Trang

Thứ Sáu, 17 tháng 1, 2020

3057. CÔNG THỨC DÂN CHỦ CAO ĐÀI GIÁO (tt3)

Năm 2006 Tôi soạn quyển CÔNG THỨC DÂN CHỦ CAO ĐÀI GIÁO có đăng trên trang web chonphapcaodai.net, Nay xin đăng lại theo đề nghị bạn đọc. Hội Thánh chưa kiểm duyệt, khi đọc xin cẩn thận. Dương Xuân Lương (N.O.P) 
BÀI 4.
QUỐC ĐẠO.
      “Quốc Gia - Đạo Đức”
  “Quốc Tế - Đạo Đức”

Theo các văn bản chính thống của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thì có lẽ từ Quốc Đạo được Đức Chí Tôn dạy lần đầu vào ngày 13-8- Bính Dần (1926). (1)
Từ đây trong nước Nam duy có một Đạo chơn thật là Đạo Thầy đã đến lập cho các con, gọi là “QUỐC ĐẠO” hiểu à!
Thầy buộc các con hiệp chung trí mà lo vào đó, nghe à!”.
Sau đó trong bài thi Đức Chí Tôn cho Quốc Trưởng Bảo Đại có câu:
Quốc Đạo kim triêu thành Đại Đạo.
Nam Phong thử nhựt biến Nhơn Phong.
Hai câu thơ trên cũng như riêng chữ Quốc Đạo Đức Hộ Pháp (ĐHP). đã có thuyết giảng nhiều lần… Nên chúng tôi xin phép không nhắc lại.
Tại sao chúng tôi không nhắc lại? Bởi mấy lý do:
- Những bài đó đã có văn bút rõ ràng ai cũng có thể đọc trực tiếp.
- Đức Ngài từng căn dặn: Những lời giảng của Ngài là một gợi ý để khai mở vấn đề, khai mở tâm đạo trong mỗi con người; ấy là bệ phóng cho tư tưởng hậu tấn cao hơn, rộng hơn và sâu sắc hơn chứ không phải chỉ có bấy nhiêu vấn đề hay vấn đề chỉ có vậy là kết thúc.


Những lời thuyết giảng của Ngài luôn luôn chừa một khoản trống cho nhơn sanh suy nghĩ. … (2)
Hậu học tự xét chưa xứng đáng trong muôn một với lời dặn dò ân cần và thiết yếu của Đức Ngài dành cho hậu tấn. Tự biết mình đức tài chưa đáng song có tâm can với sự nghiệp Đại Đạo nên cũng mạo muội tìm hiểu.
Những tìm kiếm và thu thập dưới dây như là một cách thức thể hiện:
- Bổn phận phải trau dồi học vấn. (hiểu đúng)
- Hiệp cùng các môn sinh thực thi chủ nghĩa Cao Đài. (Hiệp đồng nhau làm đúng).
- Bày tỏ tấm lòng biết ơn với các Bậc Tiền Bối Đại Đạo.
May ra thì gượng gạo mà gọi rằng thừa kế trong muôn một trách nhiệm xây dựng Tôn Giáo Cao Đài của Đức Tôn Sư và các Bậc Tiền Bối đã cán đáng, đã gánh vác, đã chịu đựng biết bao nhiêu gian khổ vẫn dành hết lòng ưu ái hết tâm trí cho sự nghiệp của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
A- GHI NHẬN.
I- Ngôn Luận Lưu Hành.
Vấn đề Quốc Đạo ngày nay đang được giải thích qua mấy ngôn luận:
1- Đạo Cao Đài được khai sinh trong nước Việt Nam không phải là Tôn Giáo du nhập từ ngoại quốc như Phật giáo Công giáo… nên gọi Cao Đài là Quốc Đạo. (Đạo được khai sinh trong nước).
2- Cho đến khi nào chính thể đương quyền nhìn nhận Đạo Cao Đài là tôn giáo chính thức của Việt Nam thì bấy giờ Cao Đài là Quốc Đạo.
3- Khi một đại đa số dân chúng trong nước theo Tôn Giáo Cao Đài thì bấy giờ Cao Đài là Quốc Đạo.
Phân tích ba cách hiểu và giải thích như trên ta thấy:
Với cách một: thì không riêng gì Cao Đài mà tất cả các Tôn giáo khác khai sinh trong nước Việt Nam đều được gọi là Quốc Đạo. Trong khi Thánh Ngôn Thầy có dạy rõ: “…Từ đây trong nước Nam duy có một Đạo chơn thật là Đạo Thầy đã đến lập cho các con, gọi là “QUỐC ĐẠO” hiểu à!...”.
Với cách hai: Cho đến khi nào mà chưa có một thể chế đương quyền nào nhìn nhận thì Đạo Cao Đài chưa được coi là Quốc Đạo. Nếu một thể chế đương quyền nầy nhìn nhận rồi một thể chế đương quyền sau đó không nhìn nhận thì Đạo Cao Đài không còn là Quốc Đạo.
Khi được thể chế đương quyền nhìn nhận thì có.
Khi thể chế đương quyền không nhìn nhận thì không.
Sự tồn vong tư cách Quốc Đạo như thế có đáng hay không??? Tư cách Quốc Đạo mà sự tồn vong lại không tự quyết định được…
Trong khi ĐHP từng có bút phê khẳng định: … “Còn nay thì Hội Thánh Phước Thiện đã thành lập, Đạo Cao Đài thành Quốc Đạo thì khuôn luật buột ràng không còn như trước nữa đặng.
Cả Chức Sắc Cửu Trùng Đài hay Phước Thiện cũng là một vị quan lại của Chánh Trị Đạo, hể phạm tội thì án luật định hình không ai tránh khỏi đặng.
Như thế mới trừ đặng cái hại: Mượn danh đạo tạo danh mình, nương bóng đạo đức lợi cho mình
” … (3).
Với cách ba: phải chờ có cuộc tổng kiểm kê và xác định tỷ lệ người theo Đạo Cao Đài… rồi mới có được gọi là Quốc Đạo hay không. Nếu đa số theo Đạo Cao Đài thì đựơc nhìn là Quốc Đạo chưa được đa số thì phải đợi…
Vậy: Ai là người đứng ra kiểm tra? Khi nào thì kiểm tra? Công việc làm như thế là phí phạm biết bao nhiêu ngày giờ, tài lực, vật lực, nhơn lực… Căn cứ vào đâu để tin vào con số nên hình qua giấy tờ báo cáo… trong khi cuộc sống đang cuồn cuộn, đang không ngừng phát triển và thay da đổi thịt ngoài kia…
Từ phân tích và thực tế cho thấy cả ba cách hiểu Quốc Đạo như thế đều có những điểm chưa thoả đáng và trông chờ vào tha lực.
