VẤN:
Ban Biên Tâp vui lòng giải thích Tam Giáo Qui Nguyên, Ngũ Chi Phục Nhứt
nghĩa là gì?
HỒI ĐÁP.
Mở đầu Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Q 2 Thầy dạy: Đạo là gì? Sao gọi là Đạo?
Đạo, tức là con đường để cho Thánh, Tiên, Phật
đọa trần do theo mà hồi cựu-vị. Đạo là đường của các nhơn-phẩm, do theo mà lánh
khỏi luân-hồi. Nếu chẳng phải do theo Đạo, thì các bậc ấy điều lạc bước mà mất
hết ngôi phẩm. Đạo, nghĩa-lý rất sâu-xa, nhưng phải hiểu trước bao nhiêu đó, rồi
mới học các nghĩa huyền-bí khác cho đích-xác đặng
Nguyên lý của Tam Kỳ Phổ Độ là đi từ hữu hình cho đến vô vi nên BBT giải
đáp phần hữu hình là phần nhìn thấy được trong tôn giáo không dám đề cập đến những
nghĩa quá sức mình và thời đại mình. Đây là lằn ranh rất tế nhị mà không cẩn thận
có thể rơi vào tình huống: hữu hư vô
thiệt mà Đức Lý Giáo Tông đã than thở trong bài cuối của Thánh Ngôn Hiệp
Tuyển Q 2. Phần hữu hình là khởi điểm còn phần sâu xa xin tùy vào căn cơ của mỗi
người mà mặc khải. Bởi đó là niềm tin, nó chỉ có thể kiểm chứng được khi sự việc
đã hiện hữu.
1/- Tam Giáo Qui Nguyên về tôn giáo.
Ý nghĩa câu Tam giáo qui nguyên là câu hỏi rất thực tế và rất sâu xa. Thực
tế là phải nói cho rõ để hiểu cùng một hướng, để cùng hòa vào dòng chảy chung rồi
mới đi đến những điều sâu xa sau đó.
Pháp Chánh Truyền Chú Giải về Hiệp Thiên Đài phần Sở dụng phàm trần của HTĐ có chú thích: (2) Nguơn Tạo Hóa, Nguơn Tấn Hóa và Nguơn Bảo Tồn, đã giải rõ trong bài chú thích Pháp Chánh truyền Cửu Trùng Đài Nam Phái.
Ngày 03/01/1927 Thầy dạy (TNHT Q2): Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, chiếu theo luật Thiên đình hội Tam giáo, mở rộng mối đạo Trời....
Pháp Chánh Truyền Chú Giải về Hiệp Thiên Đài phần Sở dụng phàm trần của HTĐ có chú thích: (2) Nguơn Tạo Hóa, Nguơn Tấn Hóa và Nguơn Bảo Tồn, đã giải rõ trong bài chú thích Pháp Chánh truyền Cửu Trùng Đài Nam Phái.
Dưới Cửu Trùng Đài có Tòa Tam Giáo cũng như Bát Quái Đài có
Tòa Tam Giáo Thiêng Liêng. Khi nào có Tòa Tam Giáo Cửu Trùng Đài xử đoán rồi mà
người bị cáo còn uất ức hàm oan thì mới kêu nài đến Tòa Hiệp Thiên Đài, thảng
như Tòa Hiệp Thiên Đài xử rồi mà người bị cáo còn uất ức nữa thì phải kêu nài
lên Tòa Tam Giáo Thiêng Liêng là quyền của Bát Quái Đài chưởng quản. Dầu cho lập
Tòa Tam Giáo dưới Cửu Trùng Đài hay là đệ lên cho Tòa Tam Giáo Thiêng Liêng là
Bát Quái Đài, cũng đều phải do nơi Hộ Pháp.
