TS Thu viết: Đạo Cao Đài do một nhóm người sáng lập. Họ là quan lại, công chức, điền chủ dưới thời thực dân Pháp ...
TS Thu đã đọc từ nguồn nào đã căn cứ vào đâu để viết như vậy?
BBT đăng lại toàn bộ bài viêt: Bản vi tính, bản pdf và ảnh chụp để quý đồng đạo xa gần phản biện.
Nay kính BBT.
BẢN VI TÍNH.
TÔN GIÁO BẢN ĐỊA TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
CỦA CƯ DÂN NGƯỜI VIỆT Ở NAM BỘ, VIỆT NAM
Huỳnh Ngọc
Thu
Khoa Nhân học,
Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG-HCM
1. Đặt vấn đề Thuật ngữ tôn giáo bản
địa được sử dụng trong bài viết nhằm chỉ những tôn giáo do người Việt ở Nam Bộ
sáng lập nên vào khoảng nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX như Bửu Sơn Kỳ Hương,
Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo… Do bởi, đây là những tôn giáo
mang sắc thái của khu vực Nam Bộ, xuất hiện trong một bối cảnh lịch sử cụ thể
và mang dấu ấn kinh tế-văn hóa-xã hội của vùng văn hóa Nam Bộ. Chính vì thế,
các tôn giáo này có vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa của cư dân ở khu
vực này nói chung và của người Việt tại đây nói riêng.
https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2025/09/6035-tien-si-huynh-ngoc-thu-va-luan-ieu.html#more
Nghiên cứu về tôn giáo bản địa ở
Nam Bộ, Việt Nam đến nay có khá nhiều công trình được công bố trên các sách, tạp
chí,… Cụ thể như: 1) Nghiên cứu về Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa có thể
kể đến những công trình của Vương Kim và Đào Hưng (1953, 1966), Nguyễn Văn Hầu
(1956), Hà Tân Dân (1971), Nguyễn Hữu Hiệp (1974), Đinh Văn Hạnh (1996, 1997,
1999),… 2) Nghiên cứu về Phật giáo Hòa Hảo, ngoài những công trình mang tính
giáo lý, giáo luật của tôn giáo do ông Huỳnh Phú Sổ biên soạn, còn có các công
trình nghiên cứu của Lê Thành Thảo (1974), Vương Kim (1975), Phạm Bích Hợp
(1999),… 3) Nghiên cứu về Cao Đài, ngoài những công trình của chức sắc, tín đồ
tôn giáo và các học giả trong nước, còn có nhiều công trình nghiên cứu của các
học giả nước ngoài như của G. Coulet (1929), Gabriel Gobron1 (1948, 1949), R.B.
Smith (1970), Jayne S. Werner (1974), Janet Hoskins (2010), Jeremy Jammes
(2009, 2010), Ninh Thien-Huong (2011)…
Trên cơ sở kế thừa tài liệu từ những
công trình nêu trên, cùng với nguồn dữ liệu điền dã do tôi và các giảng viên,
sinh viên của Khoa Nhân học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh thu thập tại cộng đồng tín đồ các tôn giáo bản địa
ở khu vực Nam Bộ trong nhiều năm qua, bài viết phân tích về sự đóng góp của tôn
giáo bản địa đối trong đời sống tín đồ ở hai cấp độ cá nhân và cộng đồng.
