THUYẾT ĐẠO: Lễ Khánh Thành Thánh Thất Kim Biên: Linh Tâm.
Đức Hộ Pháp.
Ngày 15-7-Đinh Sửu (dl 20-8-1937)
Thưa cùng
chư Viên quan quí chức, quí Ông quí Bà, chư Chức sắc Thiên phong nam nữ, chư
Đạo hữu lưỡng phái.
Chiếu theo
ý nghĩa chữ ĐẠO là một định từ để chỉ tánh đức của loài người đối với Đức Chí
Linh cùng càn khôn vũ trụ.
Loài người
bao giờ cũng chủ tâm tìm tòi. Kiếm cái nguyên do lai lịch của mình, hầu định
phận đối cùng Tạo đoan vạn vật. Muốn biết mình, con người phải lột cả sự bí mật
huyền vi của vạn vật hữu sanh tại thế, gọi là chúng sanh, đặng so sánh. Thấy đặng
cái sống của vạn vật mới biết đặng cái sống của mình. Thấy đặng cái năng tri
năng giác của chúng sanh mới tìm đặng cái tâm linh của mình là báu. Thấu đáo
đặng tâm linh mới biết Thiên lương do Chí thiện. Khi hiểu cái Thiên lương ấy là
mầu nhiệm huyền bí, tả không cùng, hiểu không tột, chẳng biết lời chi mà đặt
để, nên định phỏng danh là ĐẠO.
Vì cớ cho
nên lấy chữ TÂM làm mục đích.
Các Thánh
nhơn xưa thường đem cái triết lý ĐẠO TÂM hiệp làm môi giới, nên dầu cho
các vị Giáo Chủ, tuy mỗi Đấng đều có cái tư tưởng đặc sắc nên triết lý cao thấp
không chừng, nhưng cũng phải buộc lấy chữ TÂM làm nguồn cội.
Ôi !
Nếu luận đến hai chữ CHỦ TÂM thì ta cũng thấy rõ ràng : một vấn đề thuyết không
cùng, biện không tận, vì nó quảng đại bao la, vô biên vô giới, bởi nó do nơi
Đức Chí Linh là Trời mà sản xuất.
Hễ càn khôn
vũ trụ nầy vĩ đại bao nhiêu và cơ bí mật Tạo đoan bao nhiêu thì nhơn tâm đều
hưởng ứng bấy nhiêu. Dầu cho kiến thức đặng hay là còn ẩn vi mầu nhiệm mà lương
tâm của con người đã hưởng ứng, đều cho mọi trí não mọi tinh thần tự hiểu rằng
: sự thấu đáo chữ ĐẠO vô cùng vô tận, muôn phần loài người chưa định đặng một, vì vậy các nhà triết
học đạo đức tinh thần
cho Nhơn tâm tức Thiện tâm cũng đáng.
TÂM ấy là
gì ?
Ấy cũng là
một định từ để chỉ cái hình bóng của trí thức tinh thần. Đạo gọi là Nhứt
điểm linh quang chiếu giám.
1. Đức Chúa
Jésus khi thọ pháp giải oan nơi sông Jourdain thì điểm linh quang ấy đến với
một cái hình ảnh phi cầm là con bồ câu hào quang sáng lạng.
2. Đức Phật
Thích Ca khi trì định tại vườn Bồ Đề thì điểm linh quang ấy giáng như hình
khối lửa.
3. Đức Lão
Tử khi thiền định tại Thư viện nhà Châu thì điểm linh quang ấy giáng như hình
sấm sét.
4. Đức
Khổng Phu Tử khi vấn đáp với thần đồng Hạng Thác, thì điểm linh quang ấy giáng
như hình sợ sệt.
Chẳng cần
luận cao xa hơn nữa, như Abraham và Moise thấy Đức Chúa Trời trong đạo hào
quang sáng sáng suốt; như Đức Lão Tử, Nguơn Thỉ Thiên Tôn và Thông Thiên Giáo
chủ thấy Hồng Quân Lão Tổ trong năm sắc tường vân, như Phục Hy thấy Long
mã hóa Hà đồ. vv . . .
Nhứt điểm
linh quang ấy vẫn nhiều hình dáng, vẽ không nên hình, tả không nên tướng.
