Trang

Thứ Hai, 29 tháng 7, 2024

5083. ĐẠO SỬ Q 1. BÀI 2: LIÊN QUAN ĐẾN NGÀI NGÔ VĂN CHIÊU.

 

BÀI 2.

TIỂU SỬ BÀ CHÁNH PHỐI SƯ HƯƠNG HIẾU. 

Tôi ký tên dưới đây là Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu.

Ngày tháng nhẹ nhàng trôi qua thắm thoát, tuổi Ðạo ba mươi mấy năm rồi mà tôi mảng lo phục vụ cho nhơn sanh từ buổi trung niên cho đến nay đầu bạc, chưa có thì giờ nhàn rỗi để soạn lại những gì tôi đã làm "Tôi" Trời Phật và Hội Thánh Tây Ninh.


Hôm nay tôi nghĩ rằng "Quang âm như thạch hỏa xá thế vô bá tuế nhơn". Vì thế mà tôi viết quyển sách nầy để nhắc lại kể từ ngày được may duyên sớm gặp nền Ðại Ðạo cho đến ngày nay tôi bảy mươi ba tuổi, đặng hầu lưu lại trong lúc tôi qui vị cho khỏi mất công quý vị tìm kiếm công quả những ngày tôi hành Ðạo tại thế.

Tôi là con của ông Nguyễn Văn Niệm và bà Trần Thị Huệ. Cha mẹ tôi đã khuất hết rồi.

Ngày sanh tôi: Năm Ðinh Hợi, Date de naissance 1886 (Lieu de Naissance: Rue Paulbert Dakao Saigon).

Khi tôi mới khai sanh, Bà Nội tôi muốn tỏ dấu một nhà đạo đức, nên cha tôi là Nguyễn Văn Niệm, thì Bà Nội tôi đặt tên tôi là Nguyễn Thị Hương, còn Bà Ngoại tôi thì đặt cho tôi là Nguyễn Thị Hiếu.

Cha tôi muốn vừa lòng cả nội ngoại đôi bên, nên khi ở bên nội thì gọi tôi tên Hương mà khi về bên ngoại thì gọi tôi tên Hiếu.

Thân sinh quê quán tại tỉnh Cần Thơ. Thân mẫu ở miền Gia Ðịnh.

Thuở tôi vừa nên 7 tuổi, thân mẫu tôi cho tôi vào học trường Bà Phước (Nhà Trắng) Sàigòn, đến 17 tuổi cho học nữ công, qua năm 21 tuổi sánh duyên cùng ông Cao Quỳnh Cư ở làng Hiệp Ninh (Tây Ninh), năm 23 tuổi tôi sanh được một trai tên là Cao Quỳnh An.

Ðến năm 38 tuổi, gặp thời kỳ Chí Tôn đến khai nền Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

Một sự ngẫu nhiên của cơ huyền bí mà trước kia ba ông Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh có tính cách Xây Bàn cầu vong để làm thi tiêu khiển, đâu có ngờ là thời kỳ Ðức Chí Tôn khai cơ mở Ðạo (Xin xem qua Ðạo Mạch Truy Nguyên *1). Ðức Chí Tôn giáng cơ tại nhà tôi trước, đầu tiên ở đường Bourdais số nhà 134 Sàigòn.

Năm 1925 khai Ðạo chưa có Thánh Thất, nên các Ðấng Thiêng Liêng dạy tạm dùng nhà tôi để thờ Ðức Chí Tôn và Phật Mẫu đặng có nơi cầu cơ dạy Ðạo và dìu dắt nhơn sanh trong buổi đầu tiên là năm 1925. Ðến năm 1926, mới mở Ðạo lần tới Tân Kiệm, Tân Ðịnh, Lộc Giang, Thủ Ðức.

Trong buổi chưa có Ngọc Cơ còn xây bàn, các Ðấng giáng dạy Ðạo cho Ðức Hộ Pháp, Ðức Cao Thượng Phẩm và Ðức Thượng Sanh thì bàn gõ từ chữ, Ðức Thượng Phẩm hô chữ nào thì tôi chép chữ nấy rồi mới ghép lại cho thành văn.

Vì thế mà lúc còn xây bàn, các Ðấng giáng cho một bài thi Bát cú hay Tứ cú hoặc dạy việc gì, khi chép xong rồi mới ráp lại một bài thật là lâu lắm, mà mỗi đêm mỗi cầu, buổi ấy tôi làm Biên Tập Viên (Thơ Ký) cho các Ðấng.

Thi văn của các Ðấng dạy Ðạo, có nhiều câu văn rất cao kỳ và mầu nhiệm (xin xem đoạn trước, Tiểu Sử Xây Bàn, thì sẽ rõ).