------
(1)/- Ông Gabriel Gobron được Hộ
pháp Phạm Công Tắc và Quyền Giáo tông Lê Văn Trung của Đạo Cao Đài phong phẩm
Tiếp Dẫn Đạo Nhơn vào năm 1932 và được cử làm đại diện cho đạo Cao Đài tại Pháp
nói riêng và châu Âu nói chung
HẾT TRANG 01
2. Tổng quan về các tôn giáo bản địa
ở Nam Bộ Các tôn giáo bản địa hiện nay có tín đồ đông ở khu vực Nam Bộ gồm: Bửu
Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật giáo Hòa Hảo và Cao Đài. Theo kết quả thống
kê dân số và nhà ở năm 2019, số lượng tín đồ của các tôn giáo này như sau:
Bảng số
lượng tín đồ của các tôn giáo bản địa
(Đơn vị: người)
STT |
Tôn giáo |
Tổng số Tín Đồ |
Số Tín Đồ Nam |
Số Tín Đồ Nữ |
1 |
Bửu Sơn Kỳ Hương |
2.975 |
1.542 |
1.433 |
2 |
Tứ Ân Hiếu Nghĩa |
30.416 |
15192 |
15.242 |
3 |
Phật Giáo Hòa Hảo |
983.079 |
491.099 |
491.980 |
4
|
Cao Đài |
556.234 |
262.080 |
294.154 |
(Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2020, biểu
2, tr. 21)
Các tôn giáo này có quá trình hình thành và
phát triển khác nhau. Cụ thể như:
- Bửu Sơn Kỳ Hương: Do ông Đoàn Minh Huyên (còn gọi
Đoàn Văn Huyên) sáng lập vào năm 1849 tại Tây An Cổ tự (trước đó là cốc Ông Kiến),
nay thuộc xã Long Giang, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
Để thực hiện đường lối tu hành nhập
thế, ông Đoàn Minh Huyên đã lệnh cho các đệ tử trực truyền dẫn tín đồ đi khai
hoang, lập làng ở nhiều nơi như: vùng Bảy Núi (An Giang), Láng Linh (Châu Phú),
vùng Cái Dầu (Châu Phú), vùng Cần Lố - Rạch Ông Bường (Cao Lãnh, Đồng Tháp),...
Ngày 12 tháng 8 âm lịch, năm 1858, ông tịch, hưởng dương 50 tuổi. Phần mộ của
ông được thiết lập bên trái chùa Tây An hiện nay.
Hiện nay, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương có
khoảng 3 ngàn tín đồ, chủ yếu là người Việt, phân bố ở các tỉnh An Giang, Đồng
Tháp, Bến Tre, Long An, Bà Rịa Vũng Tàu, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Tiền Giang,...
Trong đó tập trung đông nhất ở tỉnh An Giang với khoảng 2 ngàn tín đồ và hơn 20
ngôi chùa, cơ sở thờ tự.
Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương không có giáo
hội thống nhất mà phát triển theo phương thức truyền thừa được dẫn dắt bởi các
tín đồ uy tín. Do vậy, cách thức hoạt động của tôn giáo khá lỏng lẻo; chỉ thành
lập Ban Trị sự, Ban Quý tế ở các chùa có đông tín đồ để chăm lo những hoạt động
tôn giáo. Ở chùa ít tín đồ chỉ có thủ tự đảm nhận các vai trò trong hoạt động
tôn giáo tại chùa.
Hàng năm, tôn giáo này có các ngày
lễ như: Lễ Thượng ngươn (Rằm tháng Giêng), Lễ Trung ngươn (Rằm tháng bảy), Lễ Hạ
ngươn (Rằm tháng mười); Lễ kỷ niệm ngày viên tịch của Đoàn Minh Huyên (ngày
12/8 âm lịch); Lễ cúng đức Quản cơ Trần Văn Thành (21 - 22/2 âm lịch),... Niềm
tin và thực hành tôn giáo của tín đồ là cầu nguyện cho bản thân và gia đình được
bình an, công việc được thuận lợi, tiêu trừ mọi tội lỗi,... và nguyện quan trọng
nhất là được giải thoát ở cuộc sống hậu lai.
HẾT TRANG 02
- Tứ Ân Hiếu Nghĩa: Do ông Ngô Lợi (Đức Bổn Sư) sáng
lập vào năm 1867 tại Cù lao Ba (xã Vĩnh Trường, huyện An Phú, tỉnh An Giang).
Tôn giáo này còn được gọi là đạo Thờ Ông Bà (Ủy Ban Nhân dân tỉnh An Giang,
2013, tr. 801).
Năm 1879, Đức Bổn Sư cùng tín đồ về
vùng núi Tượng (xã Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang) khẩn hoang lập làng.
Ông lập nhiều cơ sở thờ tự, nhất là ở khu vực ven chân núi Tượng tại An Giang
và hiện nay khu vực này được xem là vùng thánh địa của tôn giáo này.