Nói thẳng thắn là Người học đạo không dùng ngôn ngữ chỉ hơn chỉ thiệt đã có trong văn bút chính thống về ý nghĩa đích thực chữ Quốc Đạo để trả lời với bất cứ ai, bất cứ thế lực nào muốn xuyên tạc ý nghĩa chữ Quốc Đạo… đã được ĐHP xác định trong nhiều bài thuyết đạo. (4).
Mặt khác qua các cách hiểu như trên sẽ không có sức thuyết phục (nếu không muốn nói là tai hại) với người đang tìm hiểu giáo lý Tôn Giáo Cao Đài bằng ý thức hay tinh thần Nhân Văn tín ngưỡng, khi họ tiếp cận.
Kế thừa tự thân nó mang tính chắc lọc và tiến bộ cho nên hậu tấn học đạo phải căn cứ vào những định hướng đề ra về Quốc Đạo từ Thánh Ngôn hay đã được ĐHP giảng rất nhiều lần từ Lời Thuyết Đạo cho đến bút phê…
Tất cả đều thể hiện: Quốc Đạo đã nên hình.
Vậy phải hiểu vấn đề Quốc Đạo như thế nào cho thoả đáng?
II - Hiểu từ Quốc gia.
Thế giới hiện nay quan niệm một quốc gia phải hội đủ ba thành tố:
- Dân Tộc.
- Lãnh thổ.
- Chính quyền.
Dân tộc thì không phân biệt màu da sắc tóc; không căn cứ vào việc dân tộc ấy có ngôn ngữ riêng hay dùng một ngôn ngữ nào làm chuẩn. Dân tộc cũng không ấn định trình độ văn hoá hay khoa học kỷ thuật…
Lãnh thổ thì không phân biệt lớn nhỏ; không tuỳ thuộc vào bán đảo, hải đảo hay đất liền…
Chính quyền thì không kể đến chánh thể quân chủ, dân chủ hay liên bang…
Khi ba thành tố ấy hội đủ thì tự thân nó là một Quốc gia. Cho nên có những Quốc Gia có hàng tỉ người và những Quốc Gia vài triệu người… Quốc gia luôn luôn có 2 mặt để đối phó: Đối ngoại và đối nội.
Đối ngoại thì bảo vệ biên cương lãnh thổ bằng các biện pháp Quân Sự, Chính Trị, Kinh Thương, Ngoại Giao… cùng là giao thiệp với các quốc gia khác để quãng bá cái hay đẹp của quốc gia mình và học hỏi cái hay của Nước khác về phụng sự nhân dân.
Đối nội thì tuỳ vào tình trạng dân trí mà sắp xếp và tổ chức để xây dựng và phát triển quốc gia. Tuy rằng đối nội thì tuỳ vào tính đặc thù đang có nhưng cũng phải phù hợp với đà tiến chung của nhân loại (như dân chủ hay khoa học kỷ thuật…).
Một Quốc Gia ngày nay có ranh giới hành chánh từ Ấp, Xã , Quận , Tỉnh… cho đến bộ máy Trung Ương. Quốc gia nào cũng có bộ máy quyền lực và bộ máy chuyên môn từ cao đến thấp để lo các vấn đề khoa học kỷ thuật cho dân chúng trong đất nước được mở mang học vấn có cuộc sống khoẻ mạnh….
Lưu ý là có những trường hợp gần như là một Quốc Gia nhưng chưa đủ gọi là một Quốc Gia đầy đủ quyền hạn trước Cộng đồng thế giới như Palestine hiện nay…. Hay một số tổ chức đặc biệt như Toà Thánh Vatican…
III- Hiểu Qua Tôn Giáo.
Một số Tôn giáo như Công Giáo, Phật Giáo hay Hồi Giáo hiện nay có được một đại đa số dân chúng trong quốc gia ấy tuân phục và tin theo giáo lý của một trong các tôn giáo kể trên như:
- Châu Á có Thái Lan, Lào, Cao Miên… theo Phật giáo.
- Một số quốc gia ở Châu Âu như Ba Lan, Ý…. theo Công giáo
- Một số quốc gia ở Trung Đông ở Châu Phi, Châu Á theo Hồi Giáo.
Tôn giáo chiếm đa số trong một quốc gia nào thì Tôn giáo đó được nhìn nhận là Quốc Giáo.
Đặc biệt Công Giáo có một thủ đô riêng được cả thế giới nhìn nhận (Quốc tế hoá), có đại diện của Công Giáo ở Liên Hiệp Quốc như một quốc gia… hay một số các quốc gia có thiết lập một cơ quan ngoại giao để giao thiệp với Toà Thánh Vatican coi như giao thiệp với một quốc gia … Vatican là nơi lãnh đạo tối cao của Đạo Công Giáo trên toàn thế giới không phân biệt màu da sắc tóc chủ nghĩa chính trị hay trình độ dân trí dân sinh…Nơi nào có Đạo Công giáo thì nơi đó có sự hướng dẫn của Toà Thánh Vatican đó là một sự thật hiển nhiên. (Phật Giáo hay Hồi giáo không có những nét như vừa nhận xét nơi Toà Thánh Vatican).
Công giáo, Phật giáo hay Hồi giáo được nhìn nhận là Quốc giáo ở nhiều quốc gia nhưng không có một Tôn giáo nào kể trên tự nhận hay được tôn vinh là Quốc Đạo. Không một Tôn Giáo nào tuyên bố hay đăng ký Quốc Đạo trước toàn thể nhân loại.
Vì sao không có danh xưng Quốc Đạo?  
Bởi vì tự thân nơi Công giáo cũng như những Tôn giáo khác không có chủ đích hay đường lối của Quốc Đạo. Từ không có chủ đích nên không có công thức, không có giáo án … để xây dựng Quốc Đạo.
Như vậy: Việc không hội đủ những thành tố của Quốc Đạo là do tự thân của các Tôn giáo chứ không phải do một tha lực nào từ ngoài.
B- QUỐC ĐẠO- CAO ĐÀI.
* Về mặt Thiêng Liêng: Đức Chí Tôn (Thượng Đế hay Trời) dùng cách thức xây bàn, chấp bút và cầu cơ (gọi chung là cơ bút) để thu nhận đệ tử hoằng khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Còn gọi là Đạo Cao Đài.
* Về mặt xã hội: Đạo Cao Đài tổ chức Lễ Khai Đạo ngày 15-10 – Bính Dần (1926) tại Từ Lâm Tự làng Long Thành –Tỉnh Tây Ninh- Nam Phần Việt Nam.
