Trang

Thứ Sáu, 17 tháng 1, 2020

3058. CÔNG THƯC DÂN CHỦ CAO ĐAI GIÁO (tt4)


Năm 2006 Tôi soạn quyển CÔNG THỨC DÂN CHỦ CAO ĐÀI GIÁO có đăng trên trang web chonphapcaodai.net, Nay xin đăng lại theo đề nghị bạn đọc. Hội Thánh chưa kiểm duyệt, khi đọc xin cẩn thận. Dương Xuân Lương (N.O.P)

BÀI 5.
CÔNG THỨC DÂN CHỦ.
CAO ĐÀI GIÁO.

“Lập Quyền Nhơn Loại - Dân Mạnh”

Trên thế giới hiện nay cho dù là một quốc gia đã công nghiệp hoá, hiện đại hoá hay còn chậm phát triển về các mặt kinh tế, giáo dục, khoa học kỷ thuật… đang tìm hướng đi thích hợp để phát triển… thì vẫn có hai vế chính chi phối cuộc sống người dân, chi phối quốc thể là:
- Tôn Giáo và Xã hội hay Đạo và Đời (vật chất và tinh thần).
Đạo hay Tôn giáo luôn luôn đồng hành với cuộc sống. Cho dù là thị dân ở những thành phố lớn, những cuộc chơi lớn với qui mô hoành tráng hay là nông dân, ngư dân, nơi làng mạc hẻo lánh xa xôi tận nơi chân trời góc biển cách biệt với thế giới phồn hoa, đâu đâu cũng có dấu ấn hay là ảnh hưởng Tôn giáo.


Có nhân loại là có tôn giáo. Tôn giáo gắn liền với bản chất nhân sinh là điều đã hiển nhiên. Nó hiển nhiên như một con người hiện sinh trong hoàn vũ phải có sự kết hợp của tinh cha huyết mẹ; đồng thời thọ nhận âm dương chi khí để nên hình. (1)
Dấu ấn tôn giáo có thể sâu đậm hay mơ hồ, rõ ràng hay tiềm ẩn, tuỳ vào hoàn cảnh và giai đoạn.
Một Đảng phái, một Tập thể có thể tuyên bố mình vô thần nhưng quan sát từng cá nhân trong Đảng phái hay Tập thể đó ta vẫn thấy dấu ấn của Tôn giáo. (Tôn nghiêm và Giáo dục).
Trong xã hội đương thời thì cho dù ở đâu, thành phần nào con người luôn luôn muốn có hoà bình, dân chủ, tự do… như là điều kiện là môi trường là tài nguyên trong cuộc sống.
Từ xa xưa cho đến hiện đại con người luôn luôn muốn xây dựng một xã hội có tình thương và công bằng.
Giáo lý Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hướng dẫn nhân loại xây dựng một Thế Giới Đại Đồng trên nền tảng Bác Ái Công Bằng.
Tôn Giáo Cao Đài đưa ra công thức xây dựng Thế Giới Đại Đồng về mặt Đời là:
Cao Thượng Chí Tôn Đại Đạo Hoà Bình Dân Chủ Mục.
Đài Tiền Sùng Bái Tam Kỳ Cộng Hưởng Tự Do Quyền.
Những danh từ: Hoà Bình; Dân Chủ; Tự Do… đã lưu hành từ trước ngày khai đạo hằng mấy thế kỷ. Ngày nay nó vẫn còn là tiêu chí mà nhân loại đang hướng đến, đang tranh đấu để đạt cho kỳ được.
Cao Đài Giáo cũng dùng các từ Hoà Bình; Dân Chủ; Tự Do… để nêu lên mục tiêu xây dựng Thế Giới Đại Đồng… Về mặt xã hội hậu tấn học đạo nhận thấy:
- Các quốc gia đã tốn không biết bao nhiêu sinh mạng bao nhiêu là xương máu, bao nhiêu nước mắt của nhiều thế hệ để xây dựng Hoà Bình, Dân Chủ, Tự Do mà cho đến nay các mục tiêu trên hãy còn xa vời vợi.
- Các bậc hiền triết, các nhà lãnh đạo chính trị, các nhà cách mạng xã hội chân chính qua mọi thời đại từ khắp nơi trên thế giới đã lao tâm khổ trí, đã hy sinh cả đời mình để hành động và truyền lữa lại cho đời sau mà mục tiêu xem ra vẫn còn như là hoang tưởng, mộng mị giữa thế giới đầy chiến tranh, bạo lực và áp bức ngày một đa dạng, một tinh vi…
- Hoà Bình; Dân Chủ; Tự Do như một đường chân trời mà con người càng vươn tới thì đường chân trời ấy càng lùi xa.
Hiện nay biết bao người đồng ý rằng các danh từ ấy ra đời là để ghi nhận lại ước mong có thực từ lâu và vẫn đang tồn tại trong lòng nhân loại.
Nếu nói Ý DÂN LÀ Ý TRỜI thì tại sao một mong muốn của dân rất chính đáng, rất thiết tha và có từ rất lâu đời lại không thực hiện được.
Ngày nay Đấng Chí Tôn cũng dùng những chữ Hoà Bình, Dân Chủ, Tự Do để hướng huấn môn sinh; vậy thì nội dung những danh từ nầy có gì mới hay chăng?
Nghĩa là có nêu ra cách thức nào để thực hiện hay không? Nếu có thì cách thức ấy là gì?
Văn bút lưu hành ghi nhận có 3 yếu tố để thành công là: Thiên Thời; Địa Lợi; Nhân Hoà.
Vậy thì trong ngần ấy thời gian chẳng lẽ không lúc nào có đủ 3 yếu tố: Thiên Thời; Địa Lợi; Nhân Hoà hội tụ hay sao mà không thực hiện được.
Nói một cách biện chứng thì: Hoà Bình; Dân Chủ; Tự Do là nguyện vọng tuyệt đại đa số; thành phần đối trọng với nguyện vọng trên đương nhiên chỉ là thiểu số.
Vậy thì thiểu số đã thắng đa số.
Nguyện vọng của đa số và có lẽ phải mà vẫn không thực hiện được.
Lẽ phải và đa số đang chịu thua thiểu số và không có lẽ phải.
Đó là một thực tế hiển nhiên đầy đau đớn đã và đang diễn ra mà không có nhà hùng biện nào trong xã hội phủ nhận nổi. Không có một nhà Tôn Giáo nào giảng về Luật Nhân Quả có thể làm cho phần người biết suy nghĩ trong nhân loại thôi thắc mắc trong lòng về nghịch lý nầy.
Người theo khuynh hướng nhân văn tín ngưỡng không dễ dàng đầu hàng, không chấp nhận sự nghịch lý nầy và phải chấp nhận truy tìm. Họ tin rằng nhân loại đặt ra vấn đề gì thì nhân loại sẽ có khả năng giải quyết vấn đề đó.
Vậy thì nguyên nhân của sự nghịch lý nầy ở đâu?
Muốn truy tìm nguyên nhân theo thiễn nghĩ là phải xét lại công thức xem còn chưa hoàn hảo ở điểm nào mà việc làm bấy lâu nay lại không đạt đến kết quả như mong đợi.
Nguyện vọng là chánh đáng; nhưng phải chăng công thức để tìm kiếm và thực thi Hoà Bình; Dân Chủ; Tự Do…đã không hoàn hảo, đã nhầm lẩn yếu tố nào đó.
Nói theo toán học thì do nơi công thức sai nên đã dẫn đến một kết quả sai; và sẽ còn sai. Đấy là điều tất yếu. (Mệnh đề sai …kết quả sai.)
Ai cũng biết và thấm thía rằng: Thiên thời không bằng địa lợi; địa lợi không bằng nhơn hoà. Mà hằng triệu triệu trái tim trong một nước muốn; hằng tỷ tỷ người trên hành tinh nầy muốn vẫn không thể thành hiện thực.
Nhân loại vẫn đang còn tiếp tục dùng sinh mạng; xương máu; nước mắt; và cân não để đấu tranh và hy vọng sẽ đạt được nguyện vọng chính đáng trên cho thế hệ mai sau. Hy vọng như thế từ bao thế hệ rồi mà vẫn hoàn toàn vô vọng nếu không muốn nói là tuyệt vọng vì đang truy tìm trong ngõ cụt…
Thế hệ chúng ta đã chứng kiến các thế hệ đàn anh hy sinh cho thế hệ hôm nay. Nhưng thế hệ hôm nay vẫn còn nguyên các vấn đề mà thế hệ đàn anh đã hy sinh để giải quyết nếu không muốn nói là trầm trọng hơn.
Như thế câu: Ý dân là ý trời có đúng hay không? có phải là chân lý hay không?
Giáo lý Cao Đài cho hậu tấn học đạo câu trả lời rất rõ ràng:
- Ý dân là ý trời. (Thuận nhơn tâm ắt thuận Trời…).
- Thiên Thời; Địa Lợi; Nhân Hoà mà không có bài bản thích hợp thì cũng không thể đạt đến mục đích cho đặng.
Vậy thì công thức Hoà Bình; Dân Chủ; Tự Do… Cao Đài Giáo có sơ sở để thực thi như thế nào mà Chí Tôn quả quyết rằng Giáo lý của Ngài sẽ đưa nhân loại đến một Thế Giới Đại Đồng- Đồng Tiến trong Bác Ái và Công Bằng.
- Hoà Bình thì đã có Cương Lĩnh: Hoà Bình Chung Sống. (Do Dân- Phục Vụ Dân- Lập Quyền Dân).
- Dân chủ thì có gì đặc sắc?
- Tự Do phải hiểu như thế nào?