Theo đây thì Tam giáo đã có sẳn trong thánh thể Đức Chí Tôn tại thế. Nghĩa là
Thầy đã qui tam giáo trong triết lý và tổ chức của Đạo Cao Đài sẳn rồi. Tiếp
theo đây là phần tìm hiểu về chữ giáo là tôn giáo hay lời chỉ dạy.
BBT hiểu Tam Giáo là Phật giáo, Tiên giáo và Nho giáo.
Vậy chữ Giáo đây là tôn giáo hay Giáo là lời chỉ dạy?
BBT
hiểu chữ giáo đây là lời dạy (không hiểu chữ giáo là tôn giáo).
Từ lời
dạy mới có tôn giáo. Khi đã có tôn giáo thì mỗi tôn giáo lại chia ra nhiều
nhánh với những cách thức hành đạo khác nhau tùy theo phong hóa của mỗi địa
phương.
Lấy
thí dụ Phật Giáo. Chỉ tính từ thời Đức Phật Thích Ca đến nay đã chia ra rất nhiều
nhánh và có tại nhiều quốc gia mà ai có lưu tâm quan sát cũng đều thấy. Các
nhánh khác nhau thì tự thân mỗi tôn giáo đó giải quyết theo tín lý và pháp luật
của họ chứ tôn giáo khác lấy tư cách chi mà xen vào. Việc xen vào như thế rất
vô lý và vi phạm quyền tự do tôn giáo của người khác.
Thử suy nghĩ xem tổ chức tôn giáo Phật Giáo hiện nay lấy lời dạy của Đức Thích Ca làm căn bản. Vậy thì lời dạy các vị Phật khác mới hiểu thế nào? Hiểu chữ Giáo là tôn giáo hóa ra lại làm hẹp phạm vi của chữ Giáo theo nghĩa là lời dạy của các vị Phật hay phái Phật.
Thử suy nghĩ xem tổ chức tôn giáo Phật Giáo hiện nay lấy lời dạy của Đức Thích Ca làm căn bản. Vậy thì lời dạy các vị Phật khác mới hiểu thế nào? Hiểu chữ Giáo là tôn giáo hóa ra lại làm hẹp phạm vi của chữ Giáo theo nghĩa là lời dạy của các vị Phật hay phái Phật.
Còn
Tiên giáo thì không phải là một tôn giáo, vì không có tổ chức mà do sự tu tập,
rèn luyện của mỗi vị.
Cho
nên hiểu chữ giáo là Tôn giáo (như một tổ chức) là không thỏa đáng so với chữ giáo là lời dạy. Bởi lẽ Tiên
giáo không phải là Tôn Giáo, vậy thì làm sao qui?
Còn
hiểu chữ giáo là lời dạy thì đó là lời dạy của các vị Phật, Tiên, Thánh và những
lời dạy đó cùng xuất phát từ cái gốc là đạo và cùng có mục đích là hướng dẫn
con người làm lành lánh dữ, sống vị tha. Xử thế theo lẽ công bằng và thương
yêu.
Hiểu
như thế tự thân nơi Đạo Cao Đài đã có sự qui nguyên tam giáo.
Phái
Ngọc, màu đỏ (Nho Giáo). Đặc trưng của Nho Giáo là tổ chức, tổ chức và tổ chức
cho nên phái Ngọc phụ trách ba viện: Hòa, Lại, Lễ để giử việc khuôn thước và
pháp luật của đạo. Quan sát thể pháp tại Cửu Trùng Thiên phái Ngọc ở dưới hết để
lo việc ổn định tôn giáo. Thầy dùng quyển Xuân Thu để biểu tượng của Nho Giáo.
Mà Xuân Thu là bộ biên niên sử không phải chỉ ghi chép mà còn nghị luận, phê
phán việc đúng sai theo nguyên tắc nhất quán.
