GIÁO LÝ PHỔ THÔNG
BÀI 7
GÓP
PHẦN HIỂU ĐÚNG.
“MỘT SỐ ẨN NGÔN CỦA ĐỨC HỘ PHÁP”.
Nhiều người trong chúng ta hẳn còn nhớ câu: MỌI
CON ĐƯỜNG ĐỀU DẪN VỀ LA MÃ. Câu nói trên có giá trị như thế nào?
Nếu xét trên nghĩa đen thì câu nói trên đây
chưa bao giờ đúng, sai ngay từ lúc nói ra…
nghĩa là hoàn toàn sai….
Nếu xét theo nghĩa ẩn ngôn thì câu nói ấy hẳn
nhiên phải có duyên cớ và đúng nên được xã hội chấp nhận và lưu truyền như một
danh ngôn….
Con đường trong câu nói trên hẳn nhiên không
phải là con đường bằng đất nơi làng xã hay là con đường tráng nhựa nơi quốc lộ
như mắt ta vẫn thấy.
Con đường ở đây là con đường của trí tuệ, của
tư tưởng và quyền lực.
Vậy
La Mã là gì? La Mã là tên của một quốc
gia. Thủ đô của La Mã khi xưa chính là
thủ đô của nước Ý ngày nay. Vào thời Đức Chúa Jésus giáng sinh thì La Mã là một
đế chế hùng mạnh… vùng đất Palestin nơi Chúa sinh ra là thuộc địa của La Mã…
Xét
về ý nghĩa câu nói trên có lẽ ra đời lúc:
La
Mã còn đang dẫn đầu tư tưởng một bộ phận của nhân loại trong thần quyền lẫn thế
quyền.
Hoặc
là lúc đế chế La Mã đã tàn lụi về quyền
lực nhưng nhân loại thấy được cái hay cái đẹp của nền văn hoá La Mã nên quay ra
học tập nền văn hoá ấy…
Trường
hợp nầy có thể là đế chế La Mã đã cáo chung về quyền lực nhưng quan niệm và
cách thức tổ chức xã hội pháp quyền hay các tác phẩm triết học, văn học, nghệ
thuật của họ còn lưu lại và chinh phục những kẻ thắng thế trên chiến trường
nhưng lại kém La Mã về văn hoá. (Chủ nghĩa phục hưng là một minh chứng).
Nền
văn hoá La Mã thì rực rỡ và hoành tráng… nhưng sự cáo chung của đế chế La Mã là nguyên nhân chính để chữ La
Mã trở thành TỬ NGỮ. Nghĩa là chữ La Mã vẫn còn nhưng không mấy ai xài đến nữa…
Tóm
lại câu nói trên thể hiện: La Mã là toạ độ gốc nên phải dùng đấy để định vị. (Thập niên 80 của
thế kỷ 20 ta còn nghe câu mọi con đường đều đến Mácxơcơva nhưng ngày nay hiếm
khi thấy
lưu hành…).
Người
có Đạo Cao Đài thường hay nghe nói lại
một số câu nói của Đức Hộ Pháp như:
-
Bình
Dương máu nhuộm…
-
Khu
Chà Là dành cho những người hai vợ.
-
Núi
Bà là rún biển.
Những câu nói nầy không nằm trong hệ thống văn
bản, nhưng thường là gắn liền với một câu chuyện hay giai thoại nào đấy rồi
những người nghe được lưu truyền, kế tiếp sự lưu truyền là sự lý giải theo
nhiều lãnh vực nhưng phần lớn chưa được biện giải… Hẳn nhiên cách hiểu về những
câu nói trên tuỳ vào nhận thức mỗi người nhưng có những cách nhận xét làm cho
nhiều người ngỡ ngàng…
Bài viết nầy nhằm góp phần hiểu đúng một số câu
nói của Đức Hộ Pháp. Muốn góp phần hiểu
đúng thiết tưởng phải nêu rõ cơ sở văn bút của tham luận…
Tiền đề cơ bản: Phải hiểu các câu nói trên ở
vào diện ẩn ngôn.
Đã xác định đó là những ẩn ngôn thì phải có ít
nhất 03 yếu tố để hiểu.
- TIẾNG AN NAM là chánh tự của Đạo Cao Đài nên
phải dùng đó ĐỂ LÀM CHÌA KHOÁ.