Ấy là một
huyền bí vô chừng mà các nhà đạo đức từ thượng cổ đến chừ đã để tâm nghiên cứu
tìm tàng, đôi phen phải lặn suối trèo non, chun trong hang sâu, vào nơi vực
thẳm.
Bởi cái chí
hướng của loài người bị quyền năng của Nhứt điểm linh quang thôi thúc, nên trí
não tinh thần cũng xu hướng theo sự bí mật ẩn vi của quyền năng Tạo đoan còn
chất chứa.
Hễ có tìm
thì có biết, hễ biết lại còn phải biết nữa, càng biết lại càng giấu, bởi sự hay
biết của tánh đức loài người chưa hề thấu đáo đặng sự bí mật Tạo đoan cho cùng
tận, tức gọi là “Tầm Đạo”. Hễ càng tìm càng dốt, hễ gọi biết lại là ngu,
vì chưa có một mắt phàm nhơn nào tại thế nầy mà Đức Chí Tôn đã giao trọn huyền
vi bí mật. (De pauvres esprits prétentent qu’ ils sont dans le secret de Dieu.
Or, je ne donne à nul humain ici-bas d’ en faire la révélation).
Ấy vậy, chữ
ĐẠO vẫn để nói mà hình vật của Đạo vốn khó tìm. Đạo do trí thức tinh thần mà
xuất hiện, chưa có một vật chi hữu linh tại thế nầy mà không có Đạo. Cái vĩ đại
của Đạo thật là khó rõ, mà Đạo lại dễ lợi dụng.
Dưới mặt
luật tương đối của đời đã biến hình, biết bao tư tưởng phô bày, biết bao tướng diện ảnh hình.
Tranh nhau
từ cái khôn cái khéo, hơn nhau từ cái xảo cái ngoan, sánh nhau từ cái cao cái
sâu, giành nhau từ cái sang cái trọng, để một trường luận biện chánh chánh tà
tà, cho biết cái quyền năng của Đạo nó tạo cái hay sự dở.
Chưa ai lấy
một triết lý dầu cao siêu thế nào đặng làm môi giới chuẩn thằng hầu định đức
tánh của loài người cho cùng tận thì không có một giáo lý nào dưới mặt địa cầu
nầy đã đáng danh là Đạo.
Chúng ta
không dám chối, các tôn giáo không phải là Đạo, mà chúng ta quyết hẳn rằng, các
nền tôn giáo chưa đáng danh gọi Đạo. Nếu biết cái triết lý do tinh thần sản
xuất thì là Đạo đã đành, nhưng nó chỉ là một tư tưởng trong vô cùng vô tận của
trí thức tinh thần mà thôi, song chúng ta phải biết bao nhiêu tư tưởng
khác nữa. Cái nguồn ấy chưa khô chưa cạn và chúng ta lại quả quyết rằng, hễ còn
loài người thì có tư tưởng, cả tư tưởng ấy cho đến tận thế cũng vẫn còn.
Ấy vậy,
loài người đương bôn xu trên con đường Đạo chớ chưa hề tới tận nguồn cội của
Đạo bao giờ.
Các tôn
giáo tuy đáng danh Đạo chớ chưa phải Đạo. Tỉ như cát kia ở nơi một gò, một bãi
biển, một sa mạc thì nhỏ lớn đều đặc biệt cùng nhau. Thay vì chỉ tên một gò,
một bãi hay một sa mạc, lại gọi tiếng cát trơn, thì chúng ta chẳng hề chối
đặng, bởi dầu một bãi, một sa mạc hay một gò, nó đều có danh là cát.
Vậy thì dầu
cho tả đạo bàng môn hay là chơn tông chánh giáo, cũng đặng phép tạm xưng là
Đạo, những điều khinh trọng, duy để nơi cân công bình của toàn Thiên lương trí
thức tinh thần định đoạt.
Ta không
dám xử, nhưng tự nhiên mỗi cá nhân để trí thức mà định phận.
Ta không đủ
thông suốt đặng dung nạp các giáo lý của các nền Đạo đương thời mà linh tâm cho
ta hiểu rằng, nó chưa vui hưởng đặng cái
hay của mùi Đạo.
Từ cổ chí
kim, con người đã mua cái danh Đạo rất nên mắc mỏ. Cái linh tâm của chúng ta
vốn là tự do mà các tôn giáo đã buộc ràng nó trong một hành vi chật hẹp đặng
bảo thủ cái Thiên lương thì tức nhiên nó đem một cái báu vô giá đặng đổi chuộc
một vật thường tình, e cho thế gian thất Đạo cũng do theo lẽ ấy.