Phái
Thượng, màu xanh (Tiên giáo). Đặc trưng của Tiên giáo là đào luyện trí tuệ cho
nên phái Thượng phụ trách 03 viện: Học, Y, Nông để lo về giáo huấn, sức khỏe và
canh nông để xã hội được ấm no. Con người phải có trí tuệ để nhận định đúng sai
theo nguyên tắc, khuôn luật của tổ chức tôn giáo trước khi vươn tới những tầm
cao khác. Có Thanh Tịnh Trí Phật rồi mới có Diệu Minh Lý Phật. Biểu tượng của
Tiên giáo là Phất Chủ (Chổi tiên).
Phái Thái, màu vàng (Phật giáo). Đặc trưng của Phật giáo là từ bi, bác ái
cho nên phái Thái phụ trách 03 viện: Hộ, Lương, Công phụ trách về tài chánh,
lương thực và công nghiệp để lo cho sự phát triển xã hội. Muốn xã hội phát triển
thì người hành đạo phải có từ tâm để phụng sự cho việc kinh thương trong tôn
giáo, các chính sách đề ra phải phù hợp với bác ái và công bằng chứ không phải
dùng mọi cách để làm giàu trên sự đau khổ của tha nhân và xã hội. Biểu tượng của
Phật giáo là Bình Bát Vu.
1.1/- Theo Đạo Sử.
Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu
ngày dâng Tân Luật 13/12/Bính Dần (16/11/1927) Đức Lý Giáo Tông đã gọi Phối
Sư của 03 phái Thái, Thượng, Ngọc là Phối Sư Tam Giáo.
Nghĩa là tự thân nơi Đạo Cao Đài đã có Tam giáo nên Lý Giáo Tông mới sắp đặc
công việc cho Phối Sư Tam giáo (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển ghi là Phối Sư tam phái).
Đạo Sử: Chưởng Pháp, Đầu Sư tọa vị,
Phối Sư Tam giáo tới trước.
Thánh Ngôn HT Q1: Chưởng Pháp, Đầu Sư
tọa vị, Phối Sư Tam phái tới trước.
Đây là chứng cứ rất mạnh để hiểu rằng đã có sự qui nguyên Tam Giáo qua 03
phái Thái, Thượng, Ngọc trong thánh thể của Thầy (Cửu Trùng Đài)
1.2/- Phật Mẫu Chơn Kinh dạy:
Hiệp
Vạn chủng nhứt môn đồng mạch,
Qui
thiện lương quyết sách vận trù,
Xuân
Thu, Phát Chủ, Bát Vu,
Hiệp
Qui Tam Giáo hữu cầu chí chơn
Cho nên việc chúng ta hiểu cho đúng ý nghĩa là rất quan trọng.
1.3/ Cửu Trùng Thiên.
Muốn hiểu đúng chúng ta cần liên hệ đến Thể pháp tôn giáo tại Cửu Trùng
Thiên.
(Ảnh chụp: Cửu Trùng Thiên tại Đại Đồng Xã)
Theo thể pháp tại Cửu Trùng Thiên thì ba màu vàng, xanh, đỏ lại ở dưới màu
trắng. Khối màu trắng ấy như hai quả cân úp phần nhỏ vào nhau. Trong tôn giáo
thì đạo phục Hiệp Thiên Đài toàn trắng và về mặt hữu hình có nhiệm vụ cầm cân
pháp luật trong tôn giáo (nắm quyền Tư pháp).
Thể pháp biểu hiện: Lời dạy của Nho, Tiên, Phật phải được vận hành theo
cùng một khuôn khổ pháp luật. Đó là ý nghĩa Qui Nguyên Tam Giáo trong Đạo Cao
Đài.
Đồng thời cũng là một phần trong ý nghĩa câu kinh: Cửu Trùng Thiên mở lối qui nguyên (Kinh Hạ Huyệt).
1.4/ Theo Thánh Ngôn
Tường quang nhứt khí
chiếu minh đông,
Tam-giáo qui nguyên giữ
cộng đồng.
Phật pháp khuyến nhơn
qui mỹ tục,
Nho Tông phục thế hưởng
thuần phong.