- Lấy luật lệ, kinh điển, giáo lý tôn giáo để
làm nội lực cho sáng tỏ.
- Liên hệ đến thời điểm câu nói ra đời.
A- BÌNH
DƯƠNG MÁU NHUỘM.
Nhiều
người hiểu rằng phải có những cuộc đổ máu kinh hồn trên Lộ Bình Dương Đạo.
Nguyên nhân xuất phát những đau thương ấy thì cũng có rất nhiều kiến giải nhưng
chúng tôi không chia xẽ những cách hiểu đó nên không ghi chép lại đây… Theo
thiễn nghĩ thì các cách hiểu như thế chưa phù hợp với đạo lý thời Tam Kỳ Phổ
Độ.
Chúng tôi xin phép trích dẫn một số văn bút để
cùng nhau suy nghĩ.
1/- Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
a/- Q1, T 79, bản in 1928:
…Thiên Thơ có đủ các máy hành tàng nhưng
THẦY vì thương các con mà phải sửa nét tân khổ ra đường lo liệu. Các con đặng
tự do mà hành biến cho xong việc…
Mở đạo kỳ nầy Thầy không cho đổ máu nữa…
Cái lẽ không cho đổ máu là vì trình độ văn minh
ngày nay đã khác với xưa rất nhiều; cuộc sống vật chất của nhơn loại ngày nay
khác với ngày xưa thì hẳn nhiên cuộc sống tinh thần cũng khác. Cái thời nhân
loại đun nấu bằng củi bằng than… di chuyển bằng sức kéo của gia súc… đã qua
rồi.
Các bài toán về chiến tranh, hoà bình, công
bằng, bác ái vẫn còn đó… chưa giải quyết xong nhưng cách thức giải quyết và mức
độ sâu rộng của bài toàn không còn như xưa nữa…
Xét về cơ chế các Tôn Giáo thời Nhị Kỳ Phổ Độ
đều xuất phát từ một cá nhân đề xướng nên chính cá nhân ấy là mục tiêu để cho
những người không đồng ý với các vị nhắm vào đấy mà triệt tiêu.
Còn cơ chế Tam Kỳ ngay từ đầu Chí Tôn đã lập ra
Hội Thánh cho nên sẽ không thể có chuyện đem cả một Hội Thánh ra để giết hại
hay là đóng đinh…
b/- Đức Chí Tôn dạy: Tình
thương là chìa khoá mở cửa Bạch Ngọc Kinh. Đền Thánh là biểu tượng cho đức
tin vô song cho tình thương, minh triết… và Lộ Bình Dương lại đi ngang qua Bao
Lơn Đài tại Toà Thánh… “Đoạn trong Nội Ô thì Lộ Bình Dương Đạo mang tên Phạm Hộ
Pháp” vậy thì không có lý gì trên một con đường có vị trí đặc biệt như thế lại
diễn ra cảnh núi xương sông máu… đầy đau khổ như thế…
2/- Kinh Xuất Hội:
Nhờ Chí Tôn dạy khôn lẽ Đạo
Phật, Thánh, Tiên nhỏ máu nhiệt thành.
Vạn linh đã hiệp Chí linh
Hội xong cậy sức công bình Thiêng Liêng…
Chúng ta ai cũng biết rằng Thần, Thánh, Tiên,
Phật là các Đấng vô hình… Các vị là người đã bỏ xác phàm, các vị không có phàm
thân như người nơi cõi trần… vậy thì Thần, Thánh, Tiên, Phật làm gì có máu… Đã không có máu thì câu Phật, Thánh, Tiên
nhỏ máu nhiệt thành…. Phải hiểu thế nào???
Phật, Thánh, Tiên trong trường hợp nầy là Phật,
Thánh, Tiên tại thế.
Tại sao dám hiểu là Phật, Thánh, Tiên
tại thế?
Bởi vì Kinh Nhập Hội câu 13-16:
… Đại Từ Phụ ra ơn dìu dẫn
Diệt trí phàm: hờn, giận, ghét, ganh
Để tâm dưới ánh Chí Linh
Soi tường chơn lý chỉ rành chánh văn…
Có nhập hội rồi mới có xuất hội mà nhập hội thì
đã Diệt trí phàm: hờn, giận, ghét, ganh ấy là diệt cái trí phàm để còn
lại cái tâm thánh khi nhập hội, có tâm thánh mới tìm ra chánh lý ẩn chứa bên
trong văn bản hay sự việc… tâm thánh thể hiện qua tâm huyết và cân não đó là cơ
sở để hiểu Phật, Thánh, Tiên tại thế mới phù hợp với việc nhỏ máu
nhiệt thành….