Chúng tôi xin giới thiệu công thức DÂN CHỦ của Cao Đài Giáo và phương cách thực thi công thức. (2)
A- CÔNG THỨC DÂN CHỦ: CHỦ QUYỀN DÂN CHỦ.
Dân Chủ đã được đề cập đến rất nhiều qua truyền thuyết lịch sử hay qua văn bút lưu hành trong xã hội mà ta có thể nhận thấy như sau:
I- Chủ Thuyết Dân Chủ:
Gọi dân chủ chủ thuyết vì ý tưởng dân chủ còn ở thời sơ khai chưa có một cơ chế bắt buộc mọi người phải thể hiện. Chủ yếu là do sự tự ý ban phát của thượng tầng. Cho nên khi thượng tầng thay đổi ý định không muốn ban phát nữa thì hạ tầng phải cam chịu.
Thời Nghiêu Thuấn ở Phương Đông được coi như là đỉnh cao của chủ thuyết dân chủ và sau đó bị cáo chung rất là nhanh chóng để đưa xã hội vào thời kỳ Quân chủ chuyên chế. Chủ thuyết dân chủ ngày nay chỉ còn là dĩ vãng.
II- Chủ Nghĩa Dân Chủ.
Chủ nghĩa dân chủ thì có bài bản qua văn bút rõ ràng như: Hiến Pháp của các quốc gia thường phải chia quyền lực ra thành 3 quyền là: Lập Pháp; Hành Pháp; Tư Pháp.
Từ nguyên tắc căn bản đó các quốc gia tuỳ vào điều kiện của quốc gia mình mà khai triển sao cho phù hợp để xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Ngày nay ta có thể liệt kê chủ nghĩa dân chủ thể hiện qua các đường hướng chính như: Cộng Hoà, Liên Bang, Tư bản, Cộng Sản, Trung Lập, Quân Chủ Lập Hiến. Tên gọi có khác nhau nhưng cũng đều có tam quyền phân lập rõ ràng. Đây là đường hướng và tổ chức mà đa số các quốc gia ngày nay đang thực hiện.
Xin phép không đi sâu vào việc phân tích Chủ Nghĩa Dân Chủ trong xã hội vì từ ngày nó xuất hiện đến nay sách vở viết về nó đã đủ nhiều và qua quá trình thực thi đã có tạm đủ cơ sở để xác định giá trị của nó một cách cơ bản. Nó là một bước tiến bộ lớn lao của nhân loại trên con đường mưu cầu công bằng trong xã hội, trong việc mong muốn xây dựng một xã hội pháp quyền trong nhân quyền.
Nhưng nếu dùng đó để xây nên Thế Giới Đại Đồng trong thời đại khoa học kỷ thuật có những bước tiến lớn lao đã đưa nhân loại đến cảnh năm châu chung chợ, bốn biển chung nhà thì hoàn toàn không thể đáp ứng được. “Toàn cầu hoá” (2a).
Thời gian thực thi chủ nghĩa dân chủ với tam quyền phân lập như hiện nay đã làm bùng phát ra nhiều cao trào tranh đấu đòi thượng tầng phải thay đổi đã là bằng cớ để nói lên sự không còn phù hợp, nói lên giá trị … và ngày nay cái mùi vị của các thể chế dân chủ ra sao thì nhân loại vẫn còn đang nếm trải… (3).
Nhu cầu đã có vậy thì nguồn cung ứng mới từ đâu ra để đáp ứng?
III- Chủ Quyền Dân Chủ.
Vận dụng tinh hoa của hai nền Dân Chủ trước Cao Đài Giáo thực thi quyết sách: Chủ Quyền Dân Chủ.
Chủ quyền dân chủ được thể hiện trọn vẹn qua chơn truyền giáo lý Cao Đài Giáo. Chủ quyền dân chủ cũng còn thể hiện qua cách thức hành xữ của Đấng Chí Tôn đối với môn sinh và cách thức sinh hoạt của Hội Thánh Cao Đài Toà Thánh Tây Ninh khi chưa bị giải thể (1979). (Hành bất ngôn chi giáo).
Từ các lời hướng huấn của Đấng Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng; Tôn giáo Cao Đài đúc kết lại thành điều luật trong Nội Luật Hội Nhơn Sanh.
Điều Thứ Tư: Hội Nhơn Sanh để bàn tính những việc sau nầy:
1- Giáo hoá Nhơn Sanh.
2- Lo liệu phương hay cho Đạo với Đời khỏi điều phản khắc và nâng cao tinh thần trí thức của Nhơn Sanh.
3- Phổ Độ Nhơn Sanh vào cửa Đạo dìu dắt Tín đồ cho khỏi trái bước và trọn vâng các luật lệ của Đạo.
4- Xin sửa cải thêm bớt hay huỷ bỏ những luật lệ của Đạo không phù hợp với trình độ trí thức tinh thần của Nhơn Sanh.
5- Lo cho nền Đạo được trong ấm ngoài êm, và đủ phương liệu đặng phổ thông nền chơn giáo.
6- Xem xét và công nhận phương diện chánh trị của Đạo quan sát sổ thâu xuất tài sản và nghị sổ phỏng định năm tới.
Điều luật nêu ra thể hiện chủ quyền của nhơn sanh trong việc thực thi Chánh Trị Đạo cho nên công thức dân chủ của Tôn Giáo Cao Đài: CHỦ QUYỀN DÂN CHỦ.
Đức Chí Tôn có để lời dạy trước: …Thầy tưởng chẳng còn nói nếu ai là đạo đức đọc đến cách lập pháp của Thầy mà chẳng mừng giùm cho nhơn loại. Thầy buộc mình hứa cùng Ngọc Hư Cung rằng: Nếu Đạo còn thì Thầy cũng theo gìn các con. Các con coi lời Thầy trọng hệ là dường nào, như biết coi Đạo trọng thì cả tinh thần các con cũng nên tom góp vào mỗi điều đó mà trông cậy nơi Thầy lập pháp… (4).
Trong nền tảng thì Tôn Giáo Cao Đài vẫn có phân ra 3 quyền: Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp.
Nhưng điểm đặc sắc và mạnh mẽ ở đây là giao cho nhơn sanh quyền được giám sát ba quyền trên một cách toàn diện, công khai, minh bạch, triệt để và thường xuyên. Quyền giám sát của nhơn sanh không phải chỉ trên chủ trương hay lý thuyết chung chung để khi cần áp dụng còn phải đi tìm, còn phải bàn cải xem việc giám sát phải như thế nào? Có giới hạn hay không?
Quyền giám sát của nhơn sanh ngay trong bộ máy và song song với bộ máy được cụ thể bằng điều luật, bằng cơ chế và bằng những qui định bắt buộc phải thực thi chứ không phải chờ ai ban phát. Dân chủ mà còn chờ ban phát thì danh từ Dân chủ chỉ là mộng mị dùng để tạo thế cho riêng bản thân hay đảng phái đang cầm quyền của mình mà thôi. Dân chủ như thế chỉ là mị dân. (5).
DÂN không thể chờ ai ban phát tư cách CHỦ của mình nữa mới gọi là Dân Chủ.
Cũng nên nhấn mạnh rằng chủ quyền dân chủ không phải là vô chính phủ, vô tổ chức. Mà phải tâm đắc là có tổ chức, có kỷ cương, đúng y như luật định mới mạnh. Luật Pháp điều khiển tất cả người trong tổ chức chứ không phải một cá nhân hay tập thể nào hết. Cá nhân hay tập thể chỉ là người đứng ra để thực thi pháp luật, thực thi đường hướng Chánh Trị Đạo… đã được Vạn Linh hiệp với Chí Linh thống nhất…
Con người ai cũng có quyền tự do nhưng cái tự do của anh A không thể xâm hại đến anh B Chị C… và ngược lại… Cho nên DÂN CHỦ CÓ NHÂN QUYỀN.
Nhân là cái nguyên nhân, cái hạt giống để phát sinh, nẫy nở ra cái quyền lực giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân và xã ước.
Cái NHÂN ấy là tình thương.
Cái QUYỀN ấy là công bằng.
Không có tình thương không có công bằng thì không ai có quyền gì với ai cả.
Ai cũng có thể kiểm chứng điều nầy trong cuộc sống cá nhân lẫn cộng đồng.
Nhân quyền ấy là quyền con người; quyền con người phải hiểu cho xứng đáng với địa vị nhân phẩm: “Con người đứng phẩm tối linh… và phải có công thức đúng về nhân quyền là TÌNH THƯƠNG- CÔNG BẰNG thì chuyện thực thi là điều đương nhiên phải diễn tiến.
Nhân quyền ấy là cá nhân có quyền đưa nhận định hay sáng kiến của mình ra trình với cộng đồng, cộng đồng phân tích đánh giá và quyết định. Chính người đưa ra công thức hay đề án ấy cũng có quyền tham gia công khai, minh bạch để đi đến biểu quyết. Sự biểu quyết nào cũng phải theo qui định.
Khi thực thi thì 100% phải thực thi từ phẩm thấp nhất là đạo hữu cho đến phẩm cao nhất là Giáo Tông.
Dân chủ có nhân quyền thể hiện qua cơ chế và hành động cho các thành phần trong tôn giáo theo trình tự của từng giai đoạn… cho nên một khi đã đúc kết thì đó là công trình là công thức là quyết định của vạn linh cho nên không ai có thể nói Tôi không công nhận…
Nhân quyền trong tôn giáo thể hiện qua 04 giai đoạn:
Một: từ cái mầm móng khơi phát.
Hai: cho đến khi đúc kết thành công thức.
Ba: mang ra thực thi “thường thì xã hội chỉ chú trọng đến giai đoạn thực thi”.
