Trang

Thứ Sáu, 3 tháng 1, 2020

3036. LUẬT LỆ CHUNG CÁC HỘI. (1934)



TRẢ LỜI BẠN ĐỌC. 

Cảm ơn nhị vị hiền huynh Trần Trung Hiếu (Tây Ninh) và hiền đệ Dũng (Tuy Phước), BBT gởi lên đây nguyên văn LUẬT LỆ CHUNG CÁC HỘI.


Lập Tại Toà Thánh Ngày 16-11- Năm Giáp Tuất.
(22- Décembre 1934).
Hộ Pháp.
Chưởng quản Nhị Hữu Hình Ðài.
Hiệp Thiên và Cửu Trùng.
Phạm Công Tắc.



NGUYÊN VĂN:



ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ.
Ðệ Cửu niên.
TOÀ THÁNH TÂY NINH.
&&&

LUẬT LỆ CHUNG CÁC HỘI.

Khi nhóm Hội chư Nghị viên tuân y điều lệ sau đây:
Ðiều Thứ Nhứt: Lễ trước lúc mở hội.
Khi Nghị Trưởng vào hội lại ghế Chủ toạ thì chư Nghị viên phải đứng dậy thủ lễ với người chờ người ngồi trước rồi chư Nghị viên mới ngồi sau.
Khi cả thảy ngồi xuống thì Nghị trưởng đứng dậy trước, rồi cả thảy đứng dậy sau và phải giữ vẽ nghiêm trang. Ðoạn tay bắt ấn tý lấy dấu và mặc niệm năm câu chú và cầu khẩn Ðức Chí Tôn bố trí chung rồi cả Hội đọc Kinh Nhập Hội. Khi đọc rồi niệm câu chú của Ðại Từ Phụ.
Ðoạn chờ cho Nghị trưởng ngồi rồi chư Nghị viên mới ngồi sau.
Ðiều Thứ Nhì: Mở Hội.
Nếu có điều chi mà cả Hội định phải sửa đổi vì không y theo lời đã bàn định thì Nghị trưởng cho lịnh Từ hàng lập tức sửa lại liền và cho biết luôn sự kết quả các lời bàn định trong tờ vi bằng ấy.
Kế đó đem các vấn đề trong chương trình bửa nhóm mà bàn định.

Ðiều Thứ Ba: Phận sự Nghị trưởng.
Trong hội nhóm Nghị trưởng hay là Chủ toạ đem các vấn đề sắp đặc có thứ tự trong chương trình cho Nghị viên bàn luận.
Nghị viên không đặng bàn tính việc gì khác hơn là vấn đề đang tranh luận cho tới vấn đề “tạp vụ”.
Nghị trưởng khi xướng đề ra nói rành rẽ cho chư Nghị viên thông hiểu, rồi để cho Nghị viên tự do bàn luận chẳng nên cải lẫy điều chi với Nghị viên và chờ khi bàn cải rồi thì kết luận những ý kiến của chư Nghị viên và cho hiểu rõ mà công nhận hay là huỷ bỏ.