Tôn giáo Cao Đài được khai sinh tại một nước nhỏ trên thế giới và còn đang chịu trong vòng nô lệ của Pháp Quốc.
Nhưng 02 tháng trước khi tổ chức Lễ Khai Đạo Đức Chí Tôn đã xác định: …Từ đây trong nước Nam duy có một Đạo chơn thật là Đạo Thầy đã đến lập cho các con, gọi là “QUỐC ĐẠO” hiểu à!...
Người theo đạo nào cũng tin vào giáo lý tôn giáo mình theo. Cho nên việc tìm học để biện chứng cho chính mình và chứng minh tính cách Quốc Đạo của Tôn giáo với người khác thiết tưởng là công việc chung của mọi người có đạo. Đạo Cao Đài ngay từ những năm đầu khai đạo và thành lập tôn giáo đã có:
I/- Pháp Luật phân minh.
1- Pháp Chánh Truyền: PCT được hiểu như Hiến Pháp thành văn làm nền tảng về Pháp cho Quốc Đạo. (Không có PCT thì không có Tôn Giáo Cao Đài. Làm sai PCT là cái sai nặng nhất)
Đạo là Vô tự.
Tôn giáo là Văn Tự.
PCT xuất phát từ Đạo (Đức Chí Tôn) để tạo nên Tôn giáo (Nhơn Sanh) nên bất di bất dịch không cho phép sửa đổi dưới mọi hình thức.
Ngày nay nhân loại đã quá chán ngán với các hình thức cấm đoán từ quyền Đạo đến quyền Đời. Cấm đoán là hai từ mà người có hiểu biết và người có lòng với nhân loại luôn luôn đề cao cảnh giác.
Tại sao có sự chán ngán ấy? Vì các sự cấm đoán xưa nay đều là của tầng lớp thượng tầng đặc ra cho hạ tầng thi hành.Trong khi thượng tầng không thực hiện mà còn dùng nó làm bình phong để che dấu lòng gian tham của thượng tầng. (4a).
Xưa nay chỉ có thượng tầng có quyền ra lệnh cấm đoán hạ tầng thế nầy thế nọ chứ có bao giờ hạ tầng lại ra lệnh cấm đoán ngược lại cho thượng tầng bao giờ.
Mới nghe qua thì người có tâm với nhân loại không khỏi có ấn tượng với cụm từ: Bất di bất dịch không cho sửa đổi nhưng với nhận định thực tế trên và nếu tìm hiểu thì căn bản về CHƠN LUẬT CỦA TÔN GIÁO thì:
- Luật là Thương Yêu.
- Quyền là Công Chánh.
Cho nên việc cấm không cho sửa đổi PCT để bảo vệ vững chắc Luật Thương Yêu và Quyền Công Chánh.
Chí Tôn nghiêm cấm sửa đổi PCT đồng nghĩa với việc cấm thượng tầng sửa đổi để áp đặc lên hạ tầng. Nghĩa là triệt tiêu từ trong trứng nước mọi ý tưởng thay đổi sao cho phần có lợi nghiêng về cho thượng tầng (đồng nghĩa với đẩy cái khó về cho hạ tầng như ta vẫn thấy xưa nay).
Cấm như thế là bảo vệ hạ tầng mà hạ tầng có yên ổn phát triển thì sự nghiệp Tôn giáo mới bền vững… Đó là cách thức làm cho hạ tầng mạnh mẽ trước thượng tầng.  Thiết tưởng sự nghiêm cấm sửa đổi PCT dưới mọi hình thức như thế đồng nghĩa với việc Chí Tôn đã đưa vũ khí tối thượng cho hạ tầng có quyền chủ động để dùng khi đối kháng hay bảo vệ mình trước thượng tầng. Sự nghiêm cấm như thế là một hạnh phúc mà nhân loại xưa nay chưa được hưởng.
Nhơn loại hiểu được ý nghĩa sâu xa của việc cấm đoán như vậy thì chỉ làm cho nhơn loại an vui và thêm tin tưởng mà thôi. (5)
Song song đó thì phần hạ tầng cũng bắt buộc phải tôn trọng thượng tầng, phải hiểu bộ máy thượng tầng như thế là bất di bất dịch không thể vòi vĩnh xin thêm khi cần, cũng không thể xin bớt theo ý chí riêng rồi gây ra xáo trộn.
Tóm lại việc nghiêm cấm sửa đổi PCT dưới mọi hình thức là đã sắp đặc phần nền tảng rất vững chắc cho mọi người trong Tôn giáo an tâm thực thi đường hướng Chính Trị Đạo của Tôn giáo đồng thời bảo đảm tuyệt đối được việc Lập quyền cho Nhơn sanh trong thể chế Quốc Đạo.
PCT là văn bản ràng buộc mọi nhân tố dù ở cương vị nào từ phẩm Đạo Hữu cho đến Giáo Tông phải thương yêu và công bằng với nhau, phải có trách nhiệm với nhau như ruột thịt.
Đó là lời thiết yếu của Đấng Chí Tôn đến hướng dẫn và sắp xếp cho nhân loại thương yêu nhau và thiết lập nên cơ chế căn bản rất linh hoạt rất rộng quyền cho nhân loại thực thi trong tự giác tự nguyện.
Ai tự giác tự nguyện chấp nhận: Tình thương và Công bằng; chấp nhận đem 2 điều đó ra làm mục đích, làm khuôn thước của cá nhân mình và thực thi trong xã hội thì tự nguyện nhập môn cầu đạo để học đạo, hiệp đồng với các môn đệ khác thực thi .
Ai có đường lối nào khác hay hơn, hiệu quả hơn để phụng sự nhân loại thì cứ thi thố Đaọ không giành độc quyền trên bước đường phụng sự.
Đạo là tài nguyên và môi trường cho nhân loại thực thi công quả của chính mổi người khi hiện sinh tại thế gian nầy.
PCT có mấy nội dung chính yếu:
- Ấn định thứ bậc các bậc phẩm Tôn giáo và số lượng nhân sự các bậc phẩm.
- Trách nhiệm; quyền hạn các phẩm cấp và mối tương quan các phẩm cấp với nhau.
- Phạm vi hoạt động; địa bàn hoạt động các phẩm cấp và Luật công cử.
* Chánh tự của Quốc Đạo:
Học đường và xã hội hiện nay đang bị rối rắm trong ngôn từ và khái niệm; từ đó nẫy sanh tâm lý tranh cạnh nhau đã dẫn đến vô vàn cuộc chiến tranh trên nhiều mặt trận Quân sự, Chính Trị, Kinh tế, Văn hoá…. mà nguyên do sâu thẳm nhất là:
- Lòng gian tham của con người.