Diệu huyền chơn Đạo tu
tông hướng,
Mê hoặc tà mưu khả tự
phòng.
Thế thượng giục tri Thiên-sứ
đáo,
Tam-Kỳ Phổ-Độ lập kỳ
công.
Tam Giáo Qui Nguyên: đưa
03 lời dạy vào trong Đạo Cao Đài, nhưng vẫn giữ đặc trưng riêng (là 03 phái) qua
thể pháp tại Cửu Trùng Thiên.
2/- Ngũ chi phục nhứt.
Ngũ Chi là: Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo và Phật Đạo. Ấy là 05 lớp học mà Thầy đưa vào trong một ngôi trường chung cho môn sinh học và tấn hóa. Xưa do khoa học kỷ thuật chưa phát triển, người hành đạo nơi tư phương. Nay thời năm châu chung chợ, bốn biển chung nhà nên Thầy đến gom chung lại thành một trường.
Theo Đức Hộ Pháp giảng dạy thì Thầy Qui Nguyên Tam Giáo lại và chia ra năm
cấp học từ thấp đến cao cho môn sinh tùy vào căn cơ mà vào học và thực thi tam
lập. Nói cho dễ hiểu thì Thầy dạy lập ra cái thang có năm bậc cho môn đệ Thầy
theo đó mà đi lần về với Thầy. Trong các cấp ấy lại chia ra nhiều lớp, lớp nào
có bài của lớp đó,
Kinh Đệ Tứ Cửu:
Sắc
huỳnh chiếu roi vàng đường hạc,
Cõi
Huỳnh Thiên nhẹ gót chơn Tiên,
Năm
rồng đở nổi đầu thuyền,
Vào
cung Tuyệt khổ kiến Huyền Thiên Quân.
Thứ đến trong Di Lặc chơn kinh (Kinh Tận Độ):
Nhiệm vụ Đức Di Lặc Vương Phật là tầng Hổn Ngươn Thiên;
Nhiệm vụ Nhiên Đăng Cổ Phật là tầng Hư Vô Cao Thiên;
Nhiệm vụ Kim Bàn Phật Mẫu là tầng Tạo Hóa Huyền Thiên;
Nhiệm vụ Từ Hàng Bồ Tát là tầng Phi Tưởng Diệu Thiên;
Nhiệm vụ Chuẩn Đề Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát là tầng Hạo Nhiên Pháp Thiên.
Lưu ý rằng Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa có dạy rằng: trong Di Lặc Chơn Kinh
không dùng Phật hiệu mà nói lên nhiệm vụ của Đấng đó. Theo đó mà hiểu được cái
lý tại sao khi tụng xong đọc Nam Mô Di Lặc Vương Phật chỉ lạy có một lạy. Đó là
lạy cái nhiệm vụ của Đấng ấy, còn nếu như hiểu là Phật hiệu thì phải lạy 09 lạy
như Thầy đã dạy: Lạy Tiên Phật là chín lạy (Cửu Thiên Khai Hóa).
3/- Trích đoạn Đức Hộ Pháp dạy về Tam Giáo và Ngũ Chi.
Qui Tam Giáo là gì ?
Em xin giải
quyết vì cớ nào mà qui Tam Giáo trước đã, lại luận đủ hình thể và tinh thần cho
trọn vẹn.
* Về hình thể:
Ai sanh ra
dưới thế nầy cũng phải giữ đủ tôn chỉ của ba đạo : Nhơn đạo, Tiên đạo và Phật đạo
mới làm đặng hoàn toàn phận sự con người.
Tỉ như Nhơn
đạo thì dạy mình vẹn giữ Tam cang Ngũ thường, mới biết bổn phận mình đối với xã
hội nhơn quần thế nào cho nhơn loại cộng hưởng hòa bình, chẳng nghịch lẫn nhau,
không tiêu diệt lẫn nhau mà phải trái hẳn với đức háo sanh của Thượng Đế.