Cái khí
hứng của Linh tâm bao giờ cũng chú trọng theo cái hoạt động tự do, lấy Thiên
mạng làm căn bản, thì Thiên lương là tớ, Linh tâm là thầy. Các tôn giáo
buộc thầy tùng tớ, thì rõ ràng là trái lý. Bởi cớ cho nên Linh tâm phản động
mới nảy ra Tả đạo bàng môn, làm cho các mối chơn truyền thành ra bất năng vô
ích.
Hỏi Linh
tâm do đâu mà sản xuất ?
Có phải do
nơi Tạo Hóa Chí Linh đã ban cho loài người đặng có đủ quyền năng làm chúa cả
toàn vạn vật hay chăng ? Nó là Nhứt điểm linh do nơi Đức Chí Linh mà có, thì nó
là con của Trời, tức nó là Trời.
Còn Thiên
lương do nơi đâu mà có ?
Thiên lương
do nơi sự đối phó cùng vạn vật hữu hình lập phương chước bảo tồn sanh hoạt.
Không có Thiên lương thì chưa biết nhìn nhau là bạn trong trường khổ não đau
thương hầu bảo thủ mạng sống lẫn nhau đặng dìu dắt nhau đi tận con đường giải
thoát.
Có Linh tâm
mới biết mình là một vật trong vạn vật của Chí Tôn đào tạo, rồi nhìn Chí Tôn
trong hình vạn vật mà tự hiểu rằng, Chí Tôn phải có tự nhiên tánh đức Bác ái Từ
bi, mới nuôi nấng trọn chúng sanh vạn vật.
Tâm lành
của Trời tức là tâm lành của người. Hình ảnh vĩ đại trước kia nó biến ra hình
ảnh tối thiểu sau nầy, nên gọi nó là Thiên lương.
Vì vậy, các
giáo lý của mấy vị chưởng giáo từ trước đều là cơ quan un đúc bảo trọng Thiên
lương mà thôi. Hễ có Linh tâm tức nhiên có Thiên lương, dầu không cần kiếm, tự
nhiên nó cũng có. Chúng ta chưa hề dám nói các tôn giáo là vô ích mà ta chỉ
than rằng : Chưa đủ.
Dạy đời cho
lành mà không dạy đời cho ngoan thì chẳng khác nào dạy cho biết cái sống mà
quên cho hiểu cái chết, hay là dạy cho đọc sách mà không cho học chữ. Chớ chi,
các tôn giáo biết chú trọng Linh tâm hơn là cần lo gầy dựng un đúc Thiên lương
thì con đường Chí thiện của chúng sanh sẽ đặng quang minh quảng đại hơn nhiều,
mà cái Đạo của Đời sẽ tùy theo Linh tâm trở nên hiền lương nhơn hậu hơn. May ra
khối khổ não của Đời chưa đến nỗi to lớn nguy hiểm như thế nầy.
Chúng ta
thoạt nhiên quan sát tận tường, bởi các bằng cớ tạo đời do nơi tư tưởng của các
tôn giáo hiển nhiên tại thế nên đoán chắc rằng, nếu giáo lý nào mà rộng mở cho
sự tự do hoạt động của điểm Linh tâm thì điểm Linh tâm tùy theo sự nhỏ lớn của
sự ân hậu khoan hồng ấy mà hưởng ứng, do đó, các tôn giáo mạnh yếu khác nhau
cũng vì lẽ ấy.
Hiện thời,
đạo Thiên Chúa đã đặng thế lực mạnh mẽ, đáng danh là một tôn giáo toàn cầu, kể
tổng số hơn các tôn giáo khác. Ngoài ra phương chước làm cho thành tướng các
triết lý chơn ngôn, những tay cầm giềng mối đạo đã rộng mở cho đời đôi chút tự
do tư tưởng, đạo Thiên Chúa nhờ nương cái đức tín của một Đấng Chí Tôn nên thế
lực vững vàng kiên cố.
Các quốc
dân châu Âu đã đặng khôn ngoan hơn, đặng tài tình hơn, đặng cao trọng hơn,
tưởng cũng do may hưởng các đặc ân của Đấng Chí Tôn cho rộng thế hoạt động
thành hình của tự do tư tưởng.