- Sự thiếu tình thương (do văn bút đã tạo nên những tâm tình khép kín …văn bút là pháp- Pháp mà không dẫn đến tình thương đến công bằng gọi là tà pháp).
- Từ đó dụng mọi phương tiện tạo nên chiến tranh và chia rẽ. (Khoa học Kỷ thuật hiện nay là phương tiện mạnh nhất phục vụ cho chiến tranh).
Người có học thức dĩ nhiên phải qua kiến thức từ học đường và xã hội tất phải bị ảnh hưởng hay chịu ấn tượng với từ ngữ đang lưu hành.
Tôn Giáo Cao Đài có chủ trương xây dựng thành Quốc Đạo thì phải có một ngôn ngữ chính. Vậy ngôn ngữ chính của Quốc Đạo là gì?
Đó chính là tiếng An Nam – Chữ Quốc Ngữ.
Tiếng An Nam – Chữ Quốc Ngữ là chánh tự của Chí Tôn dùng để thành lập Tôn giáo Cao Đài. Nên Ý NGHĨA VĂN TỰ ĐĐTKPĐ phải được xác lập lại theo nghĩa của Tiếng An Nam cho minh bạch. Thiên thơ sẽ được phơi bày qua cách hiểu Tiếng An Nam đúng như lời Thầy dạy (6).
Nếu không xoá được sự dốt đạo trong nhơn sanh thì không thể gì giúp cho nhơn sanh có cuộc sống ấm no hạnh phúc được.
Vì vậy chữ Quốc ngữ sẽ là công cụ để xoá sự dốt chữ và dốt Đạo cho cả nhân loại.  Công cụ nầy không phải do áp đặc mà có mà việc sử dụng công cụ nầy là một nhu cầu tự nhiên trong cuộc sống vì các lý do sau:
a- Các sách lược xây dựng cuộc sống nhân loại cả về vật chất lẫn tinh thần xuất phát từ Hội Thánh Cao Đài  tại Tòa Thánh Tây Ninh khi ấn hành sẽ được viết bằng tiếng An Nam chữ quốc ngữ. Dĩ nhiên sau đó do nhu cầu có thể phiên dịch ra bằng nhiều ngôn ngữ khác…
b- Các kinh sách gốc của Tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ mở Đạo đã được viết bằng chữ Quốc Ngữ nên người học đạo hay nghiên cứu muốn tiếp cận với văn bản gốc phải học và hiểu chữ Quốc ngữ… Tiếp cận với giáo lý Tôn giáo qua chữ Quốc Ngữ thì học đạo sẽ dễ chuyên sâu hơn. (Các dân tộc khác vẫn có quyền tự do dùng phương tiện Cơ Bút để học hỏi với thiêng liêng bằng ngôn ngữ của chính họ đang sử dụng để việc học đạo không vì sự khác biệt ngôn ngữ mà trở ngại- nhưng Thiêng liêng sẽ không bao giờ cho một bản PCT nào khác có giá trị ngang bằng với bản PCT bằng chữ Quốc Ngữ đã cho).
2- Các Đạo Nghị Định:
Các Đạo Nghị Định cũng là Pháp nhưng thứ bậc thì dưới Pháp Chánh Truyền.  Hiện nay Tôn Giáo có 8 Đạo Nghị Định xếp vào Pháp sau Pháp Chánh Truyền.
3- Tân luật: Do nhơn sanh lập và dâng lên cho Lý Giáo Tông phê chuẩn rồi dâng lên Đức Chí Tôn.
Khi Đức Chí Tôn ban lịnh lập Tân Luật, vì cớ nào Đức Giáo Tông giao cho Chánh Phối sư xem xét chỉnh đốn trước khi dâng lên cho Ngài. Kế chưởng Pháp kiểm dượt rồi mới đệ lên cho Hiệp Thiên Đài phê chuẩn sau rốt Hộ Pháp phải đem Luật ấy xuống Cửu Trùng Đài đọc mà ban hành. Sau Lễ Khai Đạo mới có PCT và sau đó lập nên Tân Luật để ban hành ngày 01-6-1927.
4- Đạo Luật: Tờ Kiết Chứng của Chư Chức Sắc Thiên Phong toàn thể Chánh Trị Đạo xác định nền Chánh Trị Đạo của Đức Chí Tôn có 4 cơ quan:
- Hành Chánh.
- Phước Thiện.
- Toà Đạo.
- Phổ Tế.
Do nguyện ước của nhơn sanh lập nên để lập nên Đạo Luật nặng về nguyên tắc để thực thi cho nên tuỳ vào trình độ tấn hoá mà thêm vào cho phù hạp (chỉ cho phép thêm mà không cho phép bớt).
5- Luật Hội Thánh: Tân Luật, Đạo Luật và các luật lệ khác của Hội Thánh ban hành được gọi chung là Luật Hội Thánh.
Tóm lại Tôn Giáo Cao Đài có một hệ thống luật pháp bằng văn bản rõ ràng và công khai cho tất cả công dân của Quốc Đạo biết để thực thi.
Trong Tôn Giáo có sự phân quyền về Lập Pháp; Hành Pháp; Tư Pháp. Từ người Đạo hữu cho đến Giáo Tông cũng cùng chung một hệ thống luật pháp. Bất cứ hàng phẩm nào trong tôn giáo dù Trung ương hay địa phương khi có công đều được nhìn nhận và ban thưởng; khi có tội thì cũng chịu một hình phạt như nhau.
Tôn Giáo thực thi LUẬT TRỊ NGƯỜI nên tất cả đều nhất luật. Quyết sách Tôn giáo Cao Đài chấm dứt cảnh NGƯỜI TRỊ NGƯỜI xưa nay vẫn thấy.
II/- Định Hướng rõ ràng:
Đường hướng Chính Trị Đạo của Tôn Giáo Cao Đài là giáo dân qui thiện; thực thi Bảo Sanh – Nhơn Nghĩa – Đại Đồng.
Công thức mới của Tôn Giáo là: Đạo Đức thể hiện qua hành động.
Nên việc Lập Quyền Nhơn Sanh được thể hiện ở tất cả những nơi có Đạo Cao Đài. Tôn giáo thực thi Bác Ái Công Bằng; xây dựng nền Văn Minh Nhơn Đạo cho nhân loại nên căn cứ vào Thể pháp mà khai triển Bí pháp, tạo thành những giáo án, sử chương, chủ trương, đường lối, sách lược, công thức rõ ràng và công khai để mọi Tín đồ Tôn giáo căn cứ vào đấy mà thực thi.
