GIÁO LÝ PHỔ THÔNG
BÀI 5
MỘT BÁT QUÁI MỚI
TRÌNH CHÁNH VỚI NHÂN
LOẠI.
“Bát Quái Đồ Thiên-1926”.
Theo
giáo lý Cao Đài Giáo thì Hư Vô chi khí sanh ra Đấng Chí Tôn hay còn gọi là Ngôi
Thái Cực.
Thái Cực sanh Lưỡng Nghi.
Lưỡng Nghi biến sanh Tứ Tượng.
Tứ Tượng biến sanh Bát Quái.
Thầy khai Bát Quái mà tác thành Càn Khôn Thế
Giới nên mới gọi là Pháp. (là tài nguyên và môi trường sống).
Pháp có mới sanh ra Càn Khôn Vạn Vật rồi mới có
người, nên gọi là Tăng… (là
sinh vật hay chúng sanh sống trên môi trường- mà con người là một trong những
sinh vật sống trên vũ trụ)
Bát Quái qua văn bút đạo học xưa nay thể hiện
cho nổ lực của nhân loại khi nhận thức về Thiên lý hay Nhân sự.
Văn minh nhân loại đã có 2 đồ hình Bát Quái còn
lưu lại:
- Tiên
Thiên Bát Quái. ‘TTBQ’.
- Hậu
Thiên Bát Quái. ‘HTBQ’.
- Đến khi Đấng Chí Tôn chiếu luật Thiên điều
hội Tam Giáo hoằng khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thì Tôn Giáo Cao Đài lại trình
chánh thêm một Bát Quái mới với cộng đồng nhân loại.
Bát Quái mới được bố trí tại Bát Quái Đài Toà
Thánh Tây Ninh: Đồ Thiên Bát Quái.
‘ĐTBQ’.
DỊCH HỌC QUA BA THỜI
KỲ.
I/- Bát
Quái Tiên-thiên:
TTBQ ứng
với Đại Đạo Nhứt Kỳ Phổ Độ.
TTBQ bắt đầu từ Vua Phục Hy “còn gọi Bào Hy”.
Đây là vị Vua nằm trong huyền sử của Trung Hoa…
Tương truyền nhà Vua thấy con Long Mã nổi lên
trên sông Hoàng Hà… trên lưng con Long Mã có những khoáy thành đám từ 1-9 nhà
Vua nhân theo đó mà nghiền ngẫm về lẽ biến hoá của Vũ Trụ và đem lẽ đó vạch ra
thành nét.
Đầu tiên vạch một nét liền “tức là vạch lẽ” để
làm ký hiệu cho khí dương.
Kế đó là một nét đứt “tức là vạch chẳn” để làm
ký hiệu cho khí âm.
Âm dương là vốn một chứ không phải là 2 khí.
Gọi là khí dương khi nó chuyển động.
Gọi là khí âm khi nó ngừng nghĩ.
TTBQ chỉ có 8 quẻ và được bố trí theo phương vị
và lý số như sau:
Trình bày theo
hướng Bắc ở trên
Các quẻ đơn ở Tiên Thiên Bát Quái được đánh số
và có ý nghĩa như sau:
1: Càn vi Thiên; 2: Đoài vi Trạch; 3: Ly vi Hoả;
4: Chấn vi Lôi; 5: Tốn vi Phong; 6: Khảm vi Thuỷ; 7: Cấn vi Sơn;
8: Khôn vi
Địa.
Khi cộng các quẻ đối nhau xuyên tâm ở Tiên
Thiên Bát Quái theo chính phương hay bàng phương ta đều được con số 9. “Số của Cửu
Thiên Khai Hoá”.
II/- Bát Quái Hậu-Thiên.
HTBQ ứng với Đại Đạo Nhị Kỳ Phổ Độ.
HTBQ bắt đầu từ Vua Văn Vương nhà Châu.
Nhà Vua đem 8 quẻ đơn chồng lên nhau tạo thành
64 quẻ kép.
Đồ hình BQHT vẫn dùng 8 quẻ như Tiên Thiên
nhưng lý số và bố trí phương vị lại khác.
Khảm (1); Khôn (2); Chấn (3); Tốn (4); Càn (6);
Đoài (7); Cấn (8); Ly (9).