Bốn: kiểm tra trong mọi thời điểm và mọi phương diện.
Tập thể mà vô kỷ luật thì chỉ là một đoàn quân ô hợp; phát biểu, hò la để tạo thêm sự hỗn loạn thì được nhưng hoàn toàn không có khả năng xây dựng được điều gì tốt đẹp, không có sức chiến đấu.
Một tổ chức thiếu kỷ luật khi gặp trường hợp phải xây dựng thì tịch ngòi vì không có sự quyết tâm và đoàn kết để đúc kết các ý kiến thành ra một sáng kiến, một công thức với đầy đủ sắc bén và mạnh mẽ hầu giải quyết vấn đề. Gặp lúc cần phải chiến đấu để bảo vệ cho mục tiêu chánh đáng của tổ chức đề ra thì đoàn quân ô hợp sẽ rệu rã ngay.
Cho nên chủ quyền dân chủ càng thực thi đúng kỷ cương, đúng luật định bao nhiêu thì sức mạnh lại càng gia trọng ấy nhiêu.
Tính kỷ luật của Tôn giáo thể hiện cả về 2 phương diện: Nội dung và hình thức.
- Hội Viên của các Hội phải mặc y phục đúng với qui định mổi hạng. (Cách thức phát biểu và cách ngồi cũng được nêu rõ).
- Nghị Viên không có quyền vô cớ vắng mặt để cho công việc bất thành.
Nghị viên vắng mặt không xin phép trước phải bị tước quyền dự hội. “tỉ lệ người đến dự Hội bao nhiêu thì quyết định vẫn có giá trị đầy đủ” bất kể quyết định về nội dung nào đã được phổ biến đúng với trình tự qui định.
- Nghị Trưởng hay phó Nghị Trưởng vì lý do nào đó mà đến trể 15 phút đồng hồ trong buổi hội thì luật đã định sẳn tiêu chuẩn cho Nghị viên có mặt thay thế trách nhiệm Nghị Trưởng và Phó Nghị Trưởng để cuộc Hội được diễn tiến. Ngay trong buổi Hội đó nếu Nghị Trưởng và Phó Nghị Trưởng có đến thì ngồi chổ Nghị Viên.
Nếu nhìn nhận rằng thực thi Luật Pháp nghiêm minh là sức mạnh của tập thể thì tập thể đó phải được điều hành bằng những bàn tay gân guốc và bộ não vô tư; phải có kỷ luật thép tập thể mới mạnh.
Pháp và Luật trong Tôn Giáo Cao Đài thể hiện rất rõ: Luật Trị Người. (Người Hành Chánh phải thề là giử dạ vô tư mà hành đạo…). Hẳn nhiên nó làm cho nhiều người đã quen với khái niệm về Tôn giáo thời Nhứt Kỳ hay Nhị Kỳ Phổ Độ sẽ phải ngỡ ngàng khi tiếp cận với Tôn giáo Cao Đài. (6).
Về phương diện tổ chức thì Chủ quyền Dân Chủ vẫn có đủ tam quyền phân lập nhưng có thêm một quyền thứ tư nữa kiểm soát 3 quyền kia.
Ba quyền kia nếu không có quyền thứ 4 làm đối trọng trong mọi thời điểm, mọi tầng nấc thì không thể gọi là chủ quyền dân chủ.
Quyền nào cũng xuất phát từ nền tảng đạo đức mà ra. Quyền nào cũng có văn bút qui định cứu cánh rõ ràng: Phụng sự nhơn sanh.
Điều thứ 4 có 6 khoản nhưng nếu xét về mặt giám sát ta thấy quyền ấy thể hiện trong các giai đoạn chính như:
- Quyền thông qua danh sách nhân sự thượng tầng trong các giai đoạn như: Bước vào nguồn máy nhân sự thượng tầng hay mổi khi thăng phẩm cấp đều phải có được sự chấp nhận của Đại Hội Nhơn Sanh qua văn bút rõ ràng. (7).
- Quyền giám sát các khoản về đường hướng Chánh Trị Đạo hay tài chánh hằng năm đúng với nội luật đề ra. (Giám sát không giới hạn).
Dân đã mạnh và có cơ chế biểu lộ sức mạnh thì không có nguyện vọng chính đáng nào của dân mà không thực hiện được.
Chủ Quyền Dân Chủ chính là Lập Quyền Dân là kết hợp sức mạnh của Dân lại với nhau trong khuôn viên luật định để thể hiện Ý Dân Là Ý Trời. (8).

                                             @ @ @

B- NƯỚC GIÀU DÂN MẠNH.
Trong quốc sách của nhiều quốc gia hiện thời vẫn nêu lên tiêu chí dân giàu nước mạnh hay là nước mạnh dân giàu tuỳ theo mổi quốc gia. Hai vế trên tuỳ lúc vẫn có thể thay đổi trên cùng một quốc gia cho thuận chiều dân vọng.
Nhưng dù cho vế nào trước vế nào sau thì ta vẫn có quyền tự hỏi:
Cả hai công thức trên có chính xác hay chưa?
Liệu có một công thức nào khác hay là không?
Công thức Cao Đài Giáo thế nào?
Muốn trả lời thì phải biện chứng rõ ràng.
I- Quốc Sách hiện thời: Dân giàu.
Một quốc gia phải hội đủ 3 thành tố: Lãnh Thổ; Dân Tộc; Chánh Quyền.
Dân là một tập thể đông đảo nhất, chiếm đại đa số trong mổi quốc gia. Về phương diện xã hội thì thường là căn cứ vào nghề nghiệp mà người dân đang dùng làm sinh kế để phân chia thành các diện: Sĩ, Nông, Công, Thương và Tăng. (9).
Dù ở vào diện nào cũng có 3 giới: thượng lưu, trung lưu, và hạ lưu.
Như vậy có thể nào các thành phần trên cùng làm giàu được hết hay không?
Chắc chắn là không. Kẻ được người không sẽ sinh ra mâu thuẫn. Từ mâu thuẫn như vậy sẽ nẫy sinh ra rất nhiều vấn đề; trong đó chắc chắn có nẫy sanh lòng ham muốn làm giàu bất chấp mọi thủ đoạn; kể cả thủ đoạn bất chính để làm giàu. Thực tế cho thấy làm giàu từ sự chính đáng thì ít. Làm giàu từ sự bất chính thì nhiều.
Bất chính bao gồm các hành vi qua mặt luật pháp (lách luật) hay cấu kết với các phần tử trong chính quyền để mua chuộc thông tin mật từ chánh quyền rò rĩ ra, đón đầu dự án để đầu tư vào các lãnh vực béo bở.
Ngày nay một số các tập đoàn giàu có lớn trên thế giới đang phải đối diện với bản án cấu kết với các phần tử bất chánh trong chánh quyền để làm giàu mổi ngày một nhiều, qui mô mổi ngày một lớn, một quỉ quyệt và kiên cố nên rất khó phát hiện. Chẳng may có vụ nào được công khai thì cũng không minh bạch được.
Phần nổi của tảng băng còn khó phát hiện thì phần chìm của tảng băng trông mong gì khám phá ra.
Khi mọi người tìm mọi cách để làm giàu về vật chất thì hậu quả tất nhiên là đạo đức bị băng hoại, kỷ cương bị chà đạp trâng tráo ở khắp nơi.
Tình trạng: Kẻ chăn dân lại ra làm con buôn…
Tất yếu đến cảnh: Quốc dân ăn thải uống thừa…
Đã hiển nhiên trước mắt dân chúng.
Một trong những phương thức phổ biến và chắc chắn sẽ nẫy sinh khi tìm cách làm giàu được đã phơi bày ra ánh sáng, đã được chỉ tên đó là: lòng gian tham. Lòng gian tham nổi lên thì diện nào sẽ gian tham theo diện nấy. Đẳng cấp nào gian tham theo đẳng cấp nấy là điều tất yếu.
Thượng lưu, trung lưu, hạ lưu gì cũng tùy phương tiện sẳn có mà ráo riết tham gia vào con đường gian tham rồi hoà nhập một cách toàn diện và triệt để vào con đường bất chánh dưới mọi hình thức… Người ngay thẳng không chấp nhận gia nhập vào hệ thống gian tham chỉ còn cách trơ mắt đứng nhìn… trong thất vọng và ngán ngẫm.
Làm một người ngay thẳng trong xã hội hỗn loạn vì vật dục khó khăn và cay đắng như thế nào các bậc hiền triết, những tiền nhân giàu lòng trắc ẩn đã thể hiện qua văn bút hay cuộc đời đầy thương cảm của chính các vị…còn lưu lại cho hậu tấn… để cảm thán!!!
Gia nhập vào hệ thống gian tham thì họ không cam tâm, không đành lòng bán rẽ lương tâm.
Không gia nhập thì bị thiệt thòi đủ thứ trong xã hội.
Đến bệnh viện mà không có tiền ư? Ai điều trị cho người không có tiền…
Việc học hành của con cái thì liệu có được bao nhiêu trường chấp nhận cho người không có tiền, hay chỉ có một ít tiền vào học.
Bệnh viện và Trường học biến thành cổ máy in tiền thì nước mắt người nghèo sẽ không ngừng tuôn rơi cho dù là ngày hay đêm. Nước mắt tức tưởi cho kiếp lầm than sẽ không bao giờ ráo.
Sinh mạng của người nghèo còn rẽ rúng hơn con chó, con mèo… của người giàu có nuôi để giải trí.
Công chức ngay thẳng, mua gánh bán bưng đầu tắc mặt tối, bán mặt cho đất bán lưng cho trời… Người lao tâm hay lao lực chân chính đều gặp khó khăn. Tất cả những khó khăn dồn dập đó còn tồn tại chỉ vì dân còn yếu, còn hèn do chưa biết Đạo mà ra.