Mọi cá nhân trong xã hội Tôn Giáo đều là tế bào của Quốc Đạo.
Tôn Giáo lấy Nhơn Sanh làm gốc.
Giáo lý và giáo luật Tôn giáo nêu rõ: Ý DÂN LÀ Ý TRỜI.
Đường hướng Chính Trị Đạo thì nơi nào có Đạo Cao Đài là nơi ấy bắt buộc phải có tổ chức Lập Quyền nhơn sanh; để nhơn sanh tự quyết định số phận chính mình. Việc lập quyền nhơn sanh thể hiện qua các kênh sau đây:
1- Mọi Chức Việc, Chức Sắc của Tôn giáo Cao Đài đều là đày tớ của nhơn sanh. Người chủ có quyền chọn đầy tớ… nên mọi nhân sự Tôn giáo phải qua sự chọn lựa (công cử) của nhơn sanh.
a- Chức Việc: Các vị Chức việc nơi Ấp đạo đều phải qua sự công cử trực tiếp của nhơn sanh. Chức việc cấp Hương Đạo do chức việc Ấp Đạo công cử...
b- Chức Sắc: Từ hàng phẩm Lễ Sanh trở lên nhơn sanh không trực tiếp chọn lựa mà nhơn sanh chọn đại diện của nhơn sanh để chọn lựa.
c- Trước khi các cấp phẩm đại diện nhơn sanh (Hội viên, Phái Viên) đến dự họp Đại Hội Nhơn Sanh thì phải có sự đóng góp ý kiến của nhơn sanh nơi địa phương mình được cử làm đại diện để đem ý kiến ấy về bàn thảo trong đại hội.
Hai từ Dân chủ không phải đến hôm nay mới có. Dân chủ đã được biết đến từ thời Nghiêu Thuấn ở Phương Đông cũng như các cuộc cách mạng dân chủ diễn ra ở Anh ở Pháp và ở các quốc gia khác.
Vậy thì Dân chủ qua giáo lý Cao Đài Giáo mà Tôn giáo Cao Đài đang ra sức xây dựng và chứng minh có gì đặc sắc?  Đó là: Chủ Quyền Dân Chủ.
Chủ quyền Dân chủ là cách thức lập quyền cho nhơn sanh (Công dân trong Quốc Đạo) trong từng hương thôn cho đến Tộc, Châu … và Trung Ương.
Quyền của công dân trong Quốc Đạo thể hiện qua:
. Chọn người thực thi đường lối Tôn giáo thể hiện trong mọi phẩm cấp.
. Quyền góp ý về những việc mà các vị quan lại trong quốc đạo phải thay mặt công dân thể hiện.
. Có bộ máy của chính các công dân trong quốc đạo bầu lên để kiểm soát quyền lực của các vị quan lại trong Quốc Đạo từ mọi cấp và mọi phía không hề bị giới hạn. Tất cả đều nhất luật không miễn trừ cho bất cứ vị quan lại nào khi vấp phạm.
Nhân sự Thanh Tra Chính Trị Đạo là người độc lập với nguồn máy Hành Chánh Tôn Giáo được công dân trong Quốc Đạo được bầu lên để đối kháng với bộ máy quan lại trong Tôn giáo mọi lúc mọi nơi hầu bảo đảm là Bảo Sanh- Nhơn Nghĩa- Đại Đồng được thực thi đúng với ý muốn nhơn sanh đã thể hiện qua văn bản.
Dân chủ trong Tôn Giáo là Dân Chủ tự trị: tự mổi tín đồ Tôn Giáo (công dân trong quốc Đạo) tự nguyện gia nhập và thực thi chứ hoàn toàn không có sự ép buộc nào tự mọi phía. Chỉ khi nào cá nhân tự nguyên gia nhập vào Quốc Đạo mới bị pháp luật của Quốc Đạo chi phối chứ không phải một cá nhân nào có quyền chi phối.
Nó khác với dân chủ bị trị: khi công dân trong một quốc gia được sinh ra thì cá nhân đó bị bắt buộc phải có quốc tịch… Nếu không có là không được chấp nhận bị phiền phức lôi thôi đủ thứ chuyện…
III/- Văn Minh Tổ Chức:
Đạo Cao Đài có 3 Đài:
- Bát Quái Đài.
- Hiệp Thiên Đài.
- Cửu Trùng Đài.
Bát Quái Đài có Đức Chí Tôn vi chủ.
Hiệp Thiên Đài có Đức Chí Tôn chủ quản và ĐHP. Chưởng Quản.
Hiệp Thiên Đài đặc trách về Pháp luật và chia làm ba chi: Pháp- Đạo- Thế.
Cửu Trùng Đài có Giáo Tông chưởng Quản.
Cửu Trùng Đài đặc trách về giáo hoá.
Nhân sự Nam Phái được chia làm 3 phái: Thái- Thượng- Ngọc.
Nhân sự Cửu Trùng Đài Nữ Phái không có phân phái.
Hai Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng thường được gọi là Nhị Hữu Hình Đài.
Nhân sự 2 Đài hữu hình lại được phân bổ vào 4 cơ quan Chánh Trị Đạo:
- Hành Chánh.
- Phước Thiện.
- Phổ Tế.
- Toà Đạo.
Song song đó thì: nhân sự hành sự; ranh giới hành sự; phân nhiệm… cũng đều có qui định rõ ràng qua văn bút để nguồn nhân lực Tôn Giáo căn cứ vào đấy mà thực thi các bài bản mà Tôn giáo đề ra.
Tôn Giáo không phân biệt màu da, chính kiến, giàu nghèo trí thức hay bình dân tất cả đều có quyền tự do lựa chọn con đường thực thi đạo đức của chính mình.
Nguồn nhân lực Tôn Giáo phát xuất từ nhơn sanh, do nhơn sanh chọn lựa để phục vụ cho nhơn sanh. Công hay tội, thăng thưởng hay chịu hình phạt đều có sự đồng ý và giám sát của nhơn sanh bằng văn tự rõ ràng.
Hội Thánh có quyền của Hội Thánh; Nhơn Sanh có quyền của nhơn sanh hai quyền ấy song song như hai thanh sắt tạo nên con đường ray đưa toa tàu nhân thế đến cuộc sống bình an và hạnh phúc.
Từ quyền lực của nhơn sanh góp phần tuyển chọn một nguồn máy nhân sự tinh anh. Nhưng nguồn máy nhân sự ấy được bố trí được tổ chức như thế nào lại là một vấn đề đặc trưng khác của Tôn giáo.
Cơ Chế Trung Ương và Địa Phương: Nhân sự Tôn giáo có phân định rất rõ ràng phẩm bậc nào thì hành đạo nơi các địa phương hay là trung ương.