Trái lại,
chúng ta lại buồn thay cả khu địa giới cõi Á châu nầy chịu dưới quyền cảm hóa
của Phật giáo từ cổ đến kim, nên dân sanh phải chịu lỡ bước văn minh tấn bộ.
Kiếm duyên
cớ, chúng ta đã thấy hẳn rằng : Triết lý mà Phật đã bó buộc tư tưởng của con
người vào một khuôn khổ hành vi chật hẹp nên mới ra đến đỗi. Một tôn giáo đã
khuyên nhủ, đã dụ dỗ, đã yêu cầu cho điểm Linh tâm tự diệt, rồi lại để cho
Thiên lương vi chủ, thì là một nền tôn giáo biểu chủ phải tự tử để cho tớ cầm
quyền thì bảo sao không chịu cái nạn tán gia bại sản. Thảm thay ! Nếu phải vong
phế vì quốc sự bạc nhược ấy, các sắc dân nơi cõi Á châu nầy phải tìm tòi đặng
học vấn với một thầy nào, tức nhiên phải đến gõ cửa Khổng gia hay tìm nhà Lão giáo.
Ông Khổng
thì biểu ôm một kho sách cho dẫy đầy, đủ phương chước mưu mô đặng trị an thiên
hạ, đặt đủ truyện đủ tuồng, đủ vai đủ vở, nhưng rủi thay đời chưa kiếm đặng một
mặt kép hay đặng làm tuồng theo đúng vở, thành thử không khác nào một ông thầy
tuồng đặt bài vở thiệt hay nhưng không có kép tài đặng hát.
Ấy là một
tôn giáo rộng lý thuyết mà hẹp thật hành, bởi thúc phược tự do tư tưởng.
Nho giáo
như cái chậu, cái khôn ngoan của đời tức là Linh tâm như cây kiểng, cây kiểng ở
trong chậu chẳng hề đặng to lớn bao giờ, duy để cho đời đặng ngoạn mục xem ngắm
cái hay của sự u nần cùi
cụt.
Ông Lão thì
chỉ khuyên nhủ dân sanh nuôi nấng cái điểm Linh tâm cho cường cho thạnh, nhưng
không cho nó hoạt động biến hình, thành thử dạy đời về khôn khéo mà ghét đời về
ăn ở thì chẳng khác nào như một ông thầy thuốc đã triï bịnh cho người, biểu
đừng ăn cứ ngủ.
Tưởng ra
thì một giáo lý dạy chúng sanh nằm ngủ đặng đợi hết đói thì dầu cho các môn đệ
của người bảo thủ vẹn vẻ lấy điểm Linh tâm, thì điểm Linh tâm ấy cũng hóa bất
năng vô ích.
Cái triết
lý của đạo Lão là một triết lý rộng mở cho điểm Linh tâm, mà trở lại một tôn
giáo thúc phược lương tâm hơn hết.
Đường Đạo
vốn mênh mông, tâm đức đi ngõ nào cho đúng nẻo? Tâm đức vốn vô ngằn, phải
đạo lý nào cho phù hạp?
Hai câu vấn
đáp mật thiết tương thân nầy, nếu mấy vị Giáo chủ còn đương thời hỏi đến cũng
phải nhăn mày nhíu mặt.
Chúng ta
cũng nên riêng tưởng rằng : chưa có một cái quyền năng nào mà thúc phược đặng
điểm Linh tâm, hầu bỏ nó vào một khuôn khổ hữu hình hữu dạng, thì tức nhiên
chưa có một nền tôn giáo nào đủ tài đức quyền hành đặng làm chủ đức tin thiên
hạ.
Đời phải
học với cha mẹ, cha mẹ chưa đủ đức mà dạy cho nên danh, đời phải học với thầy,
thầy chưa đủ đức mà dạy cho nên phận, đời phải học với vua, vua chưa đủ đức mà
dạy cho nên Đạo, duy phải tìm Trời là Đấng đủ quyền năng tạo thế, lại là Cha
của đức tánh loài người, thì mới đủ phương pháp dạy người cho nên người vẹn vẻ.
Đạo Cao Đài
vốn là cơ quan để nắm tay của đời đặng dắt vào trường học của Trời mà chớ./.