Giáo lý các tôn giáo xưa nay có kêu gọi bác ái, có kêu gọi công bằng, vị tha… nhưng hoàn toàn chưa đủ sức để lau khô những dòng lệ thảm, chưa có cách làm cho nước mắt người bị thiệt thòi trong xã hội thôi rơi. Tôn giáo chưa chỉ ra được công thức chấm dứt cảnh thảm khổ mà ai cũng thấy.
Nhà Chùa, Thiền Viện, Giáo Đường, Tôn giáo rao giảng tình thương, rao giảng công bằng bác ái kêu gọi mọi người sống phúc âm, sống từ bi… nghe thì rất hay nhưng ai không nghe thì thôi. Tôn giáo không có phương thế gì giúp đở cho người muốn sống theo lời răn Tôn giáo có môi trường sống thì làm sao nghe theo, làm sao vâng theo.
Không có một Tôn giáo nào tạo nên tài nguyên và môi trường để nhân loại sống trong đường hướng Tôn Giáo cả. Tôn giáo trong hoàn cảnh như thế chỉ tăng thêm sự khó xữ, kéo dài thêm nổi dằn vật trong thâm tâm những người hướng về tôn giáo.
Những vị tu hành, những Chức Sắc Tôn giáo, những nhà hảo tâm… đến những nơi nghèo khổ vào một số ngày nào đó trong năm để quay phim chụp ảnh tuyên truyền cho đường lối cứu khổ cứu nạn thì giải quyết được bao lâu cái khốn khó của người dân không may đó. Và giải quyết được bao nhiêu trường hợp? (10).
Trong hoàn cảnh xã hội và điều kiện cá nhân như thế không gian tham mới lạ. Mà lòng gian tham của một người nổi lên được thì một nhà nổi lên được; một địa phương nổi lên được; một nước nổi lên được và cả thiên hạ nổi lên được.
Vậy thì làm sao có hoà bình?
Hoà Bình không có thì dân chủ cũng tiêu tan.
Dân không mạnh thì cho dù các tệ nạn có được công khai trước công luận cũng vĩnh viễn không thể minh bạch được. Lý do rất dễ nhận ra kẻ có quyền sẽ giải thích sẽ lèo lái theo hướng “bao che - hay nửa vời” có lợi cho tầng lớp thượng tầng. Nghĩa là quốc nạn của nhiều quốc gia, nổi ám ảnh kinh khiếp và ghê tởm của nhân loại khắp địa cầu từ xưa đến nay vẫn tiếp tục tồn tại; vẫn cứ ngang nhiên tồn tại cho dù có nổ lực tìm cách chống lại nó mà không dám nói rõ ra: Dân mạnh thì vạn sự tất. (11).
Chủ trương dân giàu nước mạnh mà không dụng quyết sách dân mạnh làm nền tảng, không có cơ chế làm cho dân mạnh; không thực thi dân mạnh là con đường đi không đến, vĩnh viễn không bao giờ đến, không bao giờ thành hiện thực… tất cả chỉ lòng vòng trong ảo ảnh để một đại đa số dân có con số không to tướng và đeo mang một chữ khổ triền miên hết đời nầy sang đời khác.
Lịch sử nhân loại trải qua mấy ngàn năm với chế độ quân chủ; mấy trăm năm với chế độ dân chủ hiện nay đã chứng minh như thế. Không nhà hùng biện nào, một chủ nghĩa chính trị nào có khả năng phủ nhận nổi thực tế nầy.
 II- Bài Bản Tôn Giáo Cao Đài: " NƯỚC GIÀU - DÂN MẠNH "
Đồng ý rằng: Giàu có và mạnh khoẻ là mong muốn chính đáng của nhân loại.
Không riêng gì người nơi các quốc gia nghèo khó kém phát triển ở Châu Á, Châu Phi mà người ở các quốc gia đã công nghiệp hoá hiện đại hoá cũng mong muốn như thế.
Trong cao trào dân chủ hiện nay trên khắp thế giới xét cho đến cùng thì đòi thực thi dân chủ chính là để có cuộc sống ấm no và hạnh phúc.
Đó là nguyện vọng chánh đáng nên phải được nhìn nhận và đáp ứng. Tôn giáo Cao Đài đưa nhân loại đạt đến những gì nhân loại muốn. Nhưng Tôn Giáo Cao Đài đưa ra công thức: NƯỚC GIÀU DÂN MẠNH.
Tôn giáo thực thi ý muốn chánh đáng (giàu có – mạnh khoẻ) của nhân loại mà tại sao công thức lại không nói đến dân giàu? Tại sao lại không nói đến nước mạnh?
Trên thực tế thì rất nhiều quốc gia đã thực thi công thức dân giàu nước mạnh rồi. Kết quả của công thức đó dẫn đến thực tế hiển nhiên là một thiểu số rất nhỏ nắm quyền phân phát áo cơm, cho nên tất cả những người thọ sanh nơi cõi thế nầy đang chịu sự chi phối của họ. Thiểu số nhỏ nầy quyết định chiến tranh sẽ có ở đâu dưới hình thức nào.
Còn nước mạnh???
- Thì trên thế giới hiện nay cũng đã có nhiều nhà cầm quyền ra lệnh dùng súng đạn bắn thẳng vào dân chúng của quốc gia mình, bắn thẳng vào những người mà họ có trách nhiệm phải chăm lo… khi dân trong nước muốn có tự do, muốn có dân chủ…Họ có đủ mạnh để ra lịnh bắn vào dân họ đó chớ.
- Nước mạnh nên có những quốc gia mà ngoài thành phần quan chức được ưu đãi ra thì phần còn lại của nước đó được thế giới cho đó là một nhà tù lớn của cả một dân tộc… Họ đủ mạnh nên mới có cách thức bỏ tù cả một dân tộc đó chớ.
Tóm lại Họ có đủ mạnh để tạo ra Luật Pháp cho dân chúng thi hành. Họ có đủ mạnh để in ấn những bài giảng về đạo đức công dân cho dân chúng thi hành…
Còn Họ??? Họ đã và đang chà đạp những bài đạo đức của họ soạn ra và dày ngang xéo dọc luật pháp mà họ buộc dân chúng trong quốc gia mình chấp hành.
Căn bệnh kinh niên của từng lớp cầm quyền từ bao nghìn đời nay dầu có biến đổi về hình thức cho tinh vi hơn để ru ngũ dân đen nhưng xét về bản chất không hề thay đổi.
Nhân loại đang nếm trải mùi vị công thức dân giàu- nước mạnh mà thực ra chỉ một phần cực kỳ nhỏ rất giàu; một phần rất nhỏ được giàu còn lại là một đại đa số dân rất nghèo; nghèo cả về vật chất lẫn tinh thần.
Nghĩa là tổng sản lượng của nhân loại thì giàu; nhưng sự giàu có phân phối không đồng đều mà chỉ tập trung vào một số cá nhân, cho nên nhân loại sẽ khổ triền miên. Hố sâu giàu nghèo mổi ngày một sâu thêm một lớn thêm. Phân hoá giàu nghèo ngày một khốc liệt.
Tại sao của cải nhân loại làm ra lại không được phân phối đồng đều trong xã hội một cách tương đối và chấp nhận được?
Thiễn nghĩ lý do của mọi lý do là do Dân không mạnh.
Cái mấu chốt chính yếu dẫn đến thảm trạng là vì dân không mạnh.
Không mạnh hiểu theo cả 2 mặt: Vật chất và tinh thần.
Cho nên Tôn giáo Cao Đài chủ trương DÂN MẠNH cả về hai phương diện vật chất và tinh thần.
* Mạnh về tinh thần là phải hiểu được rằng con người không phải vô cớ mà hiện sinh nơi thế gian nầy. Đã không vô cớ thì phải xác định mục đích, xác định cứu cánh của đời người để sống cho xứng đáng.
Mạnh vì hiểu là ta hiện sinh trong cơ duyên kỳ ngộ của đời người, vì ta biết rằng giờ phút nầy ta còn có bậc Đại Từ Mẫu đang thực thi:
…Chiếu nhũ lịnh Từ Huyên thọ sắc,
Độ anh nhi Nam, Bắc, Đông, Tây.
Kỳ khai tạo nhứt Linh Đài,
Diệt hình tà pháp cường khai Đại Đồng…
Mạnh vì xác định rằng:
…May gặp đặng hồng ân chan rưới,
Giải trái oan sạch tội tiền khiên…
Hay:
…Căn xưa ví dữ cũng hiền,
Dầu ra cửa tội đủ quyền cao siêu…
Hay:
Chốn hồng trần quen lằn gió bụi,
Cảnh phù ba may rủi cũng duyên.
Đã gan dốc kiếm diệu huyền,
Sanh sanh là phận hiền hiền là công…
Thuận cảnh hay nghịch cảnh nếu nó đến với ta trong kiếp sinh thì không có gì là vô cớ hay vô ích. Tất cả đều là bài học mà ta phải học hay là học phí mà ta phải trả khi trải bước trên đường luân hồi để tấn hoá.
Mạnh trong hạnh phúc vì biết rằng cho dù ta chỉ có một mình nhưng ta không hề đơn độc trên đường đời:
Ngoài nữa còn Cha, còn Chú, Bác,
Làm gương cho xứng mới nên trò. (12).
* Mạnh về vật chất là phải có cơ chế, có luật lệ, có môi trường, có tài nguyên, có khuôn thước chuẩn thằng để bày tỏ sức mạnh của nhân loại. Sức mạnh ấy được thể hiện qua sự thân ái và đoàn kết trong cuộc sống chia vui sớt nhọc với nhau.