I- Hội Thánh Anh:
1- Phẩm bậc hành sự ở Trung ương: Nhân sự Cửu Trùng Đài từ Phẩm Giáo Tông cho đến Phối Sư. (Nhân sự Hiệp Thiên Đài và Phước Thiện đối phẩm tương đương thì cũng ở Trung ương).
2- Phẩm bậc hành sự ở địa phương: Từ phẩm Giáo Sư cho đến Lễ Sanh
Từ phẩm Lễ Sanh cho đến Giáo Tông gọi chung là Chức Sắc Thiên Phong trong Tôn Giáo. Hội Thánh có toàn quyền điều động hay thuyên bổ đến bất cứ nơi nào có Đạo hay chưa có Đạo tuỳ theo nhu cầu hay sở thức năng lực của từng vị. (Từ phẩm Đầu Sư cho đến Lễ Sanh Nữ giới tham gia vào được đứng chung một phái gọi là Nữ Phái chứ không phân ra ba phái: Thái Thượng Ngọc như Nam Phái).
II- Hội Thánh Em:
Ba phẩm Chánh Trị Sự- Phó Trị Sự- Thông Sự hợp lại được gọi là Bàn Trị Sự. Bàn Trị Sự còn được gọi là Hội Thánh Em.
Hội Thánh Em nơi địa phương phần Nữ Phái riêng song song với Nam Phái nhưng chỉ lo phần Nữ Phái. Nơi nào không có Nữ Phái thì Nam Phái kiêm nhiệm...
Trong Quốc Đạo song song với Chức việc Hành Chánh được qui định trong PCT thì nơi mổi làng đạo còn có hệ thống Chức Việc Phổ Tế các vị nầy cũng có phẩm như: Chánh Trị Sự Phổ Tế; Phó Trị Sự Phổ Tế, Thông Sự Phổ Tế đặc trách về Phổ Tế và hẳn nhiên cũng chịu sự lãnh đạo chung của Hành Chánh Tôn Giáo. (Theo Đạo Luật Mậu Dần 1938)
Từ Trung ương đến địa phương đều có các ban bộ chuyên môn để trợ giúp cho Hội Thánh Em hay Hội Thánh Anh hoàn thành nhiệm vụ thực thi nhơn nghĩa.
(Chú ý: Nữ Phái trong Tôn giáo Cao Đài cũng có các phẩm bậc song song với Nam Phái cũng được tổ chức theo Pháp luật Tôn giáo…).
Ranh giới hành chánh.
Thủ đô Tôn giáo có một qui chế sinh hoạt riêng thể hiện là nơi hội tụ nhân loại…
Địa phương thì tuỳ vào ranh giới của các quốc gia hay trong từng quốc gia mà lập nên Trấn Đạo, Châu đạo, Tộc Đạo, Hương Đạo, Ấp Đạo… Tổ chức Tôn giáo ngay từ khi tổ chức Lễ Khai Đạo đã có lịch năm đạo riêng. (7).
Nhân lực trong tôn giáo dù ở hàng phẩm nào cũng có văn bút thừa nhận. Em bé sơ sinh có Giấy Tắm Thánh; Đạo Hữu thì có giấy nhập môn; Chức Việc; Chức Sắc…. nhất nhất đều có bút tích công nhận theo đúng qui định.
Về phương diện Quốc Đạo mà hiểu thì:
- Giấy Tắm Thánh: như là giấy khai sanh của một nhân tố hiện sinh nơi trần thế.
- Giấy nhập môn: hiểu như là căn cước và ý chí của một người Tín Đồ Tôn giáo. Giấy nhập môn ấy có giá trị với Tổ Chức Đạo Cao Đài ở bất cứ nơi nào trên thế giới khi cần dùng đến (Quan hôn Tang Tế). “Hiểu về phương diện Tôn giáo thì nó lại có giá trị vượt khỏi địa cầu mà ta đang sinh sống: Nên khi người Tín Đồ qui vị thì Sớ cầu Đạo được đốt khi thượng sớ Tân cố. Ấy cũng như giấy thông hành cho người qui vị sang sinh sống nơi thế giới khác…”.
- Ngưòi muốn lập gia đình cũng có qui định rõ:
Nam: Phải có giấy chứng nhận là có một nghề để sinh sống.
Nữ: Phải có giấy chứng nhận là đã học qua khoa sinh sản để giữ gìn sức khoẻ bản thân và con cái….
Hôn nhân một vợ một chồng không chấp nhận đa thê… Nhất nhất đều có luật lệ rõ ràng… Tôn giáo qui định chặc chẽ khi kết hôn và cấm kỵ chuyện ly hôn…
Các Ban Bộ Chuyên môn như Nhạc lễ, Đồng nhi vv nhứt nhứt đều có giấy chứng nhận ngành nghề và cấp bậc.
- Các Vị Chức Việc Chức Sắc đều có Đạo Cấp hay Đạo cấp Thiên phong.
Nhất nhất công việc hành chánh đều có bút tích chứng minh.
Còn một phần quan trọng nữa mà do nơi thời cuộc, do nơi vị thế Tôn giáo buổi mới bình minh nên Hội Thánh Cao Đài chưa thể công khai hết bài bản lập quốc của mình. Nhưng Hội Thánh Cao Đài đã thực thi qua cách thức hành sự để dựng nên Quốc Đạo.
Đường hướng xây dựng Quốc Đạo của Hội Thánh khi xây dựng Thủ Đô Tôn Giáo đã thể hiện qua các mặt:
3 điều: Dân Đức; Dân Trí, Dân Sinh.
5 Điểm là: Gia cư, Mưu sinh, Giáo huấn, Kiến thiết và Tôn giáo.
3 điều 5 điểm nêu trên chính là: HÀNH BẤT NGÔN CHI GIÁO.
Tóm lại: Hiểu về phương diện Quốc Đạo thì mổi công dân trong Quốc Đạo chính là người tín đồ có văn bút chứng nhận trong Tôn giáo Cao Đài.
Đạo là của chung của toàn nhân loại.
Toàn thể nhân loại đều bình đẳng trong Tôn Giáo Cao Đài.
Nên tất nhiên Quốc Đạo mang tính toàn cầu.
Người Tín Đồ Cao Đài là Công dân trong thời kỳ toàn cầu hoá.
Công dân trong thế giới Đại Đồng.
Tóm lại: Quốc-Đạo Cao Đài nên hình với cơ-chế hành-chánh trong tôn-giáo sẽ có những giáo-pháp qua dân-ước, qua sự tương-vấn để từng người có đầy đủ ý thức tự giác khi thực hiện cách mạng tâm thân và tự nguyện góp phần xây dựng một Xã Hội Đại Đồng.