Hậu Thiên không có quẻ nào mang số 5 vì thuộc
ngũ trung cung. “cho nên Hậu Thiên vẫn chỉ có 8 quẻ mà có đến số 9”.
Cách bố trí
số 5 ở Ngũ Trung Cung như thế nên khi cộng các con số của Hậu Thiên theo
chính phương hay bàng phương mà xuyên tâm hoặc là cứ 3 con số theo trục ngang
hay dọc lại thì đều được số 15 ‘cộng
ngang dọc chéo đều được số 15’.
“Toán học cũng có một ma trận hay ma phương
giống như các số của Hậu Thiên”
4
|
9
|
2
|
3
|
5
|
7
|
8
|
1
|
6
|
(TỨ tướng TAM tài hội BÁT tiên- CỬU long NGŨ hổ
NHẤT đoàn viên- NHỊ tướng THẤT hiền phò LỤC quốc. Đạo mầu từ đó hết chinh
nghiêng)
Nhưng
nếu không tính số 5 ở Ngũ Trung Cung mà chỉ cộng theo Đông, Tây , Nam ,
Bắc: Tứ-Tượng Bát-Đồ hình của Hậu-Thiên chuyển-hóa giao nhau đều nên hình số
10. “thể hiện thập thiên-can bao hàm vạn tượng”.
Xin lưu ý:
+ “ Cũng
có tư liệu khác viết rằng Phục Hy đem 8 quẻ ấy chồng lên nhau để tạo nên 64
quẻ- Cuộc tranh luận hãy còn chưa kết thúc…”.
+ “Theo Cao Đài Giáo: Thái cực đến Bát Quái là cả
một chặng dài… đến khi có nhơn loại và nhơn loại nghĩ ra Bát Quái lại là một
chặng dài nữa… Như vậy Bát Quái Tiên Thiên là do con người nghĩ ra nên có sau
Trời Đất;
nhưng chữ Tiên Thiên hàm nghĩa là nổ lực của con người muốn tìm hiểu về Trời
Đất trước khi có con người. Bát Quái Hậu Thiên có sau Tiên Thiên… thiết nghĩ ngôn từ Tiên Thiên; Hậu Thiên cũng
còn hàm nghĩa theo thứ tự trước sau”
III/- Bát Quái Đồ Thiên.
BQĐT ứng với Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. BQĐT được
trình bày tại Bát Quái Đài Toà Thánh Tây Ninh.
“Hội
Thánh minh giao sách trường xuân”.
Chúng tôi chỉ ghi
nhận hình
thể và phương vị còn lý số BQĐT chưa thấy Hội Thánh Cao Đài công bố, nên
chúng tôi không suy đoán được.
(1): Dùng 8 quẻ đã có trong dịch học;
(2): dụng các quẻ đơn như
Tiên Thiên;
(3) dùng thứ tự 8 quẻ theo
thứ tự Hậu Thiên ( Càn, Khảm, Cấn, Chấn…)
(4): BQĐT thì khởi điểm cung Càn nằm ở Tây Nam (Khởi điểm
cung Càn Hậu Thiên ở Tây Bắc).
(5): Chiều gọi tên của BQĐT
ngược với chiều kim đồng hồ (Chiều gọi tên của Hậu Thiên theo chiều của kim
đồng hồ).
Theo nhận định của
chúng tôi thì Kinh Dịch Đồ Thiên vẫn là 64 quẻ (ứng với Tân luật 64 điều).
Trong 64 quẻ dịch sẽ chia thành 32 và 32 chứ không chia thành 30 (thượng kinh)
và 34 (hạ kinh). Bởi lẽ trong Tân Luật phần Đạo Pháp có phân chương (8 chương),
32 điều. Phần Thế Luật 24 điều không phân chương; Phần Tịnh Thất 08 điều cũng
không phân chương. Như vậy phần phân chương 32 điều và không phân chương 32
điều; là chỉ dấu cho thấy Kinh Dịch Đồ Thiên chia làm 32 và 32.
MẤY NGUYÊN LÝ
KHI HỌC KINH DỊCH.
Học Kinh
Dịch cần chú ý 7 nguyên lý:
1/- Đạo sinh ra tất cả. (Đạo
sinh Ngôi Thái Cực -
Thái cực sinh ra vạn vật).
