Ngày 18-2-1931, Ngài Thái Thơ Thanh và Bà Lâm Hương Thanh dâng sớ lên Đại Từ Phụ xin xây Thái Cực Tòa Đồ. Đức Chí Tôn dạy Đức Lý Giáo Tông và các Đấng trả lời.
Phần trả lời có nhiều ý từ sâu xa, hâu tấn học đạo nên lấy đó làm đuốc soi đường (Ý các Đấng dạy tạo Tăng hơn là tạo cảnh, tạo tự). BBT
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Đệ lục niên)
Chánh ngoạt, sơ nhị nhựt, Tân Vị,
Khâm Thiên Tổng quản Tài Chánh, phụng
sắc Chưởng quản tài liệu, Tổng lý Công viện, Lương viện, Hộ viện, Nông viện, Phổ
Độ viện, Quyền Thái Đầu Sư Chủ Tọa Hội Thánh, Quản lý tạo tác Tổ đình, Thái Thơ
Thanh kỉnh bút,
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đệ lục niên,
Chánh ngoạt, sơ tam nhựt, Tân Vị, Nữ Chánh Phối Sư Hương Thanh đề bút,
Tượng mãn Đại Đạo hoằng khai Tam Kỳ
Phổ Độ lưu truyền thiên vạn cổ, bủa khắp Ngũ Châu, thì nền Chơn đạo phải to tát
mới ra cảnh tượng thể thống Đạo cả.
Vì vậy mà hai tôi nong nả đêm ngày
lo mở mang cuộc Thánh địa, chế ra miền Tây Vức, bởi nông trường cực nhọc, trên
nhờ sức thiêng liêng Đại Từ Phụ ban bố, mới xui khiến mua thêm được 100 mẫu đất
rừng, của tư bổn vợ chồng tôi xuất ra mua, liên tiếp Thánh địa, nốì dài ra tới
Ngã ba đường Mít Một (Boulevard d’Anglais), bề mặt tiền trên 2000 thước, giáp
ranh Bá Huê Viên, nối liền Động Đình Hồ, 1000 thước của Thánh địa nữa, cộng
chung là 3000, cầu nguyện Đức Chí Tôn ban ơn ngày sau Hội Thánh mở mang ba phía
là: Đông, Nam, Bắc, mỗi phía 3000 thước vuông vức, cộng là 12 ngàn thước, đặng
xây vách thành cao lớn giáp 4 phía, dựng nên miền Tây Vức, đề hiệu là THÁI CỰC
TOÀN ĐỒ.
Trong chia ra hai cuộc: Phía Chánh
Bắc, xây cửa thành lớn, đắp chữ nổi cao “ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ BỘ”, lộ ra bốn chữ
to tát là “ĐẾ THIÊN THƯỢNG HOÀNG”; còn phía Chánh Nam, cũng tại cửa thành ba mặt
như nhau, đề hiệu “ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ”, hiện bốn chữ “ĐẾ THÍCH PHẬT TỔ”;
phía Chánh Tây, tạo một cuộc Ngũ Quang Môn, nghĩa là Đại Thành Môn, có năm cửa
Ngũ Chi Đại Đạo, hiện bốn chữ nổi “THÁI CỰC TOÀN ĐỒ”, lưỡng biên có hai cửa nhỏ
hiện tám chữ “TẢ THÔNG QUẢN NỘI” và “HỮU ĐẠT THỪA MINH” còn Chánh Đông Môn thì
cửa thành y kiểu ba phía đề hiệu là Tây Vức Cảnh.
Trong Thái Cực Toàn Đồ chia ra hai
cuộc: Bên phía Bắc là BẠCH NGỌC KINH, tạo tác Tổ Đình, có Bá Huê Viên, Động
Đình Hồ, Đức Thế Tôn ngự mã thoát trần, Đức Di-Lạc giáng thế khai Long Hoa Hội.
Hai bên là Rừng Thiên Nhiên, phía sau lập Cửu Viện Cửu Trùng Đài, Thiên Phong
đường, Đầu Sư đường, Chánh Phối Sư đường, Hộ Pháp đường, Thái Y viện, Dưỡng Lão
Ấu, Tịnh Thất Sở, và Học đường, Dưỡng đường, với các xưởng Bá công kỹ nghệ.