Ðiều Thứ Tư: Phận sự Phó Nghị trưởng.
Phó Nghị trưởng giúp Nghị trưởng về việc ban hành các lời bàn định. Trước khi mời nhóm hội chung trí với Nghị trưởng lập chương trình và khi Nghị trưởng vắng mặt vì bận việc, hoặc phải hành đạo phương xa, hoặc khi đau ốm thì Phó Nghị trưởng đủ quyền thay thế.
Ðiều Thứ Năm: Phận sự Từ Hàng.
Từ hàng giúp Nghị trưởng lập chương trình, thiệp mời, lập vi bằng và lo các giấy tờ trong văn phòng Nghị trưởng và Phó Nghị trưởng.
Khi hội nhóm lúc Nghị viên bàn tính thì chăm chỉ biên các lời bàn tính, rồi chừng bãi hội lập vi bằng và tờ sao lục các lời bàn tính. Từ hàng được chọn lựa người phụ sự đặng giúp mình trong việc giấy tờ.
Ðiều Thứ Sáu: Cách bỏ thăm.
Việc bỏ thăm có hai cách:
a- Khi việc cần yếu trọng hệ thì phải bỏ thăm kín.
b- Khi việc thường thì bỏ thăm dơ tay.
Những việc chi bàn tính nếu được phân nữa số thăm của cả Nghị viên hiện diện thêm một lá nữa thì việc ấy được công nhận. Thoản như số thăm đồng nhau Nghị trưởng bỏ thăm bên nào thì lời bàn định bên ấy được công nhận.
Nếu một phần năm (1/5) Nghị viên hiện diện xin bỏ thăm kín thì Nghị trưởng cho lịnh y theo.
Ðiều Thứ Bảy: Số Nghị viên.
Kỳ nhóm lệ: Dầu số Nghị viên hiện diện bao nhiêu hội cũng cứ nhóm và lời bàn định cũng có giá trị như khi nhóm đều đủ vậy.
Kỳ nhóm ngoại lệ: Số Nghị viên phải được phân nữa cái số chung và thêm một vị nữa nếu chẳng đủ số định trên đây thì Nghị trưởng đình lại và cho Quyền Chí Tôn hay hoặc là huỷ bỏ quyền hội hay là trừng trị cách nào tuỳ ý. Còn Hội cũng cứ việc hội như số Hội viên đều đủ.
Ðiều Thứ Tám: Những việc Nghị viên muốn đem ra hội.
Nghị viên nào muốn xin canh cải, thêm bớt huỷ bỏ điều chi trong Luật đạo hoặc nói khác xin hạch hỏi, kích trách tại giữa hội thì phải gởi tờ xin trước ngày nhóm y theo hạng lệ đã định trong nội luật mỗi Hội nhóm.
Ðiều Thứ Chín: Quyền bàn tính.
Mổi Hội viên được quyền nói thông thả song phải thủ lễ nghĩa, giữ hạnh khiêm cung lấy lời tao nhã êm thuận chẳng nên nóng nãy và lớn tiếng mà làm cho mất vẽ ôn hoà của Hội.
Mỗi khi muốn nói phải đưa tay xin phép rồi chờ Nghị trưởng phân theo thứ tự cho phép mới được nói.
Chừng được phép nói, khi nhóm Ðại Hội nếu số Nghị viên trên hai mươi người thì phải đứng dậy nói.
Trong một cái vấn đề đem ra bàn luận thì Nghị viên được phép nói ba lần mà thôi, mỗi lần chẳng đặng quá 5 phút.
Nghị viên nào có xin trước y theo điều thứ tám đã buộc thì được quyền đem việc mình muốn xin sửa cải, hoặc mình muốn tra vấn, ra nói một lần trong nửa giờ; khi phải minh triết thêm nửa thì được nói thêm hai lần nửa, mổi lần 10 phút đồng hồ.
Khi hai hoặc nhiều Nghị viên đưa tay lên một lược xin phép nói thì Nghị trưởng định cho người chức lớn hoặc như đồng chức nhau thì người tuổi tác lớn nói trước rồi kế cho đến hết người xin một lược.
Ðiều Thứ Mười: Buổi nhóm.
Mổi buổi nhóm không nên quá 4 giờ đồng hồ; Chư Nghị viên phải đến cho đúng giờ nhóm chớ nên vô cớ mà bê trể.
Như Nghị trưởng định nhóm giờ nào khi quá giờ ấy 15 phút đồng hồ phải mở Hội không kể số Nghị viên nhiều ít.
Thoảng như Nghị trưởng vắng mặt hoặc đến trể thì Phó Nghị trưởng thay thế, một Nghị viên chức lớn hoặc lâu củ hơn hết hoặc tuổi tác lớn hơn hết ngồi ghế Phó Nghị trưởng.