Giáo lý Tứ Ân Hiếu Nghĩa xoay quanh
việc dạy tín đồ sống có tình nghĩa, biết yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau, có
trách nhiệm với đất nước, thờ cúng ông bà tổ tiên. Điều này được thể hiện trong
thuyết “Tứ Ân”, “Hiếu Nghĩa" và hình thức “Học phật tu nhân”, hành xử theo
“thập nhị giáo điều” của tôn giáo. Người nhập đạo được cấp một bộ lòng phái, và
truyền dạy pháp niệm bồ đề, dạy nghi tiết các lễ cúng.
Hiện nay, tôn giáo này có trên 30
ngàn tín đồ, chủ yếu là người Việt, tập trung ở các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Cần
Thơ, Vĩnh Long, Trà Vinh,... Trong đó, An Giang được xem là trung tâm của đạo.
Nơi đây có gần 40 cơ sở thờ tự, 24 tổ chức tôn giáo cơ sở, có khoảng 20 vị chức
sắc và 307 vị chức việc. Ngày 16/6/2010, Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang đã ban
hành Quyết định số 1114/QĐ-UBND công nhận tư cách pháp nhân của tổ chức tôn
giáo này.
- Phật giáo Hòa Hảo: Do ông Huỳnh Phú Sổ (Huỳnh Giáo chủ)
sáng lập vào năm 1939 tại làng Hòa Hảo, An Giang. Tín đồ ban đầu chủ yếu là dân
trong làng và lân cận làng Hòa Hảo. Sau đó, tín đồ ngày một đông, trải rộng khắp
vùng Tây Nam Bộ. Ngày 5/12/1964, Bộ Nội vụ Chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban
hành Nghị định số 112 công nhận đây là một tổ chức tôn giáo hợp pháp và cho
phép Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo chính thức hoạt động. Sau năm 1975, tôn giáo
này tiếp tục phát triển dưới sự điều hành của Ban Trị Trung ương Phật giáo Hòa
Hảo.
Hiện tại, tôn giáo này có gần 1 triệu
tín đồ, phân bố rộng khắp khu vực Nam Bộ và còn lan tỏa ra nhiều tỉnh thành
khác của cả nước, chủ yếu là người Việt. Trong đó, khu vực An Giang được xem là
nơi có nhiều tín đồ nhất, với gần 800 ngàn người, 948 chức việc, 14 cơ sở thờ tự
và 135 ban trị sự cấp xã, phường (Ban Tôn giáo tỉnh An Giang, 2020).
Giáo lý Phật giáo Hòa Hảo là học Phật,
tu nhân, thực hành Tứ ân (gồm: Ân tổ tiên cha mẹ, Ân đất nước, Ân tam bảo, Ân đồng
bào và nhân loại) (Ban Trị sự Trung ương Phật giáo Hòa Hảo, 2018, tr. 14).
Trong sinh hoạt lễ nghi, tôn giáo này luôn hướng đến sự đơn giản.
- Cao Đài: Tôn giáo này xuất hiện Nam Bộ vào
nửa đầu thế kỷ XX, có tên đầy đủ là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Đạo Cao Đài do một nhóm người sáng lập. Họ là quan lại,
công chức, điền chủ dưới thời thực dân Pháp và được xem là đệ tử trực
tiếp của Ngọc Hoàng Thượng Đế, tín đồ tôn xưng là Đức Chí Tôn.
HẾT TRANG 03
Đạo Cao Đài xây dựng niềm tin về
nguồn gốc vũ trụ và con người rất dễ hiểu. Giải thích về nguồn gốc vũ trụ, đạo
Cao Đài dựa trên nền tảng triết học phương Đông để đưa ra quan điểm về vũ trụ.
Theo đó, vũ trụ khởi thủy từ một khối hỗn mang, gọi là Thái cực, từ Thái cực
sinh Lưỡng nghi, rồi sinh Tứ tượng, hình thành nên Bát quái và từ đó sinh ra vạn
vật trong trời đất. Cao Đài luôn hướng đến yếu tố qui tam giáo (gồm Phật giáo,
Đạo giáo và Nho giáo), hiệp ngũ chi (gồm Nhân đao, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo
và Phật đạo) để giải thích cho sự tạo tác vũ trụ và hình thành tư tưởng đại đồng
tôn giáo. Tín đồ Cao Đài tin vào sự giải thoát (Thiên đường) và sự đọa đày (Địa
ngục).