Vì thế mà ba ông mê thi văn của các Ðấng nên đêm nào cũng thức để cầu cơ học hỏi cho đến khuya trong bảy tháng trường như vậy ai cũng ốm gầy xanh xao hết mà không đêm nào buồn chán (sơ lược khoản nầy để xem tiểu sử Ðức Cao Thượng Phẩm thì rõ).

Bổn phận tôi ban đêm làm Thơ Ký chép Thánh giáo học hỏi, còn ban ngày thì lo yến tiệc tiếp đãi quí khách thượng lưu, trung lưu, hạ lưu, thiên hạ rộn rịp tới lui tìm Ðạo, ngày nào chẳng nhiều thì ít, khách gần khách xa lui tới liền liền trong năm 1925.

Trong hai năm 1925, 1926 chưa có người để chép Thánh giáo, nên tôi được vừa làm Thơ Ký cho các Ðấng và tiếp đón nhơn sanh, từ tháng 6 năm Ất Sửu (1925) đến năm Bính Dần (1926); lúc sau dời về chùa Gò Kén mới có người chép phụ với tôi (mà cũng là phần ít).

Hồi chưa có Tòa Thánh, còn trong buổi phôi thai, mỗi khi khai đàn thượng tượng (thờ Thầy), riêng về phần tôi theo chép Thánh giáo đem về cho Ðức Cao Thượng Phẩm chấm câu, còn chủ nhà chép riêng theo phần của chủ nhà (khai Ðạo tại Sàigòn). Xin quí vị xem kỹ lại, có Thánh giáo Thầy kêu tôi: "Hiếu, viết rõ con" (Quý ông Hiệp Thiên Ðài đều biết rõ hết).

Lúc nầy nhà tôi còn ở Sàigòn, Ðức Chí Tôn mở Ðạo trước tại Sàigòn bảo Ðức Thượng Phẩm vẽ Thiên Nhãn (Thánh Tượng nhỏ còn đó), còn tôi thì lo mua khuôn kiếng đặng lộng Thiên Nhãn cho chư vị mới nhập môn, tôi cho thỉnh không khỏi trả tiền và tôi còn phải dạy thờ cúng và dạy đọc kinh. Tôi giảng giải sơ lược chớ còn nhiều chi tiết khác.

Trải bao thỏ lặn ác tà, những hàng trí thức cùng người mộ Ðạo tìm đến nhập môn khá đông thì tôi lại phải để hết lòng lo tiếp đãi và chỉ dẫn trong lẽ Ðạo, thời gian ấy tôi quên cả gia đình và sản nghiệp, chỉ vui say theo đường Ðạo mà các Ðấng thường giáng đến dạy dỗ khuyên lơn.

Ðến tháng 3 năm Bính Dần (1926) Chí Tôn giáng cơ dạy tôi may Thiên phục cho ông Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt trước hết, kế may Thiên phục cho Hiệp Thiên Ðài và Cửu Trùng Ðài. Thông qui kể ra sau đây:

Thiên phục CTÐ:

 

 

Ông Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt:

1 áo Ðại Phục xanh và 1 cái khăn chín lớp.

 

Ông Ðầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt:

1 áo Ðại Phục đỏ, 1 khăn chín lớp đỏ.

 

Ông Thái Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh:

1 áo Ðại Phục vàng và 1 khăn chín lớp vàng.

 

Ông Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh:

1 áo Ðại Phục xanh và 1 khăn xanh chín lớp.

 

Ông Chánh Phối Sư Ngọc Trang Thanh:

1 áo Ðại Phục đỏ và 1 khăn đỏ chín lớp.

 

Ông Phủ Ngô Minh Chiêu: (1)

1 áo Giáo Tông có thêu chữ bùa Bát Quái và 1 cái mão Giáo Tông.

 

Ông Phủ Vương Quang Kỳ Giáo Sư:

1 áo Ðại Phục xanh và 1 cái khăn bảy lớp.

Thiên phục HTÐ:

 

 

Ðức Cao Thượng Phẩm:

1 áo Ðại Phục trắng, 1 cái áo lá xanh.

 

Ðức Thượng Sanh:

1 áo Ðại Phục trắng, 1 cái áo lá xanh.

 

Quí vị Thập Nhị Thời Quân:

12 cái áo Ðại Phục trắng, 12 cái mão Nhựt Nguyệt Mạo.

 

(1) Ông Ngô Minh Chiêu đáng lẽ phải đắc phong Giáo Tông chánh vị, nhưng tiếc thay ngày lập Ðàn Thiên Phong ông Chiêu đến thấy đông người ông sợ bỏ ra về, vì vậy mà ông không được phong Giáo Tông, và về sau mất hẳn phẩm.