Mạnh vì biết rằng Tôn Giáo Cao Đài có một tổ chức, có một cơ chế để nhân loại thoát ra khỏi cảnh bị lệ thuộc vào quyền phân phát cơm áo đã chi phối cuộc sống nhân loại bấy lâu. (Chánh Trị Đạo: Bảo Sanh, Nhơn Nghĩa, Đại Đồng và được thể hiện qua cơ chế Phước Thiện; Phổ Tế…).
Mạnh là đở nâng yếu thế binh quyền mồ côi… Mạnh được thể hiện qua các buổi cúng liên gia hằng ngày nơi hương thôn cho đến tang tế sự và công cử người đại diện cho địa phương mình để trình bày nguyện vọng, trình bày yêu cầu lên Đại Hội Nhơn Sanh.
Mạnh là dân có quyền giám sát bộ máy hành chánh không có giới hạn, không có vùng cấm, quyền càng lớn càng phải được giám sát nghiêm nhặc.
Dân không phạm vào guồng máy hành chánh và guồng máy hành chánh có muốn phạm vào dân cũng không được. Tất cả đều phải hành xữ theo luật Bác Ái Công Bằng mới là mạnh.
Tóm lại là: phải hiểu cho được chân lý đời người, chân lý xã hội, chân lý Tôn giáo tùy vào trình độ mổi cá nhân và thực thi thì mới là cái mạnh thực sự và hữu ích: Đạo đức thể hiện qua hành động.
Môt khi dân đã mạnh thì chuyện dân giàu có chỉ còn là thời gian sớm tối đương nhiên sẽ tới. Không có cá nhân hay tập thể nào mạnh về vật chất lẫn tinh thần như thế mà lại nghèo hay là không giàu lên một cách rất chính đáng, rất đúng đạo lý bao giờ.
Đạo lý đi liền với văn minh và tiến bộ nhân bản. Tôn giáo không bao giờ tách mình ra khỏi các nền văn minh vì chính Tôn Giáo đã sản sinh ra các nền văn minh.
Không một người mẹ nào từ chối đứa con mình rứt ruột đẻ ra thì cũng không có một nền Tôn giáo nào từ chối sự văn minh hay là không hô hấp với văn minh mà tồn tại được.
Nhưng bậc từ mẫu hiền minh như Mạnh Mẫu thì rất sẳn sàng và quyết liệt để uốn nắn tâm hồn thơ ngây của con mình trở nên người hữu dụng thì Tôn giáo cũng mạnh dạn chỉ rỏ ràng cái tai hại của nền văn minh vật chất đã làm cho con người đánh mất tâm linh. Nền văn minh vật chất lan tràn đến đâu thì luân thường đạo lý bị ngữa nghiêng… đến đó.
Vì vậy mà Tôn giáo Cao Đài hiện sinh là để chỉ ra bài bản chỉnh sửa nền văn minh vật chất cho hài hoà với cuộc sống tinh thần giúp nhân loại thực thi cuộc cách mạng thân tâm và cách mạng xã hội để tạo dựng một thế giới mới chớ không phải từ chối hay tiêu diệt văn minh vật chất.
Tôn giáo Cao Đài đưa ra phương cách triệt tiêu cái phần tai hại của văn minh vật chất chứ không phải tiêu diệt văn minh vật chất. Tôn giáo không có lên án, trừng phạt hay tiêu diệt những người chạy theo vật chất nhưng Tôn giáo đưa ra những giáo án, những công thức để tự họ ý thức rằng cần phải có ý thức đúng mức vấn đề vật chất và tự họ chỉnh sửa.
Đừng bao giờ hiểu rằng muốn xoá sạch hố sâu giàu nghèo là làm cho người giàu trở thành nghèo “Lấy của người giàu chia cho người nghèo”. Đó là lý luận của kẻ dốt nát và phá hoại chỉ gây ra cảnh rối loạn, nghèo nàn và băng hoại để thủ lợi cho cá nhân hay vun vén cho Đảng phái của họ chớ không phải kế sách an bang.
Bởi vì chính kinh sách Tôn giáo xác định:
Cuộc danh lợi là phần thưởng quí,
Đấng Hoá Công xét kỹ ban ơn…
…Người sang cả là vì duyên trước… (12a)
Mà phải hiểu và định quyết rằng xoá đi hố sâu giàu nghèo là làm cho mọi người trong xã hội đều có nhiều của cải nghĩa là được giàu có về cả vật chất và tinh thần một cách chính đáng. “Làm cho người nghèo trở thành giàu có nhờ vào kế sách an bang”.
Muốn làm được như thế thì chỉ có sách lược duy nhất là làm cho Dân mạnh cả về vật chất lẫn tinh thần. Cho nên Đấng Chí Tôn mới chỉ ra quyết sách:

Cầu xin trăm họ bình an
Nước giàu dân mạnh thanh nhàn muôn năm. (12b)
Muốn dân mạnh thì phải thực thi Lập Quyền Dân hay là Dân Chủ Chủ Quyền.
Dân mạnh thì: Tài nguyên của đất nước từ trong lòng đất, từ trong rừng sâu núi thẩm, từ biển cả bao la, từ cõi không gian vô tận, từ những cánh đồng mênh mông rọâng lớn, từ những bộ não thông thái sẽ chảy vào ngân khố quốc gia chớ không rò rĩ, không chảy vào túi, vào tài khoản của các quan chức tham nhũng hay các thế lực cấu kết với quan lại nữa.
Tài nguyên quí nhất trong các tài nguyên là gì?
- Ở cấp vi mô là phẩm chất HIỀN TÀI trong xã hội được trọng dụng.
- Ở cấp vĩ mô là ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI luôn luôn được phát huy.
Thực thi những bài bản như thế thì không có một Quốc gia nào, một tổ chức không giàu mạnh. Một quốc gia giàu có hẳn nhiên phải biết cung phụng lại cho lực lượng đã làm cho nó giàu có; một lực lượng mạnh đang kiểm soát quốc gia, sẳn sàng thay đổi hay phế truất những cá nhân bất xứng trong nguồn máy công quyền thì lẽ tự nhiên kẻ giàu (quốc gia) phải lo cho kẻ mạnh (người dân) thực sự thì không có người dân nào nghèo nữa cả. (12c).
Dân mạnh thì mới minh bạch được mà thôi.
Con mắt của dân thì có ở khắp nơi còn con mắt của luật pháp chỉ có trong một phạm vi nhất định và thường thường thì kẻ thừa hành pháp luật sẳn sàng lấn lướt kẻ yếu, chỉ phải kiên dè kẻ mạnh mà thôi. Cho nên dân mạnh thực sự thì không một cá nhân nào trong nguồn máy hành chánh dám làm bậy. Con mắt của kẻ mạnh đã có khắp nơi để giám sát thì ai dám qua mặt nó?
Dân đã mạnh thì không có một cá nhân nào, không có thể chế nào dám hà hiếp dân hay đi nghịch lại với nguyện vọng chánh đáng của dân mà tồn tại được.
Với phương tiện và kiến thức của nhân loại hiện có thì ta có quyền tin rằng nếu có công thức đúng cho một tổ chức làm được thì một quốc gia làm được và cả thế giới ắt hẳn sẽ làm được. Cho nên công thức dân mạnh (Nhơn sanh mạnh- là nội dung cơ bản trong cách lập pháp của Thầy) sẽ được Tôn giáo Cao Đài thực thi trước và các thể chế sẽ tham khảo mà thực thi trên quê hương họ cho thuận chiều dân vọng.
Thể chế nào chần chừ sẽ bị thúc ép để thực thi. Thể chế nào không chịu thực thi thì chính người dân đất nước họ sẽ khai tử thể chế nghịch lại ý muốn của dân.
Những bà mẹ hiền lành, những người vợ trẻ, những đứa bé thơ ngây vô tội sẽ không còn phải khóc vì con, vì chồng, vì cha phải chinh chiến và bỏ mình nơi chiến trường xa xôi phi nghĩa, hay chết vô ích ngay trong lòng tổ quốc nữa. Những bom mìn cài đặt để giết hại lẫn nhau sẽ chỉ còn là dĩ vãng. Những đồn luỹ kiên cố đầy súng ống sẽ chỉ còn là những phế tích cây cỏ mọc đầy, rêu phong bao phủ, cho thế hệ mai sau nhìn vào rồi cảm nhận được cái giá kinh hoàng; khốc liệt mà nhân loại đã trải qua trước khi hiểu và thực thi được công thức dân mạnh. Đó là học phí mà nhân loại đã phải trả bằng xương máu… từ bao năm qua để xây dựng thế giới đại đồng.
Nguyên tử lực sẽ dùng để phụng sự cho hoà bình, cho nhu cầu chánh đáng của nhân quần xã hội. (Can Qua Vĩnh Tức Giáp Mã Hưu Chinh) (12d).
Những cảnh chia cắt tình thân do mưu sinh, do tha hương cầu thực… sẽ chấm dứt. Bởi cuộc sống tại nơi quê hương giờ đây có công ăn việc làm có đủ sức nâng đở nhau khi không may có người hoạn nạn. (Lãng Tử Cô Nhi Tảo Hồi Hương Lý) (12đ).