Còn các con đường: 1. Như Lai Đồ,
2. Di-Lạc Đạo, 3. Phước Đức Cù, 4. Oai Linh Tiên, 5. Bình Đẳng Đồ, 6. Sử Quân Tử,
7. Thái Hòa Lộ, 8. Bình Dương Đạo, 9. Tây Qui Trực Chỉ. 10. Thượng Hòa lộ.
Còn bên phía Nam thì tạo cực LẠC VÔ
VI CẢNH GIỚI, là đắp con đường lớn dài từ Nam chí Bắc, từ Đông giáp Tây, gọi là
TỨ TƯỢNG ĐỒ biến BÁT QUÁI, chính giữa Ngã Tư biến ra Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn,
Ly, Khôn, Đoài, giữa trung tim, un đúc một cảnh Nội Điện Đế Thích, giống in như
cuộc cổ tích trên chốn Đế Thiên gần nước Xiêm La vậy. Trong cảnh Cực Lạc có Bát
Bộ Kim Cang và Lục Thông Cơ Sở. Bát Bộ Kim Cang có 8 cảnh: 1. Quan Âm Các, 2.
Long Nữ Điện, 3. Tàng Kinh Viện, 4. Phổ Đà Sơn, 5. Kim Cang Động, 6. Bồ Đề Ốc,
7. Tây Vức Trì, 8. Bát Bửu Tịnh Thất. Lục Thông Cơ Sở có 6 cuộc: 1. Giảng đường
2. Tịnh đường 3. Túc đường 4. Dưỡng đường 5. Thiên Ân đường 6. Học đường.
Còn nơi phía tả Đông Nam lại xây
núi Phổ Đà Sơn, trên đảnh trung có cốt Đức Từ Hàng Đạo Nhơn thành Phật. Trong Từ
Bi làm các cuộc nhỏ kể ra sau đây: tạo Thất Bửu tháp, cất Thưởng Liên đình, và
tạo Từ Thoàn lâm, trong cuộc Từ Thoàn có 3 con đường cái: là Bát Nhã Đạo, 2. Bồ
Đề Lộ, 3. Như Ý Cảnh. Lựa những bậc chơn tu trường trai khổ hạnh, từ trung thừa
sắp lên mới cho ở vào trong cuộc Từ Thiền Lâm nầy, Phạm Môn nầy vuông vức 300
công, Khách đình Sứ quán và Thông Thiên Đài cũng tại nơi trong đó, ấy là bên hướng
Nam. Còn bên hướng Bắc thì Thái Bình Địa, 500 công, cất Chợ Từ Bi, Nhà Thương,
Nhà Thí Nhà Mát, Nhà Nghỉ, bực tín đồ nhập môn theo Hạ thừa sắp lên thì dược
phép ở.
Ước mong ngày sau, Hội Thánh mở
mang cuộc Thánh Địa nầy cho giáp hết khoảnh núi Điện Bà đặng ra vẻ nền Chơn đạo.
Trân trọng một bài kính cáo, nguyện
cầu Đạo mạch hoàn toàn lưu truyền, trăm họ trước sau an nhàn.
Thái Thơ Thanh, Lâm Hương Thanh kỉnh
đề.
Chuyền đạt Thiên Đình, ngưỡng vọng
Đại Từ Phụ Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát từ bi chứng chiểu.
Ngu đệ tử phục thủ bá bái.
HẾT
NGÀY
2–1–TÂN MÙI (DL 18–2–1931) NGÀI THÁI THƠ THANH VÀ BÀ HƯƠNG THANH ĐỔNG DÂNG SỚ
LÊN ĐỨC CHÍ TÔN
Ngài Thái Thơ Thanh và Bà Hương Thanh đổng
dâng sớ lên Đức Chí Tôn xin xây dựng Thái Cực Toàn Đổ nơi Thánh địa.
Tiếp
theo 1.
Đức Chí
Tôn không giáng cơ trả lời Tờ Sớ nầy mà lại giao cho Đức Lý Giáo Tông trả lời.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
LÝ GIÁO TÔNG
Phò loan: Hộ Pháp – Văn Pháp.
Tòa Thánh, đêm mùng 1–7–Tân Mùi (dl 14–8–1931).
Lão
chào đó. Cười.......
Lão
hiểu lòng Hiền hữu thế nào, Lão đã thấu.
Ông
Thái CPS Thái Thơ Thanh bạch: Vì môn đệ muốn bong đủ hình tượng cốt Phật đặng
khai trường hương 100 ngày, là cố ý độ bên phái Thái Thiền môn theo Tam Kỳ Phổ
Độ.
Đức
Lý: Phải bỏ cả hình tượng Thiền môn thì mới mong tạo thành Cực Lạc Vô Vi Cảnh
giái, hiểu à! Lão dặn phải tái thủ quyền hành và phải hiệp trí cùng Hội Thánh
mà sửa đương cơ đạo nghe!
Ông
Thái Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh bạch: Lập Cực Lạc Vô Vỉ cảnh gỉáỉ thể nào
xin Ngài phán chỉ.
Đức
Lý: Phải hỏi Hộ Pháp chỉ cho.
Đức
Hộ Pháp bạch: ……………
Đức
Lý: Tạo lần lần làm cho thành cũng hết phải đôi ba thế kỷ, miễn là Hiền hữu
khởi ra là đủ phận.