2/- Không có vật gì độc âm
hay cô dương. (Vật gì cũng có đủ âm dương).
3/- Nhất nguyên đa cực. (Vạn
vật cùng một nguyên lý nhưng có nhiều đối cực).
4/- Dịch là biến “CHỮ THỜI”.
(Không có cái gì đứng yên- tự thân vận động).
5/- Thiên nhơn tương ứng. (Trời
đất và con người cùng một nguyên lý).
6/- Nhân nào quả nấy. (Cái
mà ta cho là ngẫu nhiên cũng do nhân quả mà).
7/- Sự vật gì cũng có chu
kỳ của chính nó. (Tụ và tán).
NHỮNG ĐIỀU CƠ BẢN:
Thượng cổ: Phục Hy quan sát vạn vật để định
tượng và ghi thành vạch liền và dứt thể hiện “Lý&Sự khơi phát, chuyển
luân”.
Trung cổ: Văn Vương – Chu Công khảo sát lẽ biến
thành mà ghi thoáng tượng thể hiện “Trí dĩ tàng vãng”.
Khổng tử bổ túc lẽ hoá sanh mà đoán định hiện
tượng thể hiện “Thần dĩ tri lai”.
Hậu học truy lý để Hườn nguyên mà an
định trong minh triết và qua lại trong cuộc đời mà dìu dẫn nhau khi trải
bước trên con đường tấn hoá. “Thuận căn
thuận mạng
đôi đường cao thăng; Kinh Tắm Thánh”.
Dịch: thể hiện sự vận hành biến đổi của tình
thế, thuận hợp với qui trình thiên lý Đạo qua thời gian và không gian cho nhân
gian chiêm nghiệm… để:
1/- Khi suy nghĩ thì lấy đạo đức làm căn bổn; (thiện căn, “lập đức”).
2/- Khi nói thì chuộng lời; (thiện ngôn, “lập ngôn”).
3/- Khi hành động thì chuộng thích nghi; (thiện hành; “lập công”).
4/- Khi chế tác thì chuộng hình tượng
(thiện mỹ).
5/- Khi không nghĩ; khi không nói; không hành động; không chế
tác mà vẫn thể hiện được Đạo Dịch…
(Thiên lý bao gồm cả hữu vi và vô vi. Hữu hoặc Vô
chỉ là một cực của Đạo mà cả hai hợp lại mới đủ gọi là Đạo).
(Động – Tịnh: chưa đủ để gọi là đạo. Trung hoà:
có động có Tịnh mới gọi là Đạo).
Quẻ dùng để chỉ một thời kỳ (Bĩ; Thái…) một
công cuộc (Cổ; Tụng…).
Ngôi là thứ tự các hào. (Một quẻ 6 hào= 6
ngôi). Ngôi có chính và thất chính. Có trung và thất trung. Có ứng và không
ứng.
+ Chính và thất chính:
Nếu hào dương ở vào vị trí: 1-3-5 là chính.
Nếu hào âm ở vào vị trí: 2-4-6 là chính.
Hào dương hay âm sai vị trí qui định trên là
thất chính.
+ Trung và thất trung:
Dù hào (Cửu hay Lục) ở vị trí số 2 và số 5 là
đắc trung. (Một quẻ kép là do 2 quẻ đơn chồng lên nhau nên chỉ xét đắc trung ở
2 hào nầy)
Do vậy mà có trường hợp đắc trung lại thất
chánh trong mỗi quẻ.
+ Ứng và không ứng:
Xét hào theo
từng cặp một: 1-3; 2-5; 3-6.
Nếu từng cặp có một hào âm và một hào dương là
ứng. (Nếu xét từng cặp mà chỉ có âm với âm hay dương với dương là không ứng).
* Về
nguyên tắc giá trị:
Nhân tố đắc trung đắc chính hẳn nhiên tuyệt vời; “như hào 5 quẻ Càn”. Nhưng khi
phải chọn lựa giá trị “Trung hay Chính” thì đạo dịch quí đắc Trung hơn đắc
Chính…
CÁI SAI LẦM BI ĐÁT
THƯỜNG THẤY Ở NGƯỜI HỌC DỊCH.
