Trang

Thứ Bảy, 27 tháng 9, 2025

6027. TS Phạm Trọng Chánh viết câu kết sai lệch pháp lý về tác quyền.

 

TS Phạm Trọng Chánh viết câu kết sai lệch pháp lý về tác quyền.

Dương Xuân Lương.

Trong hai bài phản biện trước, Tôi đã chứng minh rằng ông Phạm Trọng Chánh, Tiến sĩ Khoa học Giáo dục, Viện Đại học Paris V, khi viết bài Đọc sách Đạo Cao Đài và Victor Hugo của TS Trần Thu Dung, đã mắc những sai phạm nghiêm trọng:

Bịa đặt ra bà Phạm Thị Tốt là con gái của Đức Hộ Pháp, cho làm Nữ Đầu Sư, rồi cho đi lấy chồng là Vidal ….

Phản khoa học khi viết: Hội Tam Điểm là cha đẻ, là người anh đỡ đầu khai sinh đạo Cao Đài … mà không đưa ra chứng cứ lịch sử.

Trong bài phản biện thứ ba, Tôi phân tích câu kết của ông trong cùng bài viết: … Tuy nhiên ngày nay, tôn trọng luật quốc tế về văn bản, bản quyền không thể xem những lời kinh lễ Đạo Cao Đài là của Victor Hugo, mà chỉ có thể xem đó là sáng tác của cụ Phạm Công Tắc cảm hứng từ Victor Hugo./. (Hết bài)

Theo đó ông đề cập đến luật quốc tế về văn bản, bản quyền và tác quyền, đó là quan điểm thế tục và duy lý nên Tôi tạm gác yếu tố tôn giáo lại để căn cứ vào Công ước Berne (1886, sửa đổi), do WIPO quản lý để phản biện. Tôi chấp nhận chính sân chơi mà TS Chánh lựa chọn để phản biện bằng pháp lý quốc tế.

Bài 1:

https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2025/09/6002-tu-viet-bao-california-my-en-hoc.html#more

Bài 2

https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2025/09/6014-tu-viet-bao-california-my-en-hoc.html#more

3/- Theo công ước Berne câu kết của TS Chánh có ba cái sai.

Thứ nhất: Sai lệch về đối tượng pháp lý.

Thứ hai: Lập lờ giữa bản quyền và tác quyền.

Thứ ba: Gán tác quyền Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo cho cụ Phạm Công Tắc là trái với luật quốc tế về bản quyền mà ông viện dẫn.

3.1/- Xác định đối tượng pháp lý: Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo.

TS Phạm Trọng Chánh viết:

Victor Hugo có phải là tác giả những lời kinh cầu nguyện của Đạo Cao Đài, cuốn Kinh Lễ cẩm nang của đạo Cao Đài? 

Bản PDF:

file:///C:/Users/Admin/Downloads/4.%20DXL%20PH%E1%BA%A2N%20BI%E1%BB%86N%20TS%20PH%E1%BA%A0M%20TR%E1%BB%8CNG%20CH%C3%81NH%3B%20C%C3%82U%20K%E1%BA%BET.pdf

HẾT TRANG 01

Đoạn khác: … “Ngôi thánh thất Cao Đài kiến trúc kiểu nhà thờ Tây Phương pha trộn với rồng phượng màu sắc Á Đông, các buổi lễ đọc kinh bằng thơ lục bát, tín đồ chức sắc ngồi chỉnh tề quy củ…” (hết trích)

Căn cứ vào câu kết và hai đoạn trích dẫn cho thấy TS Chánh sử dụng Kinh Lễ làm nền tảng để phân tích bản quyền và tác quyền trong bài viết.

Nhưng theo Công ước Berne TS Chánh đã sai đối tượng pháp lý bởi vì:

Kinh Lễ là một tập hợp từ nhiều kinh sách như Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo, Tân Luật, Pháp Chánh Truyền… vốn đã được Hội Thánh Cao Đài ban hành và giữ bản quyền riêng biệt. Nhưng Hội Thánh không ghép các kinh sách trên lại để tạo thành Kinh Lễ, và không kiểm duyệt tập hợp này.

TS Chánh nói đến bản quyền và tác quyền về các bài Kinh trong buổi lễ đọc kinh bằng thơ lục bát chính là Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo (chủ yếu là văn vần, dùng trong các buổi lễ đọc kinh); còn các sách khác trong Kinh Lễ viết bằng văn xuôi và không dùng trong các buổi lễ đọc Kinh.

Do vậy, khi phân tích bản quyền và tác quyền phải căn cứ vào văn bản gốc là Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo do Hội Thánh ban hành năm 1936 và giữ bản quyền. (Xem ảnh chụp)

3.2/- Lập lờ khái niệm giữa bản quyền và tác quyền.