Tôn-giáo Cao-Đài sẽ đưa xã-hội đến một cuộc sống văn-ninh rất rõ ràng.
IV/- Thủ đô Tôn Giáo (40 cây số vuông).
Trong 40 cây số vuông riêng ấy thì chọn một nơi thích hợp để xây dựng Nội Ô và Ngoại Ô vùng Thánh địa.
Trong Nội Ô xây dựng các Thể pháp cơ bản của tôn giáo như Đền Thánh, Điện Thờ Phật Mẫu (Báo Ân Từ), Hộ Pháp Đường, Giáo Tông Đường…
Ngoại Ô thì có Động Đình Hồ, Long Hoa Thị, Trí Huệ Cung, Trí Giác Cung, Vạn Pháp Cung… Thủ đô của Tôn giáo được xác định rõ ràng giúp cho công dân trong tôn giáo trên toàn thế giới có nơi liên hệ các vấn đề khi cần thiết.
Tôn giáo Cao Đài có nhiệm vụ lập đời Thánh Đức; xây dựng một nền Văn minh mới cho nhân loại cho nên có đường hướng Chánh Trị Đạo với đầy đủ các cơ quan cần thiết được xác lập rất thiết thực.
Thực thi bài bản Chính Trị Đạo là gầy dựng đạo đức cho từng cá thể, từng gia đình, từng liên gia , từng Ấp Đạo, Hương Đạo… nghĩa là từ Trung ương cho đến Địa phương để liên kết thành một Quốc gia đạo đức. Mà đạo đức thì không có biên giới cho nên Quốc gia đạo đức cũng không có biên giới, không có cảnh bạo lực thắng nhân quyền ấy là thế giới đại đồng trong Bác Ái và Công bằng mà nhân loại hằng mơ ước.
Khi bình thường Tôn giáo tự lực để lo được cho chính mình và nhơn sanh về mọi phương diện từ cuộc sống vật chất đến tinh thần.
Hành tàng Tôn giáo Cao Đài thể hiện sự hiện sinh của Tôn Giáo là một phát minh mới, một công thức mới hoàn hảo giúp nhân loại thực thi cuộc cách mạng tâm thân; cuộc cách mạng xã hội nhằm đem lại cuộc sống phồn vinh, hài hoà giữa cá nhân và xã ước.
Tôn Giáo Cao Đài có mặt là để xây dựng một nền văn minh mới cho nhân loại.
Khi chịu cảnh khảo đảo do ngoại tại hay nội tại hoặc cả hai hợp đồng nhau để đánh phá Tôn giáo thì tự bản thân Tôn giáo có cách thức bảo tồn và hồi phục mạnh mẽ hơn ngoạn mục hơn như ta đã thấy qua đạo sử. Đó là thực tế không ai nói khác được.
Tóm lại Tôn giáo có sự tổ chức chặc chẽ rõ ràng như một quốc gia.
Một Quốc gia xuất phát từ Đạo Đức mà có và Quốc gia ấy dụng đạo đức để làm nền tảng để xây dựng con người; làm nền tảng cho sự phát triển của Tôn giáo và xã hội với một công thức mới: Đạo Đức thể hiện qua hành động.
Như vậy: Tôn Giáo Cao Đài đương nhiên là Quốc Đạo vì tự thân Tôn Giáo đã thể hiện rõ ràng:
- Mục tiêu và cứu cánh.
- Công thức.
- Nhân tố.
- Luật pháp hoàn chỉnh.
- Thủ đô được xác định.
Nhân loại đã tranh luận rất nhiều trong thế tương quan giữa cá nhân và đất nước:
- DÂN GIÀU NƯỚC MẠNH hay NƯỚC MẠNH DÂN GIÀU.
Vế nào trước vế nào sau? Thực tế hiện nay là nhân loại vẫn đang nếm mùi các chủ trương ấy.
Đức Chí Tôn giúp cho nhân loại thanh toán cuộc tranh cãi bất tận đó như thế nào?.
Đường lối Quốc Đạo nêu rõ mối tương quan giữa cá nhân và đất nước:
Cầu xin trăm họ bình an.
Nước giàu dân mạnh thanh nhàn muôn năm.
Đức Chí Tôn dạy: NƯỚC GIÀU DÂN MẠNH.
Quốc Đạo thực thi: NƯỚC GIÀU- DÂN MẠNH.
Dân phải mạnh; hạ tầng phải mạnh để giám sát thượng tầng và không nhìn nhận luật pháp thượng tầng ban ra không đúng trình tự và phế truất thượng tầng theo khuôn viên luật định khi cần thiết. Hạ tầng có mạnh mới buộc thượng tầng phải chính kỷ trước rồi mới nói đến hoá nhơn. Phải Tu thân, tề gia trước đi rồi mới cho phép lãnh trọng trách với quốc gia… dẹp tan cậu ấm cô chiêu… làm mất trật tự xã hội.
Hạ tầng có mạnh thì mới không bị thượng tầng bắt nạt. Hạ tầng mạnh mới kiểm soát được nhân tài; hiền tài có được trọng dụng hay không? Tài nguyên quốc gia chảy vào ngân khố nước nhà hay chạy vào két sắt; chạy vào tài khoản các vị tham quan.
Tài nguyên được khai thác và sử dụng hợp lý cho quốc kế dân sinh thì không có cảnh khố rách áo ôm, không có cảnh kẻ ăn không hết người lần không ra, không có người dân nào nghèo. Không có hạ tầng nào mạnh mà nghèo cả.
Quốc Đạo không chủ trương giàu mà dân vẫn giàu, không cầu mà vẫn có thì lọ là phải tranh giành với ai nữa, lòng gian tham không có cơ hội nẫy sanh; lòng nhân ái tự nhiên đơm hoa kết trái một cách tự nhiên theo bản tính ấy là bất chiến tự nhiên thành.
Xét cho đến nơi đến chốn thì công thức: NƯỚC GIÀU- DÂN MẠNH mới có thái bình tâm lý; có thái bình tâm lý mới có thái bình thiên hạ; có thái bình thiên hạ mới nói đến Thế giới Đại Đồng Đồng Tiến (8)
Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo cũng vạch rõ sách lược của Quốc Đạo trong xã hội qua đường lối Tu; Tề; Trị; Bình thể hiện trong các bài Kinh Thế Đạo.
Chí Tôn nói rằng: Quốc Đạo nầy Ngài qui tụ tinh thần đạo đức trí thức toàn nhơn loại cho đặc biệt có cao có thấp có hàng ngủ phẩm giá.