Bộ máy Phước Thiện và Phổ Tế khai triển thì người gặp cảnh không may hay là cảnh nghèo khó sẽ đựơc giúp đở kịp thời và về lâu dài thì bộ máy Phước Thiện sẽ thanh toán cảnh nghèo đói bất kỳ nơi nào có Tôn Giáo Cao Đài. Cảnh dốt chữ và dốt đạo được xoá đi thì cái nguyên nhân của cảnh nghèo khổ về vật chất hay tinh thần cũng tan biến không còn có cảnh cứu trợ thường xuyên đầy ray rứt diễn ra… Không còn cảnh ăn xin nơi đầu đường xó chợ không còn cảnh thương tâm từ thành thị đến thôn quê. Không còn cảnh kẻ ăn không hết người lần không ra nữa.
Những thiên tai địa ách hay sự không may đột xuất xãy ra thì Hội Thánh cũng phải có nguồn nhân lực và tài lực, vật lực… sẳn sàng để giúp đở kịp thời chớ không phải còn chờ…quyên góp…có vậy mới xứng với danh là Hội của các vị Thánh!!!
Đường lối vô vi không kêu gọi, không xúi giục ai làm giàu mà kỳ thực là chỉ ra cách thức đạt đến cảnh rất giàu có một cách hết sức tự nhiên, bền vững và phù hợp với đạo lý. (Vô Biên Thế Giới Địa Cửu Thiên Trường… Thánh Toà Trấn Tịnh Đạo Pháp Trường Hưng) (12e).
Đạo Cao Đài phải thực thi cho được:
…Tạo Đời cải dữ ra hiền.
Bảo sanh nắm giữ diệu huyền Chí Tôn. (12f).
Đạo Cao Đài không thể chỉ đề xướng chung chung mà phải có công thức, có nguồn máy, có đường hướng Chánh Trị Đạo để thực thi thì Đạo mới đáng là Đạo hướng Đời.
Đạo không thể đưa bánh vẽ ra cho nhân loại dùng.
Đạo cũng không thể đưa tấm thực đơn ra thay cho bửa tiệc.
Bánh phải là bánh thật.
Tiệc phải là tiệc thật. Món ăn phải được dọn lên, cổ bàn phải tươm tất và Tôn giáo phải có người tiếp đãi nhân loại thật chu đáo.
Người đời đãi nhau thì món ngon trước món thường đãi sau nhưng với Đức Chúa thì món thường đãi trước món ngon đãi sau. Hiểu được điều đó thì đấy cũng một trong những tiền đề thuận lợi để hiểu giá trị Cao Đài Giáo. (12g)
Giáo chủ Tôn Giáo Cao Đài có tuyên ngôn mạnh mẽ rằng: Ngày nào mà trên mặt thế nầy công lý và nhơn đạo đánh đổ đặng cường quyền và bạo ác thì Đạo Cao Đài mới làm tròn sứ mạng.
Với người chưa học đạo hay chưa hiểu những công thức, những thế tiềm ẩn trong kinh điển Tôn Giáo Cao Đài thì sẽ cho là chuyện lý tưởng viễn vông chứ không thể nào thực hiện được.
Với người học đạo và đã hiểu công thức DÂN MẠNH là nền tảng mà Đức Chí Tôn dùng trong cách thức lập pháp của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thì tuyên ngôn trên hoàn toàn có cơ sở để thực thi và thành công.
Đạo Cao Đài phải dùng phương pháp rất hoà bình rất êm tịnh để thực thi sứ mạng: Đem công lý và nhơn đạo đánh đổ cường quyền và bạo ác.
Đạo khẳng định rất rõ ràng: Đem Công Lý và Nhơn Đạo đánh đổ Cường Quyền, Bạo Ác chớ không phải đánh đổ cường quyền và bạo ác rồi mới xây dựng công lý và nhơn đạo. (Lịch sử nhân loại chứng minh phong trào hay thể chế nào dùng bạo lực làm phương tiện để bắt buộc hay trấn áp người dân thực thi chủ trương hay sách lược đã định thì nhất định sẽ sinh ra chia rẽ và loạn lạc. Lịch sử cũng cho thấy: Lộ trình của Đạo trái ngược với lộ trình xã hội. Xã hội thường dùng cách đánh đổ trước rồi mới xây dựng)
Nghĩa là Đạo xây dựng cái tốt trước {Công Lý và Nhơn Đạo} để thay thế cho cái xấu {Cường Quyền và Bạo Ác}.
Khoa học kỷ thuật đã đưa nhân loại đến nền kinh tế tri thức thì cuộc chiến nhân loại phải đương đầu là cuộc chiến tâm linh. Trong cuộc chiến tâm linh thì chân lý phải thắng. (Do sự bùng nổ thông tin liên lạc nên cái tốt hay cái xấu lan đi rất nhanh).
Cuộc đại cách mạng mà Đạo Cao Đài khởi xướng bắt nguồn từ chân lý, dụng chân lý để canh tân nhân thế. Cách mạng của chân lý cho nên không cần đến những khí giới xưa nay vẫn dùng trong chiến tranh mà vẫn thắng.
Khi một quốc gia hay là nhân loại đòi hỏi tự-do, kêu gọi đạo đức là quốc gia ấy hay thế giới đã thiếu tự-do, thiếu đạo đức.
Nguyên-nhân sự mất tự-do, hay nguyên do những điều vô-đạo-đức đều xuất xứ từ trí- xão, trá thuật mà sanh ra. Trí- xão, trá thuật được dùng để cung phụng cho dục-vọng của một thiểu số người có quyền lực về vật chất hay tinh thần.
Từ đó con người và xã hội đi vào đại-loạn! Buổi hạ-nguơn mạt-pháp Đấng Chí Linh dụng cơ bút lập ra Tôn-giáo Cao Đài. Tôn giáo đề xướng thực thi Nhân Nghĩa, Công Bằng, Bác Ái ….
Tôn giáo dụng người có từ tâm, dụng trí thức có tâm đạo kết hợp với nhau trong một nguồn máy có Pháp, có Luật, có khuôn thước bằng văn bút rõ ràng để phụng sự xã-hội.
Tôn giáo chủ trương kiến-thức Đông-Tây đều xuất phát từ chân lý nên vận dụng Đông Phương Triết học và Tây Phương Khoa Học chung cùng một chiến tuyến để phụng sự vạn linh; để thực thi tự-do bình-đẳng, công-bằng bác-ái.
Chân pháp thể hiện qua việc hiệp đồng nhau xây dựng một thế giới Đại Đồng Đồng Tiến do đạo-tâm từ nhân-thế. Vì:
Cường quốc chiến binh.
Bá quốc chiến trí.
Vương quốc chiến nghĩa.
Đế quốc chiến đức.
Hoàng quốc chiến vô vi.
-- Cường-quốc thì chiến tranh bằng binh-khí.
-- Bá-quốc dùng trí-thuật mà tranh nhau.
-- Vương-quốc thì áp dụng nhân-nghĩa mà tranh nhau.
-- Đế-quốc dụng ân-đức để tranh đạt.
-- Hoàng-quốc thì dụng Đạo mà thu phục nhân-tâm.
Vào buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ tận độ chúng-sanh, Tôn-giáo Cao-Đài dụng nhân-nghĩa, đạo-đức và thể-pháp trong chân-lý để giúp nhân-loại hiểu rằng:
Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp…
Hầu tự mình: “Sửa lòng trong sạch tụng cầu thánh kinh”;
Nghĩa là dụng đạo-tâm khai hóa nhân-tâm.
Nhân-loại phải có cuộc đại-đồng (tự-do) và quyền tự-quyết (dân-chủ) để từ đó mới tạo một cuộc sống mới một nền văn minh mới: Văn Minh Cao Đài Giáo hay là Văn-Minh Tâm-Pháp.
Cho nên mới khẳng định lộ trình thực thi của Đạo là rất hoà bình và êm tịnh.
Nhiều cá nhân đang sống mới tập hợp lại để tạo nên xã hội. Vậy thì xã hội phải được hiểu như một cơ thể sống mới phục vụ được cho người sống. Một cơ thể sống thì phải tiếp xúc và chất chứa trong bản thân nó đủ loại vi trùng, đủ loại tác nhân gây ra bệnh tật. Không có một cơ thể sống nào là không có vi trùng, không có các tác nhân gây bệnh tiềm ẩn. Cơ thể mạnh khoẻ có đủ sức đề kháng thì các loại vi trùng, các tác nhân gây bệnh phải nằm im đó không thể phát tác gây hại đến cơ thể. (Hoà Bình Chung Sống trong cùng một cơ thể).
Phòng bệnh hơn trị bệnh.
Phòng cháy hơn chữa cháy.
Phòng loạn hơn trị loạn.
Ngăn ngừa tội phạm hơn là trừng phạt tội phạm.
Luật: Thương Yêu.
Quyền: Công Chánh.
Tố chất Dân Mạnh chính là sức đề kháng sinh học lưu hành trong cơ chế xã hội để bắt buột các loại vi trùng có sẳn hay là mới phát sinh, các căn bệnh thâm căn cố đế trong guồng máy xã hội từ xưa đến nay im hơi lặng tiếng, không thể phát tác để gây đau khổ cho nhơn quần xã hội được nữa.
Tố chất Dân Mạnh là liều thuốc ngừa và cũng là phương thuốc đặc trị; ngoài nó ra không còn cách ngừa bệnh hay trị bệnh nào khác. Không có tố chất Dân mạnh thì không có loại thuốc nào ngăn ngừa hay điều trị được các căn bệnh kinh niên của xã hội mà nhân loại đã trải qua.
Truyền thuyết xưa vẫn kể thuốc của Tiên gia thì rất khó kiếm và rất quí. Ai có may mắn mới được dùng; khi dùng đến Tiên dược thì sẽ có hiệu quả tức thời.
Ngày nay Trời đến với nhơn loại qua cơ bút và cho nhơn loại một phương thuốc rất quí: Phương Thuốc Dân Mạnh… để thực thi lời hứa với tổ tiên loài người là sẽ đem hoà bình đến cho nhơn loại vậy.