Hộ
Pháp đã thấy, vậy thì Hiền hữu nên hiệp cùng người mà vẽ họa đồ rồi dâng cho
Lão xem lại.
THĂNG.
Tiếp
theo 2
Đêm mùng 9–12–Tân Mùi (đl 16–1–1932),
Đức Hộ Pháp chấp bút lúc 12 giờ khuya.
Đại kế qui nguơn dĩ định thời,
Hành tàng cụ pháp chưởng phong lôi.
Thiền lâm nhược bất khai môn nội,
Cửu nhị nguyên nhơn bất cố hồi.
Thường Cư Nam Hải Quan Âm Như Lai vấn
Ngã Quan — Thơ
Tiếp
theo 3 và 4 (hết).
(Đức Chưởng Đạo và Đức Bà Lục Nương dạy).
Phạm Môn, ngày 15–12–Tân Mùi (dl
22–1–1932).
Phò loan: Hộ Pháp – Tiếp Đạo.
Hầu đàn: Quyền Giáo Tông, Thái Chánh Phối Sư.
NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN OU VICTOR HUGO
Bonjour Pape et Hộ Pháp, ainsi que
tous mes freres et soeurs. Puisqu’ il y a mon subordonné direct Thái Thơ T hanh
F aime mieux faire des vers annamites et non francais.
Je commence:
Mặt nhựt rạng nhờ trời thanh bạch,
Cõi trần may nhờ khách đức dày.
Mùi thơm sen Phật đã bay,
Từ bên Đông Á phô bày Tây Âu.
Nước hằng sống rửa sầu thế sự,
Chuyển Chơn linh đổi dữ theo lành.
Vạn bang dẹp cuộc chiến tranh,
Lập cơ thoát khổ độ sanh muôn loài.
Kẻ vì mị đoái hoài giả đạo,
Kẻ hay tin quái giáo gây trò.
Nguyên nhân lỡ bước ai lo,
Đem đường Cực Lạc đưa đò mê tân.
Khá mở ngõ Thiền Lâm cho chóng,
Các nguyên linh trông ngóng bấy lâu.
Biết thân lại đợi ai cầu,
Khó viết!
Vous n’ êtes pas assez bons
lecteurs. Mes excuses,
▶ TÁI CẦU:
Cười… Em chào mấy anh.
LỤC NƯƠNG (JEANNE D’ARC)
Quyền Giáo Tông bạch: Xin Tiên
Nương tiếp giùm bài văn của Đức Nguyệt Tâm đặng dạy cho rõ việc Thiền Lâm.
Người đã lui bước, cậy em nối điêu:
Em tiếp:
Cầm gươm thần huệ,
xây lầu nguyệt quang.
Dục thế tục an nhàn lấy phận,
Sửa Thiên cơ khỏi vấn vương oan.
Để chân vào chốn Niết Bàn,
Thoát vòng luân chuyển may đàng tầm duyên.
Tu đặng pháp nhà Thiền ít kẻ,
Những đam mê theo lẽ dối đời.
Sa môn chánh pháp đổi dời,
Con buôn cửa Phạm gạt người thiện tâm.
Phải hiểu nghĩa Thiền Lâm cho rõ,
Các thinh âm chẳng có cửa Không.
Bớt điều sắc tướng hoàn vong,
Bớt điều hồ mị nhọc lòng Phạn hương.
Bớt các lẽ người đương mê tín,
Nhập Tịnh gia cậy lịnh Thích Ca.
Bớt điều làm sãi bó ma,
Đưa linh lại mượn có nhà minh sanh.
Bớt những lẽ giựt giành bái phước,
Lấy Vu Lan đặng được ấm no,
Bớt kinh bớt xá dâng thơ,
Mã môn con hát giả đò giải khiên.
Bớt cậy Phật lập quyền Địa Ngục,
Bớt đồ mưu lấy phục Di-Đà.
Bớt phương giải nạn tinh ma,
Lập nên danh phận cho nhà quỉ tăng.
THÁI THƠ THANH,
Anh khá kiếm lời răn của Phật,
Lấy từ bi dìu dắt Sa môn.
Phật tăng như xác không hồn,
Lấy câu cứu khổ làm môn độ đời.
Anh nên mở cho rồi Cực Lạc,
Lập phương tu cho các chư sơn.
Tùng theo Tân Pháp Chí Tôn,
Đường tu cửa Phật may huờn như xưa.
Thái Thơ Thanh.
EM nói rõ cho vừa ANH hiểu,
Bác Thiền Lâm, tùng pháp Tam Kỳ.
Pháp mầu hai chữ Từ Bi.
Em
xin kiếu
THĂNG.
Bản PDF
Ảnh chụp