Nghi lễ của đạo Cao Đài có hai phần:
Nghi lễ Thiên đạo và nghi lễ Thế đạo. Nghi lễ Thiên đạo được thực hiện nhằm biểu
thị niềm tin của tín đồ đối với các đấng thiêng liêng trong tôn giáo. Nghi lễ
Thế đạo được thực hiện dành cho những người còn tại thế, nhằm hướng họ đến sự
hoàn thiện trong đời sống của tín đồ.
Hiện nay, đạo Cao Đài có 11 tổ chức
được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân gồm: 1) Cao Đài Tiên Thiên (được công
nhận vào ngày 27/11/1995). 2) Truyền giáo Cao Đài (ngày 24/9/1996). 3) Cao Đài
Chiếu Minh Long Châu (ngày 27/7/1996). 4) Cao Đài Minh Chơn Đạo (ngày
02/8/1996). 5) Cao Đài Ban Chỉnh Đạo (ngày 08/8/1997). 6) Cao Đài Tòa thánh Tây
Ninh (ngày 27/9/1997). 7) Cao Đài Bạch Y Liên Đoàn (ngày 8/7/1998). 8) Cao Đài
Minh Chơn Lý (ngày 14/3/2000). 9) Cao Đài Cầu Kho - Tam Quan (ngày 28/4/2000).
10) Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi (tháng 4 năm 2010). 11) Cao Đài Việt Nam
(Bình Đức) (tháng 7 năm 2011). Ngoài ra, còn có các tổ chức Cao Đài độc lập
khác hoạt động trên tinh thần tự do tín ngưỡng tôn giáo. Tín đồ của Cao Đài hiện
nay có trên 550 ngàn người, không chỉ là người Việt mà có cả người Hoa, người
Khmer, người Tà Mun… theo tôn giáo này.
3. Vai trò của các tôn giáo bản địa
trong đời sống văn hóa cá nhân tín đồ
Hiện nay, tôn giáo bản địa có vai
trò quan trọng trong đời sống văn hóa của từng tín đồ. Điều này được thể hiện
qua sự chi phối của giáo lý tôn giáo trong nghi lễ đời người, trong quan niệm
và hành vi sống của tín đồ.
3.1. Các nghi lễ liên quan đến đời
người
Đây là chuỗi nghi lễ được tính từ
khi con người còn nằm trong bụng mẹ đến khi ra đời, trưởng thành và mất đi. Đối
với tín đồ các tôn giáo bản địa, nghi lễ đời người được xem xét trong sự chi phối
của giáo lý tôn giáo, gồm lễ nhập môn, hôn lễ, tang lễ.
- Lễ nhập môn: Còn gọi là lễ nhập đạo được tổ chức
nhằm đánh dấu một cá nhân trở thành một tín đồ của tôn giáo. Tùy theo qui định
của mỗi tôn giáo mà lễ nhập môn diễn ra với những nghi thức khác nhau.
Trong các tôn giáo bản địa ở Nam Bộ,
lễ nhập môn của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương có lẻ đơn giản hơn cả. Người muốn nhập môn
chỉ cần gặp đức Phật Thầy (ông Đoàn Minh Huyên) hoặc các đệ tử chân truyền của
ông để được hướng dẫn và thọ giáo. Người nhập
HẾT TRANG 04.
môn cầm 3 cây nhang xá và tuyên thệ
trước bàn thờ tôn giáo là trở thành môn đồ. Sau đó, được Đức Phật Thầy ban cho
Lòng phái (mảnh giấy màu vàng, trên có in 4 chữ Bửu Sơn Kỳ Hương bằng triện
son). Lòng phái là vật thiêng liêng của tín đồ, là giấy “chứng nhận” và cũng là
“bùa” hộ thân của tín đồ, và được chôn theo khi người đó chết (Hoàng Văn Việt,
2006, tr. 154).