TS Chánh viết … Tuy nhiên ngày nay, tôn trọng luật quốc tế về văn bản, bản quyền không thể xem những lời kinh lễ Đạo Cao Đài là của Victor Hugo, mà chỉ có thể xem đó là sáng tác của cụ Phạm Công Tắc cảm hứng từ Victor Hugo…

Mở đầu Ông đề cập đến bản quyền là quyền tài sản (có thể chuyển nhượng) nhưng cuối câu ông lại chuyển hệ pháp lý sang kết luận về tác quyền là quyền nhân thân (không thể chuyển nhượng).

3.2.1/- Tác quyền là gì?

Tác quyền là quyền gắn liền với việc một hay nhiều người sáng tạo ra tác phẩm; viết, soạn, vẽ, …. Quyền này thể hiện ai là tác giả thật sự của tác phẩm và ghi tên vào, được pháp luật bảo vệ ngay từ thời điểm tác phẩm được hình thành.

Như vậy tác quyền là quyền nhân thân nên:

– Không thể chuyển nhượng, mua bán, hoặc sang tên cho người khác.

– Không ai khác có thể nhận là tác giả, dù có toàn quyền sử dụng, phát hành, hoặc sở hữu bản quyền.

– Người (hay tập thể) sáng tạo ra tác phẩm phải chịu trách nhiệm về nội dung, không thể trao trách nhiệm cho bất kỳ ai khác.

– Trong trường hợp có nhiều người cùng sáng tạo, mỗi người đều là đồng tác giả và cùng chia sẻ tác quyền đối với phần đóng góp của mình.

 HẾT TRANG 02

3.2.2 – Bản quyền là gì?

Bản quyền là quyền pháp lý cho phép cá nhân hoặc tổ chức sở hữu, kiểm soát và khai thác một tác phẩm đã được tạo ra. Quyền này bảo vệ việc in ấn, sao chép, phân phối, trình diễn… và có thể được chuyển nhượng theo quy định pháp luật.

Bìa Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo in năm 1936 ghi: HỘI THÁNH GIỮ BẢN QUYỀN. Theo đó, Hội Thánh Cao Đài không phải là tác giả của các bài kinh, nhưng giữ bản quyền, tức là có thẩm quyền bảo hộ, biên soạn, in ấn và phát hành Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo. Việc chỉnh sửa lời kinh, thay đổi bố cục bài kinh hoặc cấu trúc cuốn kinh đều không được phép nếu không có sự phê chuẩn của Hội Thánh.

3.2.3/- Sự khác biệt căn bản về tác quyền và bản quyền.

Tính chuyển nhượng: Tác quyền là quyền nhân thân nên không thể chuyển nhượng; bản quyền là quyền tài sản nên có thể chuyển nhượng.

Nguồn gốc pháp lý: Tác quyền phát sinh từ hành vi sáng tạo nội dung nguyên thủy; bản quyền phát sinh từ hành vi sở hữu, kiểm duyệt, in ấn, phát hành hợp pháp.

Trách nhiệm nội dung: Tác giả phải chịu trách nhiệm về nội dung đã sáng tạo; Chủ bản quyền không chịu trách nhiệm về nội dung gốc, nhưng phải chịu trách nhiệm liên đới về việc phổ biến nội dung đó một cách trung thực, hợp pháp và đúng thẩm quyền.

Trong tương quan nhân quả thì Tác quyền là nhân—là gốc phát sinh nội dung. Bản quyền là quả—là quyền bảo hộ và phổ biến nội dung đó.

TS Chánh bắt đầu bằng nói về bản quyền, nhưng kết thúc lại khẳng định Cụ Phạm Công Tắc là tác giả; tức là chuyển sang tác quyền. Ông đã thay đổi cách lập luận pháp lý từ bản quyền sang tác quyền và dẫn dắt đến một kết luận chưa được chứng minh. Đây là sự đánh tráo khái niệm pháp lý.

3.3/- TS Chánh gán tác quyền cho Cụ Phạm Công Tắc là sai.

TS Chánh đã đứng trên quan điểm thế tục và duy lý để gán tác quyền Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo cho Cụ Phạm Công Tắc. Tôi căn cứ vào Công ước Berne để phản biện.

Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo có 3 phần: Lời Tựa và Tiểu dẫn, Kinh Thiên Đạo, Kinh Thế Đạo.

3.3.1/- Phần Lời Tựa và Tiểu dẫn.

Do Hội Thánh Cao Đài viết nên không thể gán cho Cụ Phạm Công Tắc là tác giả. TS Chánh gán tác quyền cho Cụ Phạm Công Tắc là sai.

3.3.2/- Phần Kinh Thiên Đạo (Khoản 36 bài). 

Xét về tác quyền theo thế tục có 03 diện:

Diện một: các bài kinh có từ trước năm 1926 nên không thể gán tác quyền cho Cụ Phạm Công Tắc. TS Chánh gán tác quyền cho Cụ Phạm Công Tắc là sai.