1/-
Bị ám thị với thành kiến chết:
a/- Âm là Tiểu nhân.
b/- Dương là Quân tử.
Từ đó khai triển một chiều. Thực ra:
*/- Lý có trước trời-đất, phân khí phát dục
vạn-vật. Khí có Âm-Dương, tuy có hai danh nhưng cùng một khí.
-/- Âm khí lưu hành là
Dương, Dương khí ngưng tụ là Âm, chúng phải có tương-đối vậy. “Âm dương không
phải là 2 mà nó vốn là một. Nhưng có 2 tên gọi là do nơi nó ở trạng thái động
hay tỉnh mà thôi”.
-/- Dương thoái Âm sinh,
Âm trưởng Dương sinh.
*/- Âm không phải chỉ có
lạnh tối mà cũng có Dương sáng và ngược lại.
Âm-Dương tương sinh-hóa có thanh-trược
lẫn-lộn.
*/- Người, vật sinh cùng
một Lý.
Khí Tụ là sống, khí tán là chết.
Khí tụ vào đó, Lý mệnh vào đó.
2/- Học qua ý kiến và lý
luận của người trước
mà thiếu BIỆN CHỨNG với trình độ với dân trí và hoàn cảnh văn minh hiện tại… không
vượt lên từ bệ phóng tư tưởng người trước. Không hiểu rằng văn bút người trước
như chiếc bè, ta nhờ đó mà qua sông. Qua sông rồi thì để bè lại đó ai có dùng
thì dùng, chớ đừng có dại mà vác bè lên vai.
Thời kỳ của cung tên khi mủi tên khi bắn ra
khỏi cây cung thì người bắn không có cách chi lèo lái mủi tên theo ý muốn của
mình nữa. “Nó phải đi cho hết đoạn đường cho dù là vô vọng và lỗi thời… vì cái
mục đích mà nó nhắm tới đã chuyển dịch…”
Nhưng đến thời kỳ của tên lửa hành trình thì
một tên lửa khi ra khỏi bệ phóng trung tâm vẫn còn nắm quyền điều khiển tên lửa
như thường.
Thời dùng đèn điện để thắp sáng phải khác với
thời dùng đèn dầu thắp sáng… Thời đã khác mà nếu không nhận ra để có cách tiếp
cận thích hợp thì người học dịch không khác người bị bệnh giáo điều vậy.
Dịch học xuất hiện từ thời kỳ văn minh nông
nghiệp đến văn minh công nghiệp thì đã khác.
Chuyển sang văn minh điện tử và vi điện tử tất
nhiên cũng phải khác. Và khi hướng đến văn minh tâm linh thì dich học cần có
những bước chuyển mình mới rất linh hoạt thì mới đáp ứng thoả đáng nhu cầu học
dịch trong nhân thế.
3/- Trang Tử có câu chuyện ý vị là người đời
thường dùng rơm rạ để tạo nên những hình tượng Thánh, Thần… khi có các cuộc tế lễ. Khi chưa tế hay đang tế
thì kính trọng vô cùng, ai mà chạm đến các hình tượng ấy thì lôi thôi to. Nhưng
khi đã tế lễ xong rồi thì những hình tượng ấy phải đem vứt bỏ, có người thấy vậy
đem về làm gối nằm nên bị “mộc hãm”.
“Xem nguyên lý thứ 4: Chữ Thời. Trọng khinh là
do cái Thời mà ra vậy”.
TAM KỲ
MINH LÝ DỊCH HỌC.
“… Đắc văn
sách thông Thiên định Địa…
...Cung tận thức thần thông biến hóa...”
Học Dịch là học về lẽ biến thiên của Kiền Khôn.
Học Dịch thì mới quán triệt cái Lý của Kiền
Khôn.
Kiền Khôn là do Âm Dương vận hành mà có.
Vạn vật nói chung trong đó có con người cũng do
Âm Dương kết tạo, nên học dịch thì cũng
quán thông được thế tình và tánh đức chính mình và bạn đồng sanh.
Thường nhân thuận đó mà an sinh.
Thánh nhân thừa ngự đó mà vận hành.
LỚN THAY
DỊCH HỌC.
Gượng gạo mà định rằng:
KIỀN: là tượng Trời (Tượng Vua- Tượng Chủ).