Muốn cho nhơn
loại đặng lòng hữu ái mà kính mến lẫn nhau thì Tiên đạo lại dạy ta phải lão luyện
tinh thần cho đặng thông minh trí hóa, hầu kiếm phương giúp đỡ binh vực lẫn
nhau. Nơi địa cầu 68 nầy là nơi luyện cảnh (monde expiatoire), chúng ta chẳng
những bị ma hồn quỉ xác cám dỗ mà thôi, mà chúng ta lại còn bị thiên tai mộc
ách, chúng ta chẳng những phải đối địch cùng sự hung bạo của đời mà thôi, mà ta
lại còn phải đối địch cùng các nghiệt bịnh của trời hành xác nữa.
Ôi ! Vì vậy
mà nhiều bậc văn tài trí sĩ bên Âu Tây cắm cúi cả đời tìm kiếm một phương hay
mà sửa đời đặng binh vực nhơn sanh khỏi điều tận diệt. Trí não phải tháo luyện
đến đỗi nhiều vị đoạt đặng cơ bí mật của Trời mà làm ra một khoa học, có nhiều
phương hay và quá trí khôn của người, nên ta coi các Đấng ấy như là Địa Tiên
cũng phải.
Khi chúng
ta đã đặng đủ khôn ngoan chiếm đoạt cơ bí mật của Trời mà lập ra các cơ khí, nếu
không có Phật giáo dạy ta giữ dạ từ bi mà cứu độ nhơn sanh thì cái học thức
khôn ngoan ấy nó trở lại hại nhơn sanh hơn nữa.
Cái lý hữu
nhân hữu quả, em xin để mấy anh mấy chị thẩm nghĩ. Em chỉ tưởng lòng bác ái từ
tâm thì buộc người phải có, bằng chẳng vậy thì dầu cho toàn xã hội đều công
chánh mà có một kẻ bất lương vụ ngã lộn vào thì cũng đủ làm cho xã hội trở nên
rối loạn. Biểu sao chúng ta không thấy dưới mắt chúng ta đời chẳng khác nào một
buổi chợ mơi : khôn ngoan thì đặng hơn, thiệt thà thì bị ép.
Người biết
Đạo người thì là trọng mình, mà trọng mình thì phải giữ tinh thần cho tinh tấn.
Tinh thần tinh tấn mới đủ tư cách dạy đời làm lành lánh dữ. Ấy là Tam Giáo qui
nhứt.
Nếu trong một
xã hội mà mỗi người đặng vậy thì xã hội đặng hưởng phước hạnh thái bình, còn ước
như các xã hội trên mặt địa cầu nầy đều đặng vậy thì đời mới nào ? Cái hạnh phước
của toàn nhơn loại trên địa cầu 68 nầy có ngày đặng vậy chăng ?
Coi lại tôn
chỉ của Đạo thì anh em ta có lòng dám tin chắc rằng sẽ đặng điều hạnh phước ấy
không sai.
* Về thiêng liêng:
Trước không
có chi trong càn khôn thế giới là vô vi. Thoạt nhiên, hai lằn không khí chẳng
biết gốc nơi đâu, kêu là Hư Vô Chi Khí đụng nhau mới có chơn linh của Thầy
và ngôi của Thầy là Thái Cực.
Trái lửa
Thái Cực là cơ của hữu hình, vâng lịnh Thầy mà phân ra Lưỡng Nghi, Tứ Tượng,
và biến Bát Quái, nhứt nhứt có trật tự : Ấy là cơ Nhơn đạo. Rồi sanh ra
vàn vàn muôn muôn Địa cầu cùng khắp trong càn khôn thế giới và 72 trái Địa
cầu có nhơn loại ở : Ấy là phép biến hóa của Tiên đạo.
Khi chia
mình ra mà lập càn khôn thế giới rồi thì khối lửa Thái Cực của Thầy đã tiêu mất
trở lại vô vi, tức là cơ mầu nhiệm của Phật đạo đó vậy.