HẾT TRANG 03

Diện hai: Cụ Phạm Công Tắc viết 01 bài Kinh Giải Oan và ký tên Phạm Hộ Pháp. Chỉ duy nhất bài nầy là có căn cứ để viết Đức Hộ Pháp là tác giả. Nếu TS Chánh kết luận Cụ Phạm Công Tắc sáng tác bài Kinh Giải Oan là có cơ sở, nhưng mở rộng ra là sai.

Diện ba: là các bài Kinh do phò cơ mà có. Mà phò cơ thì có hai đồng tử, Đức Hộ Pháp là một trong hai đồng tử nên cũng không thể qui kết Cụ Phạm Công Tắc là tác giả. Xét theo cách của TS Chánh là không có thần linh nào nhập cơ hết, các bài kinh hoàn toàn do hai đồng tử tạo ra thì Cụ Phạm Công Tắc là đồng tác giả. Nhưng TS Chánh gán tác quyền cho một mình Cụ Phạm Công Tắc là sai với công ước Berne.

(Ảnh hai đồng tử phò cơ).

Như vậy phần Kinh Thiên Đạo, chỉ duy nhất bài Kinh Giải Oan có đủ điều kiện pháp lý để gán tác quyền cho Cụ Phạm Công Tắc (theo công ước Berne).

3.3.3/- Phần Kinh Thế Đạo (20 bài).

Phần này có hai diện.

Diện một: Đức Hộ Pháp viết 10 bài và chú thích: Mười bài Kinh song thất lục bát nầy của Đức Phạm Hộ Pháp đặt ra, có Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn chỉnh văn lại. Nếu xét theo cách của TS Chánh thì 10 bài nầy có cơ sở để viết Cụ Phạm Công Tắc là tác giả (nhưng mở rộng ra là sai).

Diện hai: các bài còn lại do phò cơ mà có, mà phò cơ thì luôn luôn là hai người, cho nên áp dụng cách của TS Chánh, áp dụng Luật tác quyền theo Công ước Berne thì Cụ Phạm Công Tắc là đồng tác giả. TS Chánh gán tác quyền cho Cụ Phạm Công Tắc trong các bài do phò cơ mà có là sai.

Như vậy phần Kinh Thế Đạo, chỉ 10 bài có chú thích rõ ràng là có thể gán tác quyền cho Cụ Phạm Công Tắc. Các bài còn lại do phò cơ là sản phẩm tập thể, nên áp dụng Công ước Berne thì Cụ Phạm Công Tắc là đồng tác giả. TS Chánh gán toàn bộ tác quyền Kinh Thế Đạo cho Cụ Phạm Công Tắc là sai pháp lý.

Tóm lại: Căn cứ vào luật thế tục là Công ước Berne (1886, sửa đổi), do WIPO quản lý. Trong Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo, chỉ bài Kinh Giải Oan (phần Thiên Đạo) và 10 bài phần Kinh Thế Đạo có chú thích rõ ràng là có cơ sở viết do Cụ Phạm Công Tắc sáng tác. TS Phạm Trọng Chánh mở rộng tác quyền ra toàn bộ phần Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo là sai pháp lý về xác lập tác quyền.

HẾT TRANG 04

 Kết luận.

Ông Phạm Trong Chánh, TS Khoa học và Giáo dục Viện Đại Học Paris V đứng trên quan điểm thế tục và duy lý để viết câu kết: … Tuy nhiên ngày nay, tôn trọng luật quốc tế về văn bản, bản quyền không thể xem những lời kinh lễ Đạo Cao Đài là của Victor Hugo, mà chỉ có thể xem đó là sáng tác của cụ Phạm Công Tắc cảm hứng từ Victor Hugo./. (Hết bài).

Bài phản biện căn cứ vào công ước Berne (1886, sửa đổi), do WIPO quản lý để làm rõ câu kết của TS Chánh có 3 cái sai:

Thứ nhất: Sai đối tượng pháp lý, không xác định đúng đối tượng pháp lý là văn bản gốc là Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo.

Thứ hai: Đánh tráo khái niệm về bản quyền (quyền tài sản, có thể chuyển nhượng) để chuyển pháp lý qua tác quyền (quyền nhân thân, không thể chuyển nhượng).

Thứ ba: Gán cho Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc sáng tác ra Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo là sai.

4/- Hậu quả từ bài viết của TS Phạm Trọng Chánh.