Với Tứ Ân Hiếu Nghĩa, lễ nhập môn với
nhiều nghi thức hơn. Người nhập môn phải học thuộc những quy định, kinh sách của
đạo trước khi thực hiện nghi lễ. Lễ nhập môn thường diễn ra vào các dịp Thượng
ngươn (Rằm tháng Giêng), Trung ngươn (Rằm tháng bảy) và Hạ ngươn (Rằm tháng mười).
Trong lễ, người nhập môn phải quỳ lạy trước ngôi Tam Bửu và bàn thờ Tam Bửu
gia, mỗi nơi hai lạy, sau đó được ban một bộ Lòng phái, gồm các tờ như: Lòng
phái, Thế độ, Thái kiệt, Tiên sinh, Trần điều; ba năm sau được nhận thêm Bùa đời.
(Đinh Văn Hạnh, 1999, tr.74-76). Trừ tấm Trần điều được làm bằng vải, số còn lại
được làm bằng giấy màu vàng. Tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa cũng xem bộ Lòng phái như
báu vật và khi chết cũng được chôn theo.
Lễ nhập môn của Phật giáo Hòa Hảo lại
mang tính hành chánh nhiều hơn. Theo qui định của Đức Huỳnh Giáo chủ, người nhập
môn phải từ 18 tuổi trở lên, được sự đồng ý của cha mẹ (hoặc phải xin phép trước
bàn thờ tổ tiên), phải nhờ hai người có đức hạnh trong đạo tiến cử và bảo lãnh,
phải học thể lệ, kinh sách, cách thức tu hành tại Ban Trị sự địa phương. Người
nhập môn phải nguyện trước ngôi Tam Bảo (Bàn thờ tôn giáo) và hứa chỉ thờ Phật,
tổ tiên ông bà cha mẹ, các vị anh hùng có công với nước, không thờ các bậc thần
thánh không rõ nguồn gốc (Ban Trị sự Trung ương Phật giáo Hòa Hảo, 2004,
tr.215). Sau lễ, người nhập môn được ghi tên vào Sổ bộ đạo (số ghi danh sách
tín đồ) và được cấp thẻ tín đồ. Thẻ này được xem như “Thẻ căn cước” tôn giáo của
tín đồ.
Với đạo Cao Đài, lễ nhập môn tương
đối giống với Phật giáo Hòa Hảo. Người nhập môn phải có tuổi từ 18, cũng phải
có hai người trong đạo giới thiệu và chịu trách nhiệm hướng dẫn nghi thức, điều
lệ, kinh sách,… cho người nhập môn. Lễ nhập môn được diễn ra trước Thiên bàn
(Bàn thờ tôn giáo của đạo) tại Thánh thất hoặc Tòa thánh vào các ngày mùng 1,
14, 15, 30 âm lịch hàng tháng. Người nhập môn phải tuyên thệ trước bàn thờ tôn
giáo là suốt đời trung thành với đạo, không đổi dạ thay lòng, nếu không sẽ bị
trời tru đất diệt. Sau lễ, họ tên của người nhập môn được ghi vào Sổ bộ đạo và
được cấp một cái sớ, gọi là Sớ cầu đạo thiệt thọ. Từ đó, người này thực hiện bổn
phận của một tín đồ chính thức như ăn chay, hành lễ, cúng dường, làm công quả…
- Hôn lễ: Đây là cũng được xem là một trong
những nghi lễ quan trọng về mặt tôn giáo đối với tín đồ. Vì, nghi lễ này khởi đầu
cho việc hình thành một gia đình và cũng là nơi khởi đầu cho sự phát triển,
nuôi dưỡng số lượng tín đồ trong tôn giáo, nên Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài luôn
có những quy định cụ thể dành cho tín đồ trong việc xây dựng gia
HẾT TRANG 05
đình;2 Còn Bửu Sơn Kỳ
Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa tuy không có quy định cụ thể, nhưng cũng luôn nhấn mạnh
“phải thực hiện theo nguyên tắc Nho giáo” (Đinh Văn Hạnh, 1999, tr. 216).
Trong hôn lễ hiện nay, tín đồ của
các tôn giáo này thường thực hiện ba lễ, gồm: lễ dạm ngỏ, lễ hỏi và lễ cưới.