Trong Lễ rước Chư Thánh đáo tân niên năm Nhâm
Thìn (1952) Đức Hộ Pháp có giảng: Bần Đạo
nói thật chúng ta sống là do cái hồn mà sống chớ cái xác là vật tạm để để chúng
ta mượn đặng trả quả kiếp đó thôi. Còn
các bạn chúng ta nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống có hồn mà không xác là vì họ đã
thoát kiếp trần rồi….
Có Soi tường chơn lý chỉ rành chánh văn…
thì hành động mới có được kết quả.
Còn như dốt nát công với nhiệt tình mà không
gặp được bậc lãnh đạo đấy đủ đức độ và tài năng dìu dẫn thì biến thành kẻ phá
hoại mà thôi…
Thực tế thì Đức Hộ Pháp trong lần Hội Nhơn Sanh
năm Đinh Sửu (1937) cũng như một số lần khác, đã than thở rất nhiều về năng lực
của Chức Sắc Thiên Phong, nhưng do nơi có được một tầng lớp lãnh đạo cực kỳ
sáng suốt nên cơ Đạo tại Tổ Đình đã có những thành tựu hết sức rực rỡ… nhưng
đến khi tầng lớp lãnh đạo ấy rời bỏ quán
tục trần ai thì các vị còn lại không thể bỉnh cán công việc, nên lần hồi lộ ra những sút kém từ trong nội lực… (Chừng nào Chi Pháp đã ra đi; Lúc ấy Đạo Trời
gặp vận suy…)
3/- Lời thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp.
Đạo Cao
Đài là hườn thuốc phục sinh hoà bình của nhơn loại.
Thầy cấm hẳn sự ghét nhau…
Vậy hiểu chữ Bình Dương máu nhuộm theo cách
giản đơn là máu chảy thành sông xương chất thành núi là quyền tự do suy đoán và
tìm hiểu của mỗi người nhưng chúng tôi thì không chia sẻ…
4/-
Sở hành Đức Hộ Pháp:
Năm 1954 đất nước Việt Nam đang đứng trước hiểm
hoạ chia đôi hai miền Nam và Bắc. Tín đồ Cao Đài nói riêng và đồng bào cả nước
nói chung đã lên tiếng tha thiết không muốn cảnh một dân tộc lại bị phân
đôi. Đức Ngài thể hiện ý chí đoàn kết ấy
bằng hành động nên đã đích thân sang Pháp rồi đến Genèvre để kêu gọi các nhà
lãnh đạo chánh trị tôn trọng ý muốn của người Việt Nam nhưng lời kêu gọi ấy
không mang lại kết quả và sau đó Ngài sang Miên Quốc để không bị bất cứ thế lực
chánh trị nào lợi dụng… “Khuất mắt không
nhìn nước rẽ hai…”
Trong cơ vay trả cho sạch vết oan khiên của
nhân loại thì những chuyện xảy ra không thể đoán định nổi… nhưng trên vùng
Thánh Địa của một Tôn giáo chủ trương dùng bác ái và công bằng để giải quyết
mọi tương tranh thì lẽ nào lại có cảnh tang thương đến như vậy xãy ra? Như thế
câu “Bình Dương Máu Nhuộm” phải hiểu thế nào?
Bình là nét ngang.
Dương là nét đứng.
Bình Dương thể hiện cho sự hội tụ của âm dương
nghĩa là Đạo.
Máu màu đỏ thể hiện cho sự dũng cảm…
Máu thể hiện cho tâm huyết và cân não…
Nhuộm thể hiện cho sự thay đổi.
Nghĩa là: Muốn thay đổi con người và xã hội
phải để hết cân não vào con đường đạo đức, và đạo đức thể hiện qua hành động mà
muốn hành động thì phải có sự dứt khoát và dũng cảm. Chỉ có Đạo mới thay đổi
được con người và xã hội.