Còn về phần xác thịt của loài người, mạng sống trước mặt Ngài không ai hơn ai; cả thảy sống đồng sống, chết đồng chết, đặng đem Quốc Đạo làm môi giới cả Đại Đồng đặng tạo tương lai loài người cho có địa vị oai quyền cao thượng. (9)
Những Lời Thuyết Đạo nói riêng; hành tàng của Ngài nói chung là đề tài và cũng là đôi mắt giúp cho hậu tấn học Đạo dụng đó mà nghiền ngẫm các vấn đề hay tìm tòi các bí pháp ẩn tàng trong thể pháp./.

@@@



(1): TNHT.: Q1. T 46: 13-8- Bính Dần. Theo thiễn ý: có lẽ từ bài nầy mà trong bài Thuyết Đạo đêm 30-9- năm Đinh Hợi (1947) ĐHP cho biết: Vì hai chữ Quốc Đạo ấy mà làm cho Phạm Công Tắc chết năm 35 tuổi…
(2): CĐTLHS bài số 18: đêm 08-12- Mậu Tý (1948).
Mổi khi bần Đạo thuyết Bần Đạo để một chổ trống để cho tinh thần toàn thể con cái của Đức Chí Tôn kiếm hiểu chăm thêm cho được cao siêu, chúng ta có thể tiềm tàng được.
Bần Đạo cố gắng đưa chìa khoá cho cả thảy nắm trong tay đặng mở ra hầu dìu dắt cả thảy đi cho trọn vẹn trong khối linh đài của Đức Chí Tôn…
(3) Người chép Lời Phê Không ghi lại ngày tháng.
(4): CĐTLHS Bài 26 đêm 08-02- Kỷ Sửu: …mình phải ráng học cần mẫn học. Ấy là một điều chẳng phải dễ nhưng phải làm cho đặng. Làm đặng thay thế ngôn ngữ cho Đức Chí Tôn đem chơn truyền của Ngài để vào tinh thần của nhơn loại; nếu mình làm không đặng cũng như mình làm cho Đức Chí Tôn câm sao!!! Mình phải làm đặng thay thế cho ngôn ngữ cho Ngài, nếu mình làm không đặng thì thay thế cho Ngài không đặng.
(4a): Thí dụ Nho Giáo dạy: Tu, Tề, Trị, Bình; nhưng xem lại coi các vị quân vương theo Nho Giáo TU THÂN thế nào? (Tam cung lục viện …mỹ nữ phi tần…) Các vị Nho gia khi hàn vi thì khác khi xuất chính thì có mấy vị biết giữ chữ TU THÂN… (ăn chơi truỵ lạc, vun vén cá nhân) họ chỉ ra lệnh cho hạ tầng mà thôi… Cái lố bịch nhất; cay đắng nhất là kẽ sa đoạ, tầng lớp sa đoạ lại viết ra sách vở dạy cho hạ tầng TU THÂN… Cái tệ nạn hiển hiện trước mắt nhơn loại đã mấy ngàn năm nay mà không có thế chi giải quyết. Ngày nay với công thức DÂN MẠNH thì tệ nạn trên cũng như hàng nghìn cái tệ nạn nữa phải tiêu vong...
(5): Các diễn tiến trong Tôn Giáo Cao Đài kể từ khi có Thông Tri và Đạo lịnh 01 năm 1979 đến nay cho thấy hiệu nghiệm của sự nghiêm cấm không cho phép mọi hình thức sửa đổi PCT phát huy mạnh mẽ như thế nào trong việc bảo vệ nền chánh giáo không cho tha hoá và thành ra hư hoại…
(6): ĐS. T. 237: 29-7-B.D. ...Như Nhãn hiền đồ Thầy không muốn nói với con bằng tiếng Hớn Ngôn vì tiếng An Nam từ đây Thầy cho là Chánh Tự đặng lập Đạo của Thầy nên buộc phải nói rõ ràng với con.
Thời kỳ dấu diếm Thiên cơ đã qua rồi…
(7): Trong nhiệm vụ xây dựng nên văn minh mới cho nhơn loại thì một ngày kia khi tấn triển lên thì dĩ nhiên tôn giáo cũng sẽ định lại có kinh tuyến gốc…. Để lập nên lịch có đầy đủ ngày giờ. (LTĐ. Q.1.T.131: Nhận định một thế kỷ có bao nhiêu năm: …. Nơi Ngọc Hư Cung định pháp chánh cũng như trong Càn Khôn Vũ Trụ là: 12 tháng một niên, 12 niên một giáp, 120 năm một thế kỷ “Tất cả đều cho rằng 100 năm một thế kỷ như vậy không đúng”) ... (Thiễn nghĩ: Thể pháp thể hiện một thế kỷ là 120 năm đã có ở Nghinh Phong Đài….).
(8): PCT.  T. 28: Chưởng Pháp: Luật lệ nào không có ấn ba Chưởng Pháp thị nhận và Hiệp Thiên Đài phê chuẩn thì cả chư tín đồ của Thầy không tuân mạng. Nghĩa là Thầy cho phép hạ tầng không tuân mạng lệnh thượng tầng nếu thượng tầng không tôn trọng khuôn viên luật pháp Quốc Đạo. Phù hợp với Nội Luật Hội Nhơn Sanh; đi đôi với Chủ Quyền Dân Chủ của Cao Đài Giáo.
(9) LTĐ. Q. 1. T.88.
Đạo Sử Q.2 Tr.239. (21-8 Bính Dần): Thầy dặn các con từ đây ai nói chi tuỳ ý, cứ nghe một Thầy thì khỏi lầm lạc. Con Trung cứ lo khai Đaọ. Món binh khí tà quái vì đó mà tiêu diệt. Nước Nam có một chủ mà thôi là Thầy. Từ trước vì nhiều Đạo trong nước, mà chẳng một Đạo nào chơn chánh, làm mạnh quốc dân, nên nước phải yếu, dân phải hèn.
Dân tộc các con duy biết làm tớ chớ chưa biết làm chủ. Thầy vì thấy lẽ công bình thiêng liêng ấy mới giáng trần lập Đạo tại Nam phương tức là thay mặt Càn Khôn Thế Giới mà qui chánh truyền nhơn loại. Trong mối Đạo Thầy đã lập thì hằng nói tiên tri rằng: Ngày kia có một nước đương trong vòng nô lệ vì ta mà làm chủ nhơn- loại các con hiểu à!
                                                     @@@

Gìn giữ về sau mối Đạo mầu,
Nương theo bước trước gắng tìm châu.
Thuyền chờ bến tục buồm trương sẵn,
Đưa đến nguồn trong rữa bợn sầu.
TNHT.