Các nghi thức trong hôn lễ luôn có vai trò của chức sắc tôn giáo, như trong đạo
Tứ Ân Hiếu Nghĩa, vai trò của ông Gánh3 rất quan trọng. Ông là người
chịu trách nhiệm của ông mai-bà mối, đi thăm dò, trao đổi thông tin của giữa
hai gia đình nhà trai và nhà gái. Ông còn là người xem tuổi và xem ngày để tiến
hành các nghi lễ trong hôn nhân. Ông cũng là người sắp xếp các nghi thức trong
lễ cưới tại cơ sở tôn giáo. Ở một số nơi như vùng Thất sơn – An Giang, ông Gánh
còn giữ vai trò chủ hôn trong đám cưới.
Trong Phật giáo Hòa Hảo, vai trò của
Ban Trị sự địa phương cũng quan trọng việc thực hiện hôn lễ. Thành viên trong
Ban Trị sự luôn được hai bên gia đình tham khảo ý kiến về đức hạnh của người
con trái lẫn người con gái trong cộng đồng và tham khảo về việc tiến hành các
nghi thức trong lễ cưới.
Với đạo Cao Đài, Ban Cai quản Thánh
thất là cơ quan giám sát và thực hành nghi thức theo quy định. Giới luật Cao
Đài qui định, tín đồ phải làm hôn lễ (gọi là lễ hôn phối) trước bàn thờ tôn
giáo tại Thánh thất hoặc tại Tòa thánh, phải có chức sắc thực hiện Phép hôn phối
(bí pháp của đạo) và căn dặn những điều đạo đức cần giữ gìn trong cuộc sống vợ
chồng sau này cho cô dâu và chú rể.
Như vậy, xét ở khía cạnh hôn lễ,
tôn giáo bản địa có vai trò nhất định đối với cá nhân mỗi tín đồ. Dù ít, hay
nhiều, dù chặt chẽ hay đơn giản, thì bản thân mỗi tín đồ phải tuân thủ theo các
nguyên tắc do tôn giáo qui định. Điều này trở thành nếp văn hóa trong đời sống
của tín đồ tôn giáo bản địa.
- Tang lễ: Mỗi tôn giáo đều có những qui định
riêng cho việc thực hành nghi thức tang lễ.
---------
(2)/- Trong Phật giáo Hòa Hảo, Đức
Huỳnh Giáo chủ nhấn mạnh đến các yếu tố như: “Bổn phận cha mẹ phải chọn lựa đôi
bạn cho con một cách xứng đáng bằng sự quan sát tường tận về tánh đôi trai gái.
Không nên ép uổng con mình quá đáng vì như thế làm cho khốn khổ nó về sau,
nhưng cũng không nên để chúng quá tự do mà sự thiếu kinh nghiệm làm cho đời
chúng phải hư hỏng. Nên bỏ tục lệ thách giá đòi tiền và đòi lễ vật. Thông gia
hai bên không nên làm khó cho nhau. Cũng chẳng nên bày ra tiệc lễ linh đình tốn
kém nhiều tiền làm cho trở nên nghèo khó”. (Ban Trị sự Phật giáo Trung ương Phật
giáo Hòa Hảo, 2018, tr. 209). Đối với đạo Cao Đài, nguyên tắc trong hôn nhân –
gia đình được qui định trong quyển Tân luật là: “Việc hôn nhân là việc rất trọng
đời người. Phải chọn hôn trong người đồng đạo; trừ ra khi nào người ngoài ưng
thuận nhập môn thì mới được kết làm gia ngẫu (Điều thức sáu trong Thế luật).
Tám ngày trước lễ Sính, chủ hôn trai phải dán bố cáo nơi Thánh Thất sở tại cho
trong bổn đạo hay, sau khỏi điều trắc trở (Điều thứ bảy). Làm lễ Sính rồi hai
đàn trai và gái phải đến Thánh Thất mà cầu lễ "Chứng Hôn" (Điều thứ
tám). Cấm người trong Đạo, từ ngày ban hành Luật này về sau, không được cưới hầu
thiếp. Rủi có chích lẻ giữa đường thì được chấp nối; Thảng như phụ nữ kia không
con nối hậu thì Thầy cũng rộng cho đặng phép cưới thiếp song chính mình chánh
thê đứng cưới mới đặng (Điều thứ chín). Trừ ra có ngoại tình hay là thất hiếu với
công cô, vợ chồng người đạo không được để bỏ nhau (Điều thứ mười). (Tòa thánh
Tây Ninh, 1972, tr. 15). 3 Ông Gánh là người thay mặt Đức Bổn sư Ngô Lợi chăm
lo việc đạo của một nhóm tín đồ.