Bình còn
có nghĩa là công bình, bình đẳng là trung dung mà muốn những điều đó thì phải
để hết cân não tâm huyết vào đó để học đạo để thay đổi chính mình và hành đạo
để xây dựng nên một thế giới mới thay đổi cho thế giới nặng về vật chất. (Bình
trong HOÀ BÌNH CHUNG SỐNG…trong NAM BÌNH VƯƠNG PHẬT Dương: xiễn dương, phất lên… cũng là trong ẩn ngôn…)
Trong cái THỂ của Thái Cực có âm có
dương “Nhứt âm, nhứt dương chi vị đạo
- Bình” nhưng Chí Tôn DỤNG cái Dương quang ấm áp để tạo cơ
hoá sanh… nơi nào ánh linh quang của Chí Tôn chưa chiếu giám đến thì phải còn
tối tăm mờ mịt, chẳng sanh, chẳng hoá…
Vậy Bình Dương trong nghĩa trên là đem sự sống
đến cho chúng sanh… mà muốn làm điều đó thì phải để hết tâm huyết, cân não vào
học đạo để làm cuộc cách mạng bản thân mình “chánh kỷ” và góp phần vào công
cuộc xây dựng một xã hội “hoá nhơn” trên nền tảng bác ái và công bằng…
Xin trích một câu Thánh ngôn để minh hoạ cho
phần nào ý nghĩa của câu Bình Dương máu nhuộn:
…Vào nơi đạo đức rồi, dầu cho phải cắt ái ly
gia, chia tình xẽ nghĩa, máu thịt đoạn ly, mà làm cho tròn trách nhiệm xứng
đáng của mình, để hiến thân chuộc sanh mạng cho muôn ngàn kẻ đồng bào, thì cái
đau đớn thường tình, sự khổ tâm ở thế kia, đau khổ nào có tiếc… TNHT Q2, T
78.
Tóm lại: Bình Dương máu nhuộm hiểu theo nghĩa
của máu chảy thành sông, xương chất thành núi… hay hiểu theo nghĩa phân tích và
nhận định xuất phát từ những cơ sở trên đều tuỳ vào ý thức mỗi người. Đó là
quyền tự do mà Thầy đã ban cho không ai có thể tước đoạt được. Cách hiểu nào cũng đều thể hiện tấm lòng và
trình độ nhận thức của mỗi người. Chỉ có nhận thức hay hiểu biết của chính mình
mới thay đổi được mình một cách hiệu quả.
*/- Khi ngồi đọc
lại bài viết nầy thì chính quyền tỉnh Tây Ninh đã đổi tên đường Lộ Bình Dương
Đạo thành Điện Biên Phủ. Đó là một địa danh đầy xương máu của đồng bào Việt
Nam, là nơi mà chính quyền cộng sản đã dùng chiến thuật biển người để chiến
thắng và làm bàn đạp để chia đôi đất nước, chia đôi dân tộc. Đó cũng là một ý
nghĩa thiết thực của ẩn ngôn Bình Dương máu nhuộm.
B/- KHU CHÀ LÀ DÀNH CHO NHỮNG NGƯỜI HAI VỢ.
Khi nghe một số đàn anh cho biết đấy là câu nói
của Đức Hộ Pháp đã dấy lên trong lòng chúng tôi bao nỗi hoài nghi.
Tôi tìm hỏi các vị lão thành thì các vị cũng
xác định đấy là câu nói của Đức Hộ Pháp còn nói trong dịp nào thì các vị cũng
không xác định được.
Chúng Tôi xem lại Tân Luật, phần Thế Luật, điều
thứ chín qui định:
Cấm người trong Đạo từ ngày ban hành luật nầy
về sau không được cưới hầu thiếp. Rủi có chích lẻ giữa đường thì được chấp nối.
Thảng như phụ nữ kia không con nối hậu thì Thầy
cũng rộng cho đặng phép cưới hầu thiếp, song chính mình chánh thê đứng cưới mới
đặng.
Qua nội dung trên các vị đều đồng ý rằng Đạo
Cao Đài không chủ trương đa thê, không cho phép đa thê… vậy thì câu nói trên
hiểu theo nghĩa đen là hoàn toàn không phù hợp với Tân Luật.
Đức Hộ Pháp là người tham gia vào việc biên
soạn Tân Luật.
Trong trách nhiệm Hộ Pháp thì Ngài là người có
nhiệm vụ nắm trọn cả Luật Đạo và Luật Đời. Vậy thì lẽ nào Ngài lại ưu ái cho
thành phần vi phạm Tân Luật có được một khu riêng biệt như thế.