Thực thi Dân mạnh thì tự nhiên mọi khó khăn xã hội sẽ thừa sức để vượt qua.
Dân mạnh là nền tảng quyết định để xây đời thánh đức. Sức mạnh ấy phải có cơ chế để thể hiện; cơ chế ấy chính là hệ thống pháp luật trong Tôn Giáo: Đạo Đức thể hiện qua hành động.
Với thành tựu của Khoa học kỷ thuật về công nghệ thông tin hiện có thì một điều gì nhân loại yêu thích sẽ được lan truyền rất nhanh; chân lý DÂN MẠNH sẽ lan truyền rất nhanh trong cộng đồng nhân loại.
Công dân từng quốc gia sẽ yêu cầu, sẽ bắt buột các nhà chính trị phải xây dựng hệ thống luật pháp Quốc gia có cơ chế Lập Quyền Dân thật rõ ràng. Đảng phái nào chậm chân sẽ mất lòng dân, mất sự tín nhiệm và hẳn nhiên là thất thế! Thể chế nào không chấp nhận sẽ bị nhân dân chính quốc gia họ tiêu diệt mà thôi…
Nhơn sanh là gốc của Tôn giáo. Dân là gốc của nước.
Giải quyết được bài toán gốc thì cái ngọn là Tôn giáo; là Nước đương nhiên sẽ có kết quả tốt. Đấy là sách lược bất chiến tự nhiên thành kỳ diệu xưa nay vẫn lưu truyền trong truyền thuyết đạo học.
Chúng tôi xin phép trích dẫn đoạn văn của Phạm Hộ Pháp để kết luận:
Đạo chẳng phải nơi lời nói, mà lại nơi kết quả của sự mình làm; chẳng phải nói câu kinh, câu kệ mà tại cuộc hành vi người giữ Đạo. Cái khó khăn của Đạo chẳng phải ở nơi sự giảng dạy mà ở tại sự thật hành. Cái hay của Đạo chẳng phải tại nơi yếu lý mà ở nơi cuộc kết quả sự giáo truyền.
Lạ chi: Mình muốn nhủ người bắt rồng, cột phụng, nghĩ có khó chi tiếng biểu, song cốt yếu là biết người có phương bắt hay là cột đặng cùng chăng?
Hể muôn điều chi nói ra mà thế gian làm không đặng thì đành cho là mộng mị.
Huống chi anh em đồng đạo của mình ngày nay chẳng khác nào như người đi trên đường nẽo lạ; tốt hơn nên khuyên nhủ họ mổi ngã khá ghi vôi, để dấu; bước lần hồi có khi khỏi lạc (13).
Tóm lại: Tôn giáo Cao Đài là một phát minh mới, một công thức mới để cung ứng hàng ngàn hàng vạn công thức mới, những phương cách giúp nhân loại xây dựng một thế giới mới, thế giới hoà bình, phồn vinh và tràn ngập tình thương trong thời kỳ toàn cầu hoá mà nhân loại đang cần theo đúng với qui luật cung cầu xưa nay vậy./.
                                          @@@

(1): Hòn đá nầy chồng lên hòn đá khác, lớp đất đá nầy chồng lên lớp khác… chồng chồng lớp lớp như thế được gọi là núi. Nhưng vì sao mà chúng phải chồng lên nhau? Với khoa học cho đó là hiện tượng sinh ra do những mãng võ trái đất bị trôi dạt, cuộc địa chấn… để tạo nên địa cầu.
Cây luôn luôn có khuynh hướng mọc thẳng lên và hướng ra ánh sáng. Nhưng vì sao chúng phải hướng lên và vươn ra ánh sáng như thế? Khoa học cho đó là do cần quang hợp… cần ánh sáng…
Với đạo học thì hòn đá nầy chồng lên hòn đá khác, cây mọc vươn ra ánh sáng và thẳng lên bầu trời có nghĩa là chúng đang tìm Trời. Chúng đi tìm Đấng đã tạo ra chúng… vì chúng vẫn có hồn (Vật chất hồn, thảo mộc hồn…).
Cái nhìn của đạo học có chất tươi tắn, sống động và rất thân thiện. Đạo học không phủ nhận hay bài bác những tìm kiếm hay phát hiện của khoa học. Nhưng đạo học sâu xa và dễ hiểu hơn khoa học khi giải thích vì sao nó phải chồng lên như thế, vì sao cây cối phải tìm đến ánh sáng phải vươn lên như thế.
Khoa học ngày nay có thể lấy trứng của người Nữ và tinh trùng của người Nam để tạo thành một bào thai trong ống nghiệm nên có lắm người nhìn phiến diện rồi vội vàng cho là khoa học thay quyền tạo hoá… Nhưng công bình mà nói Khoa học đã và đang học lấy qui luật tạo hoá để giúp nhân loại hiểu được sự kỳ diệu của tạo hoá còn hơn khoa học nghìn vạn lần.
Khoa học không thể tạo ra tinh trùng, không thể tạo ra trứng mà khoa học chỉ có thể hiểu và vận dụng qui luật sống và cách thức hoạt động của tinh trùng và trứng để tham gia vào qui trình Bảo Sanh mà thôi.
Một điều rất thiết thực: Khoa học phân tích để biết các thành phần trong máu, biết máu trong cơ thể được tạo ra như thế nào… để giúp đở con người khi cần thiết.  Nhưng khoa học hoàn toàn không thể lấy một ít thảo mộc, ngũ cốc hay trứng hay cá thịt… rồi tạo ra máu như cơ thể nhân loại đang làm.
Những biện chứng thực tế trên không phải bài bác khoa học; không ru ngũ hay đề cao niềm tin vào tôn giáo… mà chính là để những người đang có cái nhìn phiến diện về khoa học ý thức và nâng cao tinh thần tín ngưỡng. Nhà tôn giáo nhìn ra sự cần thiết và hữu dụng của khoa học trong cuộc sống mà bớt đi phần mê tín dị đoan. “Người tôn sùng khoa học không thể hô hào rằng khoa học thay quyền tạo hoá…. Nhà tôn giáo ý thức được tầm quan trọng của khoa học…”.
Cả hai giới đều hiểu được rằng tạo hoá kỳ diệu hơn những gì chúng ta đang biết rất nhiều. Ý thức được như vậy thì cả hai giới cần có cung cách ứng xữ thích hợp không nên lố bịch khó coi và gây khó chịu cho người khác…
(2) + (2a): TNHT. Q. 1. T: 54: Ngày 15-9 Bính Dần.
Đức Chí Tôn có dạy: “… mặc kệ nó, chúng nghi cho các con lo quốc sự.
Thầy vì các con xin lắm nên mới ép lòng chịu vậy, chớ chánh trị với Đạo chẳng buổi nào liên hiệp cùng nhau. Thầy nói ít các con hiểu nhiều”.
TNHT. Q1. T. 106: “… Các con vì Đạo là việc công lý mà công lý đánh đổ cường quyền thì Đạo mới phải Đạo….”  Cho nên phân tích các danh từ có trong xã hội lẫn Tôn Giáo không phải là chánh trị hoá Tôn giáo mà chính là tìm học chân lý Tôn giáo có trong văn bút.  Đó là tìm hiểu về Chánh Trị Đạo mà thôi.
Các công thức có từ nền Văn Minh Nông Nghiệp bước sang Văn Minh Công Nghiệp; Văn Minh Công Nghiệp bước sang Văn Minh Điện Tử và Vi Điện Tử thì đương nhiên là không đáp ứng được yêu cầu mới. Vậy thì xây dựng nền văn minh mới nền Văn Minh Cao Đài Giáo (Văn Minh Nhơn Đạo) tất yếu phải có công thức về Dân Chủ mới. Dịch lý là sự biến đổi không ngừng thì việc có công thức mới, có phát minh mới là đúng qui luật và thuận chiều dân vọng.
(3) Nói theo phép biện chứng thì hiện tượng phổ biến đến mức độ nào đó thì hiện tượng chính là bản chất.
(4): Q2. T. 51.
(5) Nói mà không bao giờ thực hiện được là mộng mị. Chủ trương dân giàu, dân chủ… mà dân vẫn cứ nghèo và Ông chủ là dân vẫn không hài lòng… hạ tầng vẫn không chấp nhận cái khuôn khổ dân chủ của thượng tầng ban ra mà vẫn cứ hô hào cứ tuyên truyền những điều mộng mị đó giữa đời thường nên gọi là mị dân.
Hiện nay chưa có một quốc gia nào có được tinh thần hay cơ chế lập quyền nhơn sanh như luật lệ và cơ chế Nội Luật Hội Nhơn Sanh “Luật Lệ Chung Các Hội và Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh” trong Tôn Giáo Cao Đài. Nhưng trong cao trào đòi hỏi dân chủ thì tất yếu là dân sẽ đòi hỏi cơ chế cho họ giám sát chính quyền về mọi phương diện chứ không phải chỉ làm chủ khi bỏ phiếu và trên giấy tờ, trên khẩu hiệu viết lên nơi công cộng rồi thôi. Chính thể nào không chấp nhận nguyện vọng Chủ quyền dân chủ của dân thì họ tự diệt lấy họ mà thôi.
Như thế công thức và phương cách thực thi Chủ quyền dân chủ là một công thức mới, một phát minh mới trong vô vàn công thức mới đã nẫy sanh và sẽ nẫy sanh từ Tôn Giáo Cao Đài để phụng sự Vạn linh trong hoà bình và êm tịnh. Đây là một minh chứng điển hình nữa cho câu Đạo hướng Đời.