HẾT TRANG 06.
Tang lễ của tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương
chú trọng đến tục lệ cổ truyền, tổ chức cầu an cho người hấp hối; lập bàn thờ
vong, cầu siêu cho người đã khuất; phát tang cho con cháu trong gia đình và tổ
chức phúng viếng, chia buồn của các thành viên trong cộng đồng. Đặc biệt trong
nghi thức khâm liệm, tín đồ luôn chú trọng và không được bỏ qua hình thức liệm
Lòng phái theo người chết. Do bởi, Lòng phái là vật tùy thân, lúc sống cũng như
lúc chết, cá nhân đó phải luôn mang bên mình. Khi liệm, Lòng phái được đặt trên
ngực của người chết.
Với tang lễ của tín đồ Tứ Ân Hiếu
Nghĩa, nghi thức giống với Bửu Sơn Kỳ Hương; Trong đó, việc đặt Lòng phái được
xem là nghi thức quan trọng nhất trong khâu khâm liệm. Nghi thức này cho ông
Gánh và hai cư sĩ thực hiện. Lòng phái của Tứ Ân Hiếu Nghĩa là một bộ gồm nhiều
tờ khác nhau, nên mỗi tờ được đặt ở một nơi nhất định trên cơ thể của người chết,
như tờ Lòng phái được đặt trước ngực, tờ Thế độ đắp trên mặt, tờ Tiên sinh đắp
trên ngực, tờ Thái kiệt đắp ở tim… Sau đó, xác chết được kẹp lại bằng 7 (dành
cho nam) hoặc 9 thanh tre (dành cho nữ). Xác chết không được liệm vào quan tài,
mà được quấn bằng một tấm vải lớn, gọi là Khâm, để khi nhập thổ, xác chết mau
phân hủy, trở về với tự nhiên. Vì không đưa xác chết vào quan tài, nên tang lễ
chỉ diễn ra trong 24 tiếng đồng hồ.
Tang lễ của tín đồ Phật giáo Hòa Hảo
được thực hiện theo phong tục truyền thống của người Việt, những có một số điều
được giản tiện, như không rước thầy cúng, không đốt giấy tiền vàng bạc, … (Ban
Trị sự Trung ương Phật giáo Phật giáo Hòa Hảo, 2018, tr. 207). Nghi thức trong
tang lễ chỉ đặt bàn thờ vọng giữa nhà để tín đồ cùng cầu nguyện; không trống,
kèn, nhạc lễ… người thân không được khóc vì sợ làm trở ngại sự siêu thoát của
anh linh người chết. Khi đến viếng, tín đồ chỉ niệm danh hiệu Phật Thích Ca và
Phật A Di Đà…
Đối với Cao Đài, trước khi thực hiện
các nghi thức liên quan đến tang lễ, cần thực hiện nghi thức cầu hồn cho người
đã khuất. Nghi thức này diễn ra tại nơi ở của tín đồ nhằm xin Thượng đến ban ân
điển cho linh hồn người chết được nhẹ nhàng siêu thoát. Sau đó các nghi thức
khác của lễ tang được thực hiện. Đạo Cao Đài quy định, tùy theo phẩm vị và công
đức tu hành tín đồ, sẽ tổ chức các nghi thức trong tang lễ khác nhau. Như, chức
sắc phế đời hành đạo và thuộc hàng Phật vị và Tiên vị,(4) tang lễ được
tổ chức tại Tòa thánh trung ương. Người chết được liệm ngồi theo lối kiết già
trong Liên đài (hình trụ bát giác) và được di chuyển bằng xe Long Mã để đưa vào
bửu tháp. Chức sắc hành đạo thuộc hàng Thánh vị,5 cần có chức sắc cấp
cao hơn hành pháp độ thăng để giúp chơn
------
(4)/- Chức sắc thuộc hàng Phật vị
và Tiên vị gồm những người giữ các phẩm vị như Giáo tông, Phật tử, Hộ pháp, Chưởng
pháp, Thượng sanh, Thượng phẩm, Đầu sư, Tiên tử, Thập nhị Thời quân.