Trong Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống và trong
một số văn bút khác Ngài cũng đều khuyên mọi người phải đối xử công bằng, tôn
trọng người bạn hôn phối của mình. Đấy là cộng tác viên của mình trên đường đời
gió bụi chớ không phải là oan gia tội báo. Ngài chưa hề có một văn bút nào ưu
ái cho người đa thê.
Vậy câu trên phải hiểu như thế nào cho đạt được
yêu cầu: thực tế, không khiên cưỡng và
phù hợp với pháp luật Tôn giáo Cao Đài.
Thông thường ta vẫn nghe câu: Một cảnh hai quê hay Một kiễng hai quê. (có người bảo là huê
có nghĩa là “Bông” … nhưng mục đích của chúng tôi không nhằm truy nguyên nguồn
gốc của câu nói… mà chỉ đề cập đến ý nghĩa mà xã hội đang dùng mà thôi.
Trong hiện dụng thì câu nói trên dùng cho các
trường hợp sau:
Một người nhưng có nhiều chuyện phải lo…
Một người có hai vợ…
Một người có hai quê hương…
Vậy thì câu nói: KHU CHÀ LÀ DÀNH CHO NHỮNG
NGƯỜI HAI VỢ được hiểu là khu đất mà Tôn Giáo Cao Đài dành cho những người có
hai quốc tịch hoặc đa quốc tịch hay những người có liên quan đến yếu tố nước
ngoài sinh sống.
Trong buổi sơ khai của Tôn Giáo Cao Đài thì
người Đạo đã biết là có qui hoạch tổng thể Châu Thành Thánh Địa 40 cây số vuông
“Châu Thành Thượng”.
Nhưng ý nghĩa cụ thể của 40 cây số vuông như
thế nào, Toạ độ gốc ở đâu… thì chưa khai triển cho Tín Đồ được rõ…
Trong qui hoạch 40 cây số vuông ấy Tôn giáo
dành một khu vực cho người có yếu tố nước ngoài đến sinh sống riêng biệt để học
đạo nhưng vì thời cuộc chưa thể nói trắng ra được… mặc khác cũng không thể
không nói ra cho nên Đức Ngài phải nói bằng cách ẩn ngôn ấy cũng là một cách
thức để chuẩn bị cho thế hệ đi sau vậy.
C/- NÚI BÀ LÀ RÚN
BIỂN.
Đây có lẽ là một câu nói của Đức Hộ Pháp đã bị
rất nhiều vị có kiến thức về địa lý không đồng ý; sự không đồng ý ấy hẳn nhiên
đã được căn cứ vào những kiến thức từ sách giáo khoa hay những công trình
nghiên cứu khoa học rất bài bản… nhưng cũng có người biện hộ rằng:
Ngài nói NÚI BÀ LÀ RÚN BIỂN cho thời khai thiên
lập địa.
Ngài nói NÚI BÀ LÀ RÚN BIỂN cho thời gian rất
lâu sau nầy.
Theo thiễn nghĩ nếu hiểu theo nghĩa đen thì đem
quá khứ hay là tương lai để giải thích cho câu nói trên đều là khiên cưỡng và
chưa thể biện chứng được cho nên thiếu sức thuyết phục. Vậy thì vấn đề ở đâu?
Khi Đức Hộ Pháp tạo tác Trí Huệ Cung Ngài có
nói. Trí Huệ Cung là nơi dành riêng cho Phái Nữ. Còn nơi dành riêng cho Nam
Phái là Vạn Pháp Cung “VPC”. Vậy Vạn Pháp Cung ở đâu?
Ngài đã xác định rõ: VPC nằm trong khu vực chân
Núi Bà.
(Từ Thị Xã chạy vào hướng cổng khu du lịch Núi
Bà thì bên trái có bãi giữ xe. Trước khi đến khuôn viên bãi giữ xe có một con
đường nhỏ. Đi men theo theo đường đó đến vòng phía sau bãi xe thì có một số nhà
Sở Lương Điền của Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Ngay sau hàng rào bãi cỏ nơi
thờ Đức Phật Mẫu, đi một chút nữa thì đến Anh Linh Miếu đi tiếp thì có lối lên
Hang Gạo, Hàm Rồng… Trước khi đến Hàm Rồng thì gặp địa điểm mà Đức Hộ Pháp chọn
để xây dựng Vạn Pháp Cung… Nơi đó chưa xây dựng nhưng vẫn có rất nhiều người
đến thắp hương cầu nguyện…)
VPC là gì? VPC là nơi hiền sĩ Tôn
Giáo Cao Đài học tập và nghiên cứu để cung ứng hàng ngàn, hàng vạn phương pháp
giúp cho Tôn giáo xây dựng cá nhân, tôn giáo và xã hội.