KHÔN: là tượng Đất (Tượng Thừa Tướng- thi hành)
KIỀN KHÔN: là tượng cho ĐẠI ĐẠO.
HỘI CẢ Ý: Sáng tạo- Trưởng dưỡng- Bảo tồn.
Dịch: Dĩ Thiên Đạo, Minh Nhân Sự.
1/- Tuỳ theo từng thời kỳ, tuỳ theo sự tiến hoá,
tuỳ vào sự hiểu biết của nhân sinh, của các chủng tộc, của các sắc tộc trên thế
giới mà vận dụng Dịch Lý ĐỒ THIÊN hầu
ứng dụng phù hợp cho nhân thế trong tiến trình canh tân:
- Tôn Giáo.
- Xã hội.
- Khoa học.
Đừng cố chấp và bó cụm trong câu chữ của kinh
điển, hay giáo lý theo ý riêng mình mà phải hiểu được chân lý của giáo lý thì
mới thông được đạo lý. Đạo lý là cái lý nào để chính mình
hiểu được đạo. Nền giáo huấn Cao Đài hướng tới khai mở lương tâm của chính mỗi
người. Mỗi người phải mở cửa Hiệp Thiên của chính mình để bước vào trường học
của Trời.
2/- Sau thời gian mà sát đúng mức thì:
- Từng người đã rõ bản lai diện mục. (Cái bản
tánh đặc trưng của chính mình- Bi Trí Dũng …)
- Căn cứ vào đó mà bổ túc phần khiếm khuyết để
trở thành hữu dụng (Cung Lập Khuyết tìm
duyên định ngự. Lãnh Kim Sa đặng dự như lai…).
Phải tâm niệm rằng Dịch Lý Đồ Thiên được bố trí
ở Bát Quái Đài Toà Thánh Tây Ninh là chuẩn mực để học hỏi trong buổi Tam Kỳ.
THỜI NẦY
LÀ CỦA DỊCH HỌC ĐỒ THIÊN.
Dịch Học Đồ Thiên mới là cái chính còn Dịch học
Tiên Thiên hay Hậu Thiên ngày nay chỉ còn giá trị tham khảo vì cái thời đã qua
rồi.
HẬU TẤN
HỌC DỊCH PHẢI HIỂU:
“Vùng thoại khí bát hồn vận
chuyển,
Tạo Hóa Thiên sanh biến vô cùng”.
1/-Âm
Dương là 2 mặt của một vấn đề.
2/- Mỗi vấn đề đều có 2 mặt khác nhau.
3/- Toàn quái trong Kinh Dịch thể hiện một vấn đề hay một hoàn
cảnh xã hội.
4/- Vị trí của hào là vị trí của nhân tố trong hoàn cảnh.
5/- Xác định vị trí của Âm Dương phải đối chiếu vào vấn đề và
hoàn cảnh. Thí dụ như bậc thang số 3 thì cao hơn bậc thang số 2 nhưng lại thấp
hơn bậc thang số 4. Như thế tạm cho nó là dương đối với 2 nhưng chính nó cũng
là âm đối với 3.
6/- (64) quẻ và hào thể hiện:
- Nhiều nhân tố trong cùng một vấn đề và hoàn
cảnh. Thí dụ: nhiều người (nhân tố) cùng tham gia vào một kỳ thi (hoàn cảnh).
Trong các nhân tố cùng tham gia đó cơ trí khác nhau, chuyên cần cũng khác nhau
nên ứng xữ khác nhau, kết cấu khác nhau dẫn đến kết quả cũng có thể khác nhau (kẻ
đậu người rớt) hay có thể giống nhau (cùng là người đậu hay cùng là người rớt).
- Một nhân tố trong nhiều (64) vấn đề và hoàn
cảnh. Thí dụ: Một cá nhân lúc mới nhập học hay lúc học tiểu học, trung học, rồi
đại học, học với Thầy học với bạn, học môn văn, môn toán, môn vật lý, hoá học
hay vào học nghề…
Tóm lại:
Nhân loại đã trải qua 3 nền văn minh:
-
Văn
minh nông nghiệp.
-
Văn
minh công nghiệp.
-
Văn
minh điện tử và vi điện tử.