Chừng Nghị trưởng đến thì ngồi chỗ Nghị viên.
Còn như Nghị trưởng và Phó Nghị trưởng vắng mặt hoặc đến trể thì hai Nghị viên chức lớn, hoặc lâu củ hơn hết ngồi Nghị trưởng và Phó Nghị trưởng.
Chừng Nghị trưởng và Phó Nghị trưởng đến thì ngồi chổ Nghị viên.
Nếu vô cớ mà không đến nhóm Hội thì phải bị phần phạt có định trong các nội luật.
Ðiều Thứ Mười Một: Tư cách Nghị viên.
Nghị viên nếu là Chức Sắc hay Chức Việc thì phải mặc Thiên Phục hay Ðạo Phục.
Còn Tín đồ thì phải mặc y phục thường cho trang hoàng sạch sẽ, phải bạch y theo hạng Phái viên của Hội Thánh ban cho.
Cả Nghị viên đều phải thủ lễ nghĩa chung với nhau. Ngồi trên ghế mình phải ngay thẳng không nên dựa nghiêng dựa ngữa hoặc xếp bằng hoặc co chơn lên vén ống quần mà gãi. Không nên hút thuốc ăn trầu, phải ngồi một chổ chờ cho đến khi Hội giải tán.
Trước khi giải tán thì Hội Trưởng và Nghị viên đồng đứng dậy như trước khi nhập hội và tụng kinh Kinh Bãi Hội. Ðoạn lấy dấu niệm câu chú của Ðại Từ Phụ rồi xá ba xá mà lui ra cho có hàng ngủ thứ tự.
Ðương nhóm mà vị nào có việc phải ra ngoài thì phải xin phép Nghị trưởng xong rồi phải vô liền.
Nếu vị nào làm mất cách lịch sự giữa Hội thì Nghị trưởng rung chuông, xin vị ấy giử phép lịch sự. Khi Nghị viên đương nói mà nổi giận, làm điều vô lễ thì Nghị trưởng rung chuông ngăn lại đặng khuyên giải.
Nếu chẳng khứng nghe thì Nghị trưởng hỏi ý kiến của cả Nghị viên khác, như phần đông đồng ý kiến thì Nghị trưởng mời ra khỏi hội.
Thoảng như cường ngạnh thì Nghị trưởng rung chuông ngưng bàn tính chừng 5 phút trở lại; đệ vị ấy ra ban nội trị; chừng yên rồi thì rung chuông nhóm lại.
Khi một Nghị viên đang bàn luận thì người khác ngồi nghe chẳng nên xen vô làm đứt đoạn. Nghị trưởng sẽ rung chuông chỉ trách người nào làm mất phép lịch sự ấy.
Nghị trưởng khi thấy Nghị viên nào tỏ sắc giận giũi xin phép nói đặng cố ý tỏ nét giận của mình ra thì được quyền không cho phép nói.
Ðiều Thứ Mười Hai: Hỏi ý kiến Nghị viên.
Khi có điều chi cần phải hỏi ý kiến từ Nghị viên thì Nghị trưởng phải hỏi trước hết vị nào nhỏ chức hơn, hoặc khi đồng chức thì vị nào nhỏ tuổi hơn hết, cứ như vậy cho đến Phó Nghị trưởng.
Ðiều Thứ Mười Ba: Ðại Hội tại Toà Thánh. Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh.
Hai Hội nầy nhóm tại nhà nhóm trong Toà Thánh.
Lễ khai mạc: Trước giờ mở hội thì Nghị trưởng phái vài Nghị viên đi rước Giáo Tông và Hộ Pháp đến dự lễ.
Khi Nhị vị Ðại Thiên Phong nầy đến thì Lễ viện cho lịnh nhạc trổi tiếp mừng. Chánh Phó Nghị trưởng, Chức sắc Hiệp Thiên Ðài và Nội chánh Nam Nữ ra tại cửa đón rước. Cả Hội viên đồng đứng dậy chờ cho Nhị vị an toạ mới ngồi sau. Giáo Tông ngồi ghế Chủ toạ bên tay mặt thì Hộ Pháp, bên tay trái thì Nghị trưởng.
Giáo Tông đọc bài diễn văn khai hội. Hộ Pháp chú giải những luật pháp mà hội không hiểu rõ. Kế đó Nghị Trưởng đọc bài diễn văn chương trình buổi nhóm .
Khi Nhị vị Ðại Thiên Phong về; Chánh; Phó Nghị trưởng và Chức sắc đồng đưa ra đến cửa còn Hội viên cũng đứng dậy như khi hai vị Ðại Thiên Phong đến.
Ty cảnh sát tuần phòng ở ngoài hầu giử.
Lúc nhóm Hội Nhơn Sanh thì một Lễ Sanh Phái Ngọc lãnh cai quản Ty ấy mặc thiên phục, buộc giây sắc lịnh Tam Sắc Ðạo của Hiệp Thiên Ðài ban cho trong lúc Hội nhóm khi Hội giải tán thì đem nạp lại cho Hiệp Thiên Ðài.