Tầm vóc của Cung Vạn Pháp được xác định trong
Kinh Đệ Lục Cửu.
Bạch Y Quan mở đường rước khách,
Cõi Kim Thiên nhẹ tách Tiên xa.
Vào
Cung Vạn Pháp xem qua,
Cho
tường cựu nghiệp mấy toà thiên nhiên…
Theo
truyền thuyết Vua Hạ Võ trị thuỷ ở sông Hoàng Hà thấy Linh Qui từ dưới nước
hiện lên trên lưng có chín chữ: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ và Xuân, Hạ, Thu,
Đông. Nhà vua dụng đấy chế tác Lạc Thư
và định ra sách lược an dân.
(Núi Bà trong như
một con linh qui, ảnh internet)
Xét
về hình thể Núi Bà: Đứng từ Toà Thánh nhìn vào thì
Núi Bà có hình thế của một con Linh Qui. Đến khi lòng Hồ Dầu Tiếng được xây
dựng thì Núi Bà giống như truyền thuyết Linh Qui từ dưới nước hiện lên để hiến dâng sách lược… Nhưng trong thời Tam Kỳ Linh Qui không dâng
cho một người nữa mà dâng cho hàng trăm hàng nghìn hiền sĩ có lòng phụng sự nhân loại theo Tôn
Chỉ Cao Đài Giáo. “Sách lược thì dùng
cho cả nhân loại trong hoàn vũ”… cho nên các vị về VPC
để hoàn thành sở học, hoàn thành
giáo án, sử chương, hoàn thành sự nghiệp… trên bước đường hoằng dương
đạo pháp phổ độ chúng sanh… VPC là một
trong những trung tâm cung ứng kiến thức
cho nhân loại. Bước chân nhân loại phải tầm về vạn pháp, tư tưởng nhân loại
phải hướng về vạn pháp… Xã hội là biển trần khổ và VPC là cái rún của xã hội
chính là cái rún của Biển Trần khổ vậy.
Vạn
Pháp Cung lại gắn liền với Núi Bà vậy thì ý nghĩa câu nói NÚI BÀ LÀ RÚN BIỂN
của Đức Ngài chính là lời giới thiệu tầm quan trọng của Vạn Pháp Cung cho hậu tấn. Tham luận qua
tiếng An Nam còn có thể hiểu thêm:
Núi
thể hiện cho trí tuệ. Bà thể hiện cho âm
tính.
Rún nói lên Trung Tâm. Biển là xã hội. “Biển Trần Khổ”.
NÚI BÀ LÀ RÚN BIỂN:
- Xét về phương diện xử kỷ còn có thể hiểu là:
Người có trí tuệ mà biết khiêm cung thì được người đời mếm mộ… đó là cung cách:
Tri kỳ Hùng, thủ kỳ Thư “Biết như con
trống, sống như con mái” mà Đạo Đức Kinh đề cập đến vậy.
- Trong một ước định xa hơn thì: Vạn Pháp Cung
là trung tâm nghiên cứu, trung tâm văn hóa tại Núi Bà. Người có Đạo
Cao Đài thường hay truyền tụng về 40 cây số vuông… vậy toạ độ gốc của 40 cây số
vuông ấy ở đâu? Có phải câu nói của Đức Ngài cũng còn mang ẩn ý rằng: Vạn Pháp
Cung chính là Toạ độ gốc của 40 cây số vuông chăng? Dù sao đây cũng là một nghi
vấn có cơ sở ít nhiều.
Ngay từ lúc khai sinh thì Đạo Cao Đài luôn luôn
ở trong tầm ngắm của cường quyền… tầm vóc của Tôn giáo là cả thế giới và nhiệm
vụ của Đức Hộ Pháp lại rất nặng nề… nói thẳng ra là tạo điều kiện cho kẻ nghịch
làm khó… cho nên phải dùng ẩn ngôn để ngầm báo cho thế hệ mai
sau./.