Hiện đang bước vào nền văn minh mới: Văn minh
tâm linh hay là Văn minh Cao Đài Giáo.
Nên xét trên thực tiển hiện nay thì:
-
Trình
độ Khoa Học Kỷ Thuật đã khác.
-
Trình
độ tổ chức xã hội đã khác.
Vậy thì Tam Kỳ Phổ Độ (Tôn giáo) cũng phải khác
với 2 thời kỳ trước.
Do đó những điểm cơ bản về Bát Quái qua 2 thời
kỳ phổ độ và 3 nền văn minh đã qua thì được dùng lại như tên hay số các quẻ…
nhưng không thể dùng kiến thức và quan niệm nguyên xi thời đó để bê vào mà vận
dụng cho một thế giới đại đồng hay là thời đại
toàn cầu hoá ngày nay đựơc.
Một sự khiên cưỡng, gò ép như thế chỉ làm cho
người học bị ức chế và lánh xa dịch học mà thôi. Do vậy phải có một Bát Quái mới ra đời đủ sức
để làm:
-
Binh
Thư Chiến Pháp.
-
Kinh
Thư Chiến lược.
Giúp cho nhân thế xây dựng xã hội mới tương
thích với trình độ nhân loại cũng như hướng dẫn nhân thế xây dựng cuộc sống hoà
bình hạnh phúc.
Bát Quái mới đó được trình bày tại Bát Quái Đài
Toà Thánh Tây Ninh với tên gọi BQĐT.
Tóm lược trên là hành trang đi vào học DỊCH LÝ
ĐỒ THIÊN đã được bố trí tại Bát Quái Đài T T T N (…Hội Thánh Minh giao sách Trường Xuân…)
Đem kiến văn từ nền Văn Minh Nông Nghiệp sang
nền Văn Minh Công Nghiệp rồi đến Văn Minh Điện Tử và Vi Điện Tử là đã gượng gạo
và hụt hơi cho nên dịch học đã xa lạ với môi trường giáo huấn.
Chuẩn bị cho nền Văn Minh Tâm Linh thì BQĐT ra
đời. Dịch Lý Đồ Thiên sẽ giúp nhân loại canh tân dân trí hiểu được: Con người
từ đâu tới; tới để làm gì và tới rồi đi về đâu?
Hiểu được mình thì cũng hiểu được xã hội mình
đang sống đang ở vị trí nào và sẽ đi đến đâu về đâu, nghĩa là hiểu được cái
chơn lý của đời người…
CÁCH GHI NHỚ 64 QUẺ.
“Nhờ Công Nghệ thông Tin”
Thường thì học đường ở bậc Trung Học ngày nay
không có dạy Dịch Học.
Bậc Đại Học có một số chuyên ngành dạy Dịch
Học. Nên đa số người đến với Dịch Học lúc đầu rất khó có khái niệm về điều mà
các quẻ hay hào đề cập đến.
Một trong những khó khăn của người học Dịch là
không nhớ chính xác tên các quẻ kép từ đó dẫn đến sự ngại ngùng khi tiếp cận
với dịch học.
Ngày nay với các phương tiện của Khoa học kỷ
thuật thì việc nhớ tên các quẻ dịch trở nên dễ dàng hơn rất nhiều.
Một trong những phương tiện mà nhiều người ngày
nay thường dùng là Điện Thoại Di Động. Vậy
thì dùng ĐTDĐ giúp ta tìm tên của 64 quẻ là điều nên làm.
Công việc tiến hành như sau.
a/-Phải nhớ nằm lòng thứ tự các số của quẻ đơn
ở Tiên Thiên Bát Quái.
1: Càn (Vi Thiên). 2: Đoài (Vi Trạch). 3: Ly (Vi Hoả). 4: Chấn (Vi Lôi). 5: Tốn (Vi Phong). 6: Khảm (Vi Thuỷ). 7: Cấn (Vi Sơn). 8 : Khôn (Vi Địa).
Nhớ 8 qui ước trên thì dùng số để ghi rất tiện
lợi.
b/- Mã hoá các quẻ bằng
số:
Thí dụ:
Ghi: Đọc:
1/6: Tụng. Thiên Thuỷ Tụng.
1/7: Độn. Thiên Sơn Độn.