Lúc nhóm Hội Thánh thì một Giáo Hữu Phái Ngọc cai quản Ty ấy; mặc thiên phục buộc giây sắc lịnh Tam Sắc Ðạo của Hiệp Thiên Ðài ban cho trong lúc Hội nhóm. Khi Hội giải tán thì đem nạp lại cho Hiệp Thiên Ðài. (Mổi 2 giờ đồng hồ đổi phiên canh).
Ðiều Thứ Mười Bốn: Ban Uỷ Viên.
Ngánh:
Khi Nghị trưởng và cả thảy đều trở lại chổ ngồi yên rồi thì Hội chọn cử bốn Ban Uỷ viên Ngánh:
1- Phái Thái.
2- Phái Thượng.
3- Phái Ngọc.
4- Phái Nữ.
Ðặng chia các việc đã đem vào chương trình hầu bàn tính ít người cho dễ dàng thấu đáo mọi việc.
Mổi ban Uỷ viên có chừng 5 hoặc 7 nghị viên :
. Một Nghị trưởng.
. Một phúc sự viên.
. Mấy vị kia làm Nghị viên.
Mổi khi bàn định điều chi rồi thì phúc sự viên tóm tắc lại lập một tờ phúc để đệ ra Ðại Hội nghị quyết.
Chư Nghị viên Ban uỷ viên khi nhóm thì mặc đạo phục dùng hằng ngày.
Ðiều Thứ Mười Lăm:
Hội Nhơn Sanh thường xuyên và Hội Thánh thường xuyên cũng nhóm tại nhà nhóm, nhưng không có lễ nhạc rước đưa Giáo Tông và Hộ Pháp vì hai vị nầy không cần đến nhóm Hội.
Ty Cảnh sát tuần phòng cũng canh giử nhưng không mặc Thiên phục và đạo phục với dây sắc lịnh.
Ðiều Thứ Mười Sáu: Thượng Hội.
Bửa lễ khai hội thường lệ thì có ba Nam Chánh Phối Sư đến rước Giáo Tông và Hộ Pháp và cả Nghị viên Nam.
Nữ Chánh phối sư thì đi rước Nữ Ðầu Sư.
Cả Chức sắc Hiệp Thiên Ðài và Cửu Trùng Ðài Nam Nữ hiện diện tại Toà Thánh mà không có phận sự cần yếu mặc Thiên phục đến trước điện hầu chực tiếp rước. Khi Giáo Tông và Hộ Pháp đến thì Lễ Viện cho lịnh đánh 6 hồi chuông trống. Dứt hồi chuông trống thì chư Nghị viên vào Ðại Ðiện làm lễ bái Ðấng Chí Tôn, nhạc đánh bản tấu Quân Thiên chừng nhạc dứt cả Nghị viên toạ vị mới khai hội.
Bốn Chánh Phối Sư tạm xuất ngoại chờ có lịnh mời mới đến.
Cả Chức sắc khác vào Thiên Phong Ðường chờ chừng bãi hội đến hầu lễ đưa.
Hội nhóm tại bữu điện nơi Ðại Ðiện thì nổi hương đăng, cửa màn mở ra, 6 Lễ Sanh ba phái đứng hầu trong Bát Quái Ðài, 2 Lễ Sanh Nữ hầu bàn Phật Quan Âm, 2 Lễ Sanh Phái Ngọc hầu bàn Quan Thánh. Mổi giờ đồng hồ phải thay đổi.
Ty Tuần Phòng cảnh sát và Bảo Thể Quân có một vị Giáo Sư Phái Ngọc cai quản đứng trước cửa hầu giử chỉnh tề cho đến bãi hội. Mổi 2 giờ thì đổi phiên. Chức sắc ấy mặc Thiên Phục và buộc giây sắc lịnh Tam Sắc Ðạo của Hiệp Thiên Ðài ban cho trong lúc Hội nhóm. Khi Hội giải tán thì đem nạp lại cho Hiệp Thiên Ðài.
Lúc bãi hội chư Nghị viên ra về Lễ viện cũng cho lịnh đánh 6 hồi chuông trống là lễ đưa. Bốn Chánh Phối Sư đưa chư Nghị viên đến dinh mỗi vị.
Ðiều Thứ Mười Bảy:
Thượng Hội thường xuyên thì nhóm tại Giáo Tông Ðường không có mấy lễ rước đưa như Hội thường lệ.
Ty Cảnh Sát tuần phòng cũng canh giử nhưng mặc y phục thường và không buộc giây sắc lịnh. Lễ Viện không đổ chuông trống và đánh nhạc.
Ðiều thứ Mười Tám:
Nếu ngày sau có điều chi sửa cải huỷ bỏ hoặc cần ích thì truất bỏ hoặc thêm vô luật lệ nầy.
Lập Tại Toà Thánh Ngày 16-11- Năm Giáp Tuất.
(22- Décembre 1934).
Hộ Pháp.
Chưởng quản Nhị Hữu Hình Ðài.
Hiệp Thiên và Cửu Trùng.
Phạm Công Tắc.
&&&

Ðánh máy lại theo bản in năm Bính Tý (1936):
THÁI HOÀ ẤN QUÁN – TOÀ THÁNH TÂY NINH.
Ngày 04-3-Ất Dậu. (2005).