(6): Hoàn toàn phù hợp với lời giảng của Đức Hộ Pháp: Phật thì giáo hoá; Tiên thì đào luyện mà Thánh thì trị. Trị mà đưa đến hoà bình và trật tự phải có Luật Trị. Cho nên Tân Luật cũng mở đầu bằng Luật Trị.
(Đạo Sử: Q2T 73. 02-11-Bính Dần: …Nghe Thầy dạy khởi đầu lập “Luật Tu” gọi là “Tịnh Thất Luật” kế nữa lập “Luật Trị” gọi là “Đạo Pháp Luật” ba là lập “Luật Đời” gọi là “Thế Luật” các con hiểu à… Nhưng khi Tân Luật hoàn thành thì Luật Trị lại đứng trước kế là Thế Luật và Luật Tịnh Thất đứng sau rốt.
Điều nầy cho thấy Luật Pháp quyết định sự tồn vong của Tôn Giáo Cao Đài).
Chức Sắc, Chức Việc Tôn giáo trước khi tham gia vào hệ thống hành chánh Tôn giáo để thực thi Chánh Trị Đạo đều phải thề rằng: Giữ dạ vô tư mà hành đạo; dầu cha mẹ, vợ con, anh em, cũng chẳng đặng phép tư vị, gìn dạ chơn thành, thể Thiên hành Đạo. (PCT. Tr: 50).
(7) Hội Thánh Anh: Từ phẩm Lễ Sanh trở lên… đều phải qua Đại Hội Nhơn Sanh. Hội Thánh Em “Bàn Tri Sự” thì do nhơn sanh tại địa phương công cử.
(8) Ngay sau lưng Đông Khán Đài và Tây Khán Đài đều có một khu rừng thiên nhiên liền kề để nói lên sức mạnh của dân là sức mạnh của Trời vậy.
(9) Đạo học thì không phân chia theo nghề nghiệp mà lại căn cứ vào tính chất cuộc sống (hay chất lượng – nội dung nhân quả) để phân chia thành 5 hạng người đến thế gian.
Không kể Binh vào dân vì Binh gắn liền với quyền lực cai trị quốc gia. Nếu lãnh đạo quốc gia đồng hành cùng quyền lợi của dân thì Binh là thành phần đi với Dân. Nhưng nếu lãnh đạo quốc gia không đồng hành thuận chiều với quyền lợi của Dân thì Binh sẽ là bộ phận đàn áp dân đẫm máu nhất như đã từng xãy ra trong lịch sử nhân loại!
(10) Nói thật tình và công bằng thì đồng tiền các vị kiếm được cho dù là có nghĩa hay bất nghĩa mà khi đã dùng đồng tiền đó để làm việc có nghĩa vẫn khá hơn, tốt hơn thành phần dùng đồng tiền bất nghĩa vào chổ bất nghĩa. Cho nên các vị được kính trọng, được yêu mến cũng là lẽ đương nhiên. Chúng tôi hoàn toàn không có ý trích điểm công việc từ thiện của các vị. Vấn đề chúng tôi muốn lưu ý để tạo nên sự suy nghĩ ở đây là các tôn giáo, các nhà lãnh đạo, những người có trách nhiệm chưa đưa ra được công thức để chấm dứt cảnh đã đẩy người dân đến cảnh phải cứu trợ thường xuyên đang diễn ra.
(11) Con ơi nhớ lấy câu nầy:  Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan.
Dân nhận thức điều nầy từ rất lâu nhưng do nơi phần lớn những kẻ có học uốn cong lẽ phải lấp mất lời tố cáo mạnh mẽ nầy và chưa có ai chỉ ra công thức đúng nên giải quyết chưa được mà thôi. Nay với công thức Lập Quyền Dân hay Chủ Quyền Dân Chủ, với công thức Dân Mạnh thì người yêu công lý có thể thở phào vì đã thấy lối ra cho nhân loại.
(12): Phật Mẫu Chơn Kinh, Kinh Giải Oan, Kinh Tắm Thánh, Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
Đạo Sử Q.2 Tr.239. (21-8 Bính Dần): Thầy dặn các con từ đây ai nói chi tuỳ ý, cứ nghe một Thầy thì khỏi lầm lạc. Con Trung cứ lo khai đaọ. Món binh khí tà quái vì đó mà tiêu diệt. Nước Nam có một chủ mà thôi là Thầy. Từ trước vì nhiều Đạo trong nước, mà chẳng một Đạo nào chơn chánh, làm mạnh quốc dân, nên nước phải yếu, dân phải hèn.  Dân tộc các con duy biết làm tớ chớ chưa biết làm chủ. Thầy vì thấy lẽ công bình thiêng liêng ấy mới giáng trần lập Đạo tại Nam phương tức là thay mặt Càn Khôn Thế Giới mà qui chánh truyền nhơn loại. Trong mối Đạo Thầy đã lập thì hằng nói tiên tri rằng: Ngày kia có một nước đương trong vòng nô lệ vì ta mà làm chủ nhơn- loại các con hiểu à!
(12a): Kinh Sám Hối.
(12b): Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối.
(12c): Qui Luật thực tế xưa nay: Người giàu phải cống nộp cho người mạnh. Khi dân giàu mà không mạnh thì phải đem tiền bạc lo lót cung phụng cho kẻ mạnh. Đó là cái tiền đề bền vững cho mọi sự tham nhũng bất trị hiện nay đang diễn ra trên toàn thể thế giới chứ không riêng cho một quốc gia nào.
Con đường sắp đặc sẳn và buộc dân cũng như quan chức phải bước vào thì làm sao không tham nhũng đựơc, làm sao minh bạch đựơc.
Dân Mạnh thì Chính phủ phải tận tâm tận lực phục vụ cho dân mới tồn tại được.  Cái chốt của vấn đề là nhận thức ra vấn đề rồi chấm dứt, đoạn tuyệt với công thức củ: (Dân giàu) và thực thi quyết sách mới: (Dân mạnh).
Công thức của Tôn giáo đã đảo ngược tình hình xã hội hiện tại 180o để dân nắm quyền chủ động một cách đầy thuyết phục; ít ra là bắt đầu từ ý tưởng nhận thức hay về nguyên lý vậy. (Nhà bác học Einstein được nhân loại công nhận là vĩ đại nhất trong thế kỷ 20 từng xác định: Ý tưởng là quan trọng số 1- Mọi phát minh bắt nguồn từ ý tưởng).
(12d) + (12đ) + (12e): U minh chung. (Rốt ráo của người học đạo là u mê hay tỉnh ngộ.  Cứu cánh Tôn giáo là đưa nhân loại từ cái u mê đến cái sáng suốt...)
(12f): Kinh Đại Tường.
(12g): Đức Chúa đi dự đám cưới ở Ca-na giữa chừng hết rượu. Đức Chúa dùng nước tạo ra loại rượu rất ngon để đãi tiếp. Người uống rượu phát hiện ra mới lấy làm lạ và nói rằng đám cưới nầy trái với mọi đám cưới khác đãi rượu thường trước rượu ngon sau…  Câu chuyện nầy ẩn ý Thời Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ chỉ giảng đạo khuyến thiện rồi đến Tam Kỳ Phổ Độ mới chỉ cho nhân loại công thức xây dựng Thế Giới Đại Đồng…
(13): Phương Tu Đại Đạo. Tr:1 Q.1. Theo bản chúng tôi có được thì không thấy ngày tháng hay năm xuất bản lần thứ nhất. (Lần thứ 2 là Năm Kỷ Dậu-1969-)
Ngoài nội dung có trong quyển sách thì cần suy nghĩ thêm điều nầy: PHẠM CÔNG TẮC tự ÁI DÂN trước tác. TÁC GIẢ GIỮ BẢN QUYỀN. Quyển Sách nầy có Hội Thánh Đại Đạo kiểm dượt.
Lưu ý thêm vì trên cương vị Hộ Pháp… Ngài đã hiến thân trọn vẹn cho Tôn giáo; Ngài để lại biết bao văn bút cho người đương thời cũng như hậu tấn mà không hề có bút hiệu riêng chứ đừng nói chi đến việc giữ lại bản quyền. Đây là một cách hành sự hết sức lạ thường và đầy ẩn ý mà hậu tấn học đạo phải truy tìm.
Có phải chăng Ngài viết như thế trong phong cách của một nhà cách mạng gởi một thông điệp chung cho hậu thế rằng: Đây là phương cách thương dân, thương nhân loại của Phạm Công Tắc. Một phần tử trong nhân loại thương nhân loại không phân biệt Lương hay Giáo.
Ngài đang thực hành Luật Đời??? Đang gánh cái gánh ĐỜI mà Đức Chí Tôn giao phó.  Thương dân là làm cho dân mạnh mà muốn dân mạnh thì dân phải hiểu bổn phận của mình đối với: ĐỜI; ĐẠO; và TRỜI.  Phải tùng theo ba cái luật thiên nhiên là: LUẬT ĐỜI; LUẬT ĐẠO; LUẬT TRỜI.
Dân trong bài nầy được hiểu theo mấy nghĩa: Dân trong quốc đạo hay Tôn giáo là nhơn sanh; Dân trong một quốc gia hay quốc thể là công dân.
Chính Trị Đạo giải quyết được phương trình đa ẩn số giúp nhân loại (nhơn sanh trong Tôn giáo; Dân trong quốc gia-xã hội) xây dựng kỳ được cuộc sống hoà bình hạnh phúc đúng với giáo lý Tôn giáo./.

Năm đạo thứ 80.
Kính Tưởng sinh nhật Tôn Sư
Tiết Tiểu Mãn. 05-5- Bính Tuất. DL: Thứ Tư; 31-5- 2006.