5/3: Gia Nhân Phong Hoả Gia Nhân.
5/7: Tiệm.
Phong Sơn Tiệm.
7/3:
Bí. Sơn Hoả
Bí
7/8: Bác. Sơn Địa Bác.
Cứ thế ta ghi hết những quẻ nào cần ghi.
Nếu thấy thích ta có thể ghi luôn số thứ tự của
Quẻ vào để biết quẻ có số thứ tự là bao nhiêu từ đó biết quẻ thuộc phần Thượng
Kinh hay Hạ kinh. (30+34=64)
Hẳn nhiên còn nhiều cách khác mà ở đây chúng
tôi chỉ giới thiệu một cách giúp các vị có ĐTDĐ yên tâm là khi mình cần
thì tra
ngay được tên gọi các quẻ…
ĐỐI CHIẾU MỘT VÀI THỰC TẾ.
“Dịch lý và khoa học”
Dịch lý Đồ Thiên biện giải rất rõ ràng:
Khoa học ngày nay định lịch cho một năm có 365
ngày (có dư ¼ nên 4 năm thì nhuận một ngày).
Trong một năm có: Hạ chí: nóng; Đông chí: lạnh
Ngoài ra còn có Xuân phân và Thu phân.
Một năm có 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Trong mùa lại có 8 tiết.
Theo quan niệm đạo học thì có 3 nguyên tố để
tạo nên vũ trụ là: Nước, Lửa, Gió. (Thuỷ, Hoả, Phong).
(Phân biệt với 4 nhân duyên hiệp tạo nên con
người là: Đất, Nước, Lửa, Gió. (Địa, Thuỷ, Hoả. Phong- Phật giáo gọi là tứ đại
giả hiệp).
Mà theo dịch số thì: “ một năm có 365 ngày”
3: Lửa. (Ly vi Hoả)
6: Nước.(Khãm vi Thuỷ)
5: Gió. (Tốn vi Phong).
Thái cực: Một năm. Năm có 12 tháng.
Giáo Lý Cao Đài thì số 12 là số riêng của Chí
Tôn.
Lưỡng Nghi: Tiết Hạ Chí (Nóng), Đông Chí (lạnh).
Tứ tượng: 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Bát quái: 8 tiết.
Còn số dư: ¼ ngày?
¼ ngày là biểu trưng Thái Dương trên Thái Âm (1:
Thái Dương; 4: Thái Âm).
Số 365 thể hiện cho lửa đốt nước tạo thành gió.
Gió mang sự sống cho muôn loài.
Gió là thần khí của tạo hoá để bảo vệ cho hành
tinh và định tinh. Khi chúng muốn ôm nhau thì xô ra, khi chúng xa nhau thì dìu
lại. Lúc nào cũng giữ mực cân đối theo đức thái hoà của vũ trụ. Sự vận hành của
tạo hoá đặt để giữa vũ trụ có thứ tự có kỷ cương nên dần dà nhân loại quan sát
và phát hiện ra.
(Khoa học. Định luật Vạn vật hấp dẫn của NewTon : Hai khối lượng m
và m’ cách nhau một khoản d thì chúng sẽ hút nhau bằng một lực F= mxm’/ d2)
Các nhận xét trên cho thấy Đạo học và Khoa học
có những điểm giao thoa rất cụ thể cho nên nền văn minh mà nhân loại hướng đến
phải có sự Trung Hoà giữa đạo học và khoa học.
- Đạo học nhờ khoa học mà bớt phần mê tín dị
đoan.
- Khoa học nhờ đạo học mà tăng thêm phần tín
ngưỡng.
*/- Một số ứng dụng của
Dịch học trong lãnh vực khoa học đã được nhiều nhà nghiên cứu biên soạn thành văn bút lưu hành trên thị
trường :
- Máy
tính như: từ 2 vạch liền: ___ (dương) và
đứt __ __ các nhà toán học dùng hai số 0 và 1 để xử lý…
- Còn một số khác cũng đã có biên soạn lưu hành trên
xã hội như: Dịch Học Tinh Hoa của Thu Giang Nguyễn Duy Cần hay một số sách dịch
của Nguyễn Hiến Lê chỉ xin giới thiệu mà không ghi lại nội dung./.