi đi
phổ cáo trong tỉnh Tây Ninh, cho khắp hết các nơi nghe con.
THẦY
Các con,
Thơ nó dâng sớ
cầu... Cười...
Thầy cũng thương đó
chút. Thầy đã nói cái lòng thương Thầy hơn biếm trách, nên Thầy chẳng hề biếm
trách các con, ngặt trước quyền của Thần, Thánh, Tiên, Phật, biết sao cứu rỗi
cho đặng.
Thầy lại phải làm
thinh cho kẻ mất lẽ công bình.
Thơ nó tưởng Thầy
giận mà nài xin tha thứ, Thầy thì đặng còn Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật mới nài
sao; nhứt là Thái Bạch Kim Tinh rất khó, Chiêu cũng vì vậy mà mất ngôi.
Các con chớ dễ ngươi phạm thượng nghe à.
Chư Nhu thượng sớ.
M. Trung bạch Thầy về sự cốt Quan Thánh Ðế
Quân.
- Không giống chi hết... Cười... làm cốt
khác.
Ngô
Văn Nhạc:
Thân hay gánh vác nỗi nhà nên,
Chẳng chịu tìm ra kế vững bền.
Lập đặng rồi sợ ra đến đổ,
Nơi mình chẳng phải tội bề trên.
Nghe
à... Thâu.
Nguyễn
Văn Tàu:
Bề trên thương dưới dắt dìu nhau,
Ví lỗi muôn xe cũng nhục bào.
Thêm sức tại nhà nay đã sẵn,
Nhiều cây nên núi dạo nương rào.
Thâu
Nguyễn
Văn Tám:
Nương rào tòng bá núp Trời đông,
Trí đủ ... chưa phải thiện lòng.
Nên nghiệp đôi khi chưa tính trước,
Năm tròn trở ngại có mùa Ðông.
Thâu
Trg
Văn Thành: (Cẩm Giang, Giai Hóa)
Ðong đầy đức cả hóa kho vàng,
Ðừng thấy phận nghèo chiếp miệng than.
Cái cửa Thiêng liêng chưa dễ đặng,
Ðỉnh chung thế sự trấu cùng than.
Thâu.
Huỳnh
Văn Ngay:
Than chưa ngún lửa cuộc đời qua,
Nhưng bởi mến con hứa đặng nhà.
Vợ dữ đưa lời đừng trả giọng,
Khen hiền trước phải biết chê tà.
Thâu
Trần
Văn Chí:
Chê tà trừ bạo lẽ như nhiên,
Song lưỡi gươm chưa sánh dạ hiền.
Ðức mạnh ba ngàn thâu thế giái,
Lòng thành làm kép mặt Thần Tiên.
Thâu
@@@