Bát Quái biến
hóa vô cùng mà lập ra các Địa cầu trong càn khôn thế giới và vạn vật mà chúng
ta thấy đặng dưới mắt rõ ràng đây.
Ấy là một
cuộc hữu hình, mà trọn cuộc hữu hình nầy dường như vâng mạng lịnh của một quyền
hành Thầy rất lớn, không xâm phạm lẫn nhau mà phải hại. Cơ mầu nhiệm Nhơn đạo
rõ ràng đó vậy.
Mỗi trái Địa
cầu có nhơn loại, tức là có chơn linh ở, hằng ngày tô điểm sửa sang làm cho nó
đặng đẹp. Hễ Địa cầu đẹp thì tinh thần của các chơn linh phải tấn hóa thêm cao
đến ngày cực điểm văn minh. Ấy là cơ mầu nhiệm của Tiên đạo.
Chừng Địa cầu
đặng toàn hảo, các chơn linh đặng cực điểm văn minh rồi, dầu hưởng đặng lâu hay
mau thì rồi phải bị tiêu diệt. Ấy là cơ mầu nhiệm của Phật đạo.
Người lúc
chưa vào thai bào thì là hư vô, khí Âm Dương tương hiệp biến thai ra nhơn hình,
tới lúc sanh ra cho đến khi trưởng thành là cơ mầu nhiệm của Nhơn đạo.
Khi đã trưởng
thành lại học tập tu luyện tinh thần cho trí hóa trở nên khôn ngoan, là cơ mầu
nhiệm của Tiên đạo.
Khi già rồi
chết, thi hài bị tiêu diệt là cơ mầu nhiệm của Phật đạo.
Luận qua hiệp Ngũ Chi (theo hình thể):
Ngũ Chi là
: Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo và Phật đạo. Cả toàn địa cầu nầy, hễ
làm người thì có Nhơn đạo nơi mình rồi, mà mình nong nả làm ra người hữu
dụng cho đời, tức nhiên mình đã hơn người, ấy là Thần đạo đó vậy.
Hễ hữu dụng
cho đời, tức là mình hơn đời, gọi là quán thế, tức nhiên mình làm Thánh đạo
đó vậy.
Mình hơn đời
là nhờ cái khiếu thông minh nó hứng sự thông suốt của đời dạy mình cho nhiều, rồi
lại biến hóa ra thêm, trí hóa phù hạp với cơ huyền vi mầu nhiệm của Trời Đất. Nếu
đoạt đặng cơ mầu nhiệm ấy mà làm của mình, rồi lại truyền bá cho cả nhơn loại học
hiểu cái biết của mình mà thật hành ra sự hữu ích cho đời, tức là mình làm Tiên
đạo đó vậy.
Biết đời rồi
biết mình, rồi biết đến tinh thần mình là chủ tể của mình, mình biết đặng tinh
thần mình rồi, hễ nhờ nó mà nhơn phẩm mình đặng cao bao nhiêu thì lại càng yêu
thương lại nó bấy nhiêu, nên buộc phải lo cho nó đặng thanh tịnh nghỉ ngơi đôi
lúc mà đợi ngày thoát xác, tức là làm Phật đạo đó vậy.
Với các
Nguyên nhân thì Ngũ Chi tỉ như một cái thang 5 nấc, bắc cho mình leo lên một địa
vị ngang bực cùng Thầy, tức là Phật đó vậy.
Chưa ai nhảy
một nhảy mà lên cho tới một từng lầu 5 thước bề cao, mà như ai đã để sẵn một
cái thang 5 nấc, mình có thể lần hồi mà leo lên đặng.
Thầy hiệp
Ngũ Chi đặng làm một trường học năm lớp cho mình tu luyện, chẳng khác một trường
học phàm kia vậy, lần lần bước đến đặng đoạt thủ địa vị của mình. Hễ ngồi đặng
phẩm nào thì địa vị mình nơi ấy, chẳng ai còn tranh giành ngược ngạo không nhìn
nhận cho đặng.