Trong ba bài phản biện, Tôi đã chỉ ra những điều bịa đặt và sai lệch rất rõ ràng trong bài viết của TS Phạm Trọng Chánh: bịa đặt nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử (bài 1), viết phản khoa học thiếu chứng cứ lịch sử (bài 2), sai về pháp lý trong việc gán tác quyền (bài 3). Những bịa đặt và sai lệch này gây ra hậu quả:

Thứ nhất, làm tổn hại đến danh giá và hình ảnh thiêng liêng của Đạo Cao Đài, một tôn giáo do Đức Cao Đài Thượng Đế lập ra bằng cơ bút năm 1926. TS Chánh viết … đám đông đã phục tùng ý kiến tay Tam Điểm trẻ Vidal … để mô tả chức sắc Cao Đài như một tập thể ô hợp, không có tổ chức, trong khi thực tế Đạo Cao Đài có cơ cấu rõ ràng như một quốc gia, với hiến pháp tôn giáo có hệ thống tam quyền phân lập. Việc mô tả sai này làm lệch bản sắc pháp quyền của Đạo Cao Đài, để xây dựng nhân quyền, xây dựng xã hội hòa bình, dân chủ và tự do.

Thứ hai, tạo chuỗi hiệu ứng “Dĩ hư truyền hư”. Nhờ học vị TS Khoa học và Giáo dục Viện Đại học Paris V, bài viết của TS Chánh được phổ biến rộng rãi từ Việt Nam đến hải ngoại. Những sai lệch vì thế cũng lan truyền ra công chúng, đó là hiệu ứng “Dĩ hư truyền hư”. Điều này tương tự như việc TS Chánh tiếp nhận nội dung từ luận án tiến sĩ của TS Trần Thu Dung (Đạo Cao Đài và Victor Hugo) mà không kiểm chứng, rồi tiếp tục phổ biến những điều bịa đặt và sai lệch từ tác phẩm của Bà Dung. Chuỗi sai lệch học thuật này là chuỗi hiệu ứng Dĩ hư truyền hư; nên cần được cảnh báo rõ ràng trước công luận.

5/- Lời kết.

Trong bối cảnh Hội Thánh Cao Đài bị nhà nước Việt Nam xóa bỏ năm 1983, Tòa Thánh Tây Ninh, các Thánh Thất và Điện Thờ của Đạo Cao Đài đang bị chi phái 1997 chiếm giữ. Căn cước tôn giáo của Đạo Cao Đài bị chi phái 1997 sử dụng để mạo nhận là Đạo Cao Đài đã dẫn đến việc xã hội hiểu sai về bản sắc trong lành của Đạo. (1)

Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý 171B Cống Quỳnh Sài Gòn do ông Đinh Văn Đệ là Dân biểu Việt Nam Cộng Hòa, cũng là điệp viên cao cấp của cộng sản (bí danh U4, đạo hiệu Thiên Vương Tinh) điều phối. Cơ quan này là nơi xuất bản nhiều đầu sách viết lại lịch 

HẾT TRANG 05

sử, giáo lý và triết lý Đạo Cao Đài theo hướng trái ngược với Hội Thánh gốc. Năm 1994 cơ quan này xuất bản sách Tìm Hiểu Đạo Cao Đài, trang 40 gọi Hội Thánh Cao Đài từ năm 1926 đến 1983 là “một chi phái so hàng với các chi phái khác”. (2)

Trong bối cảnh đặc biệt nghiêm trọng như vậy, bài viết của TS Phạm Trọng Chánh đã góp phần làm gia tăng mức độ sai lệch mà cộng đồng Đạo Cao Đài chơn truyền đang phải đối mặt về mặt pháp lý, lịch sử và căn cước tôn giáo.

Đạo Cao Đài xuất phát từ Việt Nam, nên mang đậm tinh thần văn hóa Việt Tộc. Sức sống của Đạo gắn liền với truyền thống dân tộc, và được củng cố bởi cơ cấu pháp quyền do Đức Cao Đài thiết lập. Người Đạo Cao Đài có nền tảng bi–trí–dũng để hành đạo, bảo vệ danh giá và bản sắc trong lành của Đạo Cao Đài.

Trong trách nhiệm người cầm bút và phản biện, tôi mong rằng những học giả từng hiểu sai về Đạo Cao Đài sẽ có dịp xem xét lại để điều chỉnh cho đúng. Tôi sẵn sàng đối thoại, hội luận với TS Phạm Trọng Chánh và TS Trần Thu Dung về nội dung phản biện, vào bất kỳ thời điểm và không gian nào, trên tinh thần công bằng và minh bạch./.

Dallas ngày 24-9-2025.
Dương Xuân Lương.
Email:
hoabinhchungsong220513@yahoo.com

 

(1)/-

https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2018/03/2571-ao-cao-ai-mot-truong-hop-bi-anh.html#more

https://vietnamthoibao.org/vntb-co-quan-pho-tong-giao-ly-ban-troi-khong-moi-thien-loi/

(2)/-

https://vietnamthoibao.org/vntb-co-quan-pho-thong-giao-ly-can-cuoc-nhiem-vu/

 

 HẾT TRANG 06