Mình là người
tức là có sẵn Nhơn phẩm, mình mới luyện Nhơn hồn theo gương của chư Thần mà
chúng ta thờ phụng đó, thì tức nhiên cũng đoạt đặng đức tánh của chư Thần mà
làm Thần vị của mình.
Đặng Thần vị
rồi, lại xem gương của các Thánh mà tu luyện Thần hồn mình cho đặng Thánh đức,
tức nhiên cũng đoạt đặng Thánh vị vậy.
Đặng Thánh
vị rồi, cũng luyện Thánh hồn mình theo tánh đức của chư Tiên mà đoạt cho đặng
Tiên vị.
Khi biết
mình đã vững nơi Tiên vị rồi thì mình cũng cứ đào luyện Tiên hồn theo gương chư
Phật mà gấm ghé vào Phật vị.
Thoảng như
có kẻ hỏi : Thần, Thánh, Tiên, Phật xa cách với người như Trời với đất, khác
nhau kẻ tục người thanh, thì thế nào người phàm mà mong mỏi leo lên phẩm vị ấy
cho xứng đáng ?
Ta lại đáp
như vầy : Dầu cho hạnh Hóa nhân đi nữa thì là :
- Những Vật
chất hồn có một điểm Thảo mộc hồn như bông đá (Éponge) đó vậy.
- Thảo mộc
có một điểm Thú hồn như cây mắc cở (Sensitive).
- Thú hồn
có một điểm Nhơn hồn như loài cầm điểu thì là : két, quạ, cưỡng, nhồng; như tẩu
thú thì là : chó, ngựa, khỉ; như ngư thì là cá ông đó vậy.
- Nhơn hồn
có Thần hồn, đã đành chẳng cần phải giải.
- Thần hồn
có Thánh hồn, Thánh hồn có Tiên hồn, Tiên hồn có Phật hồn.
Ấy vậy, nơi
mình chúng ta đã có sẵn một điểm Thần, Thánh, Tiên, Phật hồn. Nếu ta biết làm
cho chơn hồn tăng tiến lên hoài cho tới phẩm vị Tiên Phật thì phải tập luyện tu
hành và đắc kỳ truyền mới đặng.
Muốn tu ắt
phải có Đạo, vì vậy nên Thầy mới lập Đạo.
Đạo thì hữu
hình, nếu có kẻ hỏi : Đạo vốn vô vi mà lấy hữu hình lập thành thì thế nào đắc đạo
vô vi cho đặng ?
Ta lại đáp
rằng : Không hữu hình, vô vi cũng khó có; mà chẳng có vô vi thì hữu hình vốn
không bền vững, tỉ như hồn với xác ta đây vậy. Không hồn thì xác phải tiêu diệt,
mà có xác không hồn cũng không cơ khí mà lập thành nên đạo người vẹn vẻ. Hai
đàng phải tương hiệp nhau mới đặng hoàn toàn.
Ấy vậy, có
vô vi ắt có hữu hình. Chánh pháp
và Hội Thánh là hữu hình, mà hữu hình ấy nó phù hạp với luật lệ Thiên điều và đối
chiếu với Cửu Thiên Khai Hóa. Luật đạo ấy là Thiên điều, còn Hội Thánh là chư
Thần, Thánh, Tiên, Phật tại thế đó vậy.
Hết trích.
Tóm lại: BBT căn
cứ vào các lời dạy từ Thánh Ngôn, Đạo Sử... giải đáp ý nghĩa Tam Giáo Qui
Nguyên, Ngũ Chi Phục Nhứt theo nghĩa hữu hình còn những nghĩa sâu xa khác mỗi
người tự bước vào trường học của Trời mà hiểu.
Tạm hết.
Xem thêm bài:
và