(5)/- Chức sắc thuộc hàng Thánh vị
gồm những người giữ các phẩm vị như Chánh phối sư, Phối sư, Tiếp Dẫn đạo nhơn,
Chưởng ấn, Thánh nhơn, Hiền nhơn, Tiếp lễ nhạc quân, Thập nhị Bảo quân, Giáo
sư, Cải trạng, Giám đạo, Chơn nhơn, Đạo nhơn, Giáo hữu, Chí thiện, Thừa sử,
Truyền trạng, Tổng giám.
HẾT TRANG 07
linh được siêu thoát. Thi hài được
liệm trong quan tài, đưa đi bằng Thuyền Bát Nhã, và chôn dưới mộ. Tín đồ thuộc
hành Thần vị6 trở xuống, khi chết cũng cần có chức sắc cấp cao hơn
hành pháp độ thăng, nếu là tín đồ bình thường cần phải được hành pháp cắt dây
oan nghiệt để chơn linh được nhẹ nhàng siêu thăng. Linh cửu của những người này
cũng được di chuyển bằng Thuyền Bát Nhã và chôn dưới mộ.
Như vậy, tang lễ của tín đồ được tổ
chức theo quy định trong từng tôn giáo nhằm hướng đến việc giúp chơn linh của
người thết được siêu thoát. Các nghi thức được thực hiện là phương cách để đưa
chơn linh của người chết đến bến bời giải thoát, nên luôn được tín đồ xem trọng
khi thực hiện.
3.2. Quan niệm và hành vi của tín đồ -
Quan niệm của tín đồ: Đối với tín đồ các tôn giáo bản địa,
quan niệm sống của họ dựa trên quan điểm giáo lý mà họ tin theo để định hướng
trong mọi hoạt động, từ đời sống tôn giáo đến đời sống thường ngày.
Giáo lý của Bửu Sơn Kỳ Hương mang đậm
dấu ấn Tam giáo đồng nguyên (là sự dung hòa của Phật giáo, Nho giáo và Lão
giáo); lấy thuyết Mạt thế (tận thế) làm trung tâm, lấy thành tâm làm gốc, hướng
thiện làm mục đích, và lấy phương châm “học Phật, tu Nhân” làm pháp môn tu
hành. Quan điểm của Bửu Sơn Kỳ Hương là con người đang bước vào thời kỳ Hạ
ngươn (thời kỳ mạt vận), con người phải gắng sức tu hành, làm nhiều việc thiện,
loại trừ cái xấu, cái ác… để bước vào Hội Long Hoa (Hội chỉ dành cho những người
nhân đức; nhưng kẻ gian ác, mất nhân tính sẽ bị Trời, Phật trừng trị trong hội
này). Để được vào Hội Long Hoa, con người phải Tu nhân, học Phật và đặc biệt là
phải trả bốn đại ân gồm: Ân tổ tiên, Ân đất nước, Ân tam bảo và Ân đồng bào
nhân loại.
Quan niệm này về sau được Tứ Ân Hiếu
Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo kế thừa, phát triển. Trong đó, nhấn mạnh đến các yếu
tố như tín đồ cần phải rèn tâm, sửa tánh, làm lành, tránh dữ, sống tốt với mọi
người, có ích với đất nước, xem trọng Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng), yêu quí đồng
bào, nhân loại, kính Trời, thờ Phật, chuyên tâm phụng thờ tổ tiên, ông bà, hiếu
thảo với cha mẹ, giữ gìn phép nước,… Đó chính là phương thức Tu nhân. Hàng ngày
tín đồ phải niệm Phật, học những điều Phật dạy, cúng bái tại chùa, thờ ngôi Tam
Bảo tại nhà… Đó là quan điểm học Phật.
Một quan điểm quan trọng trong hành
vi tu học của ba tôn giáo này là không chú trọng hình thức xuất gia mà hướng
tín đồ đến hành động “cư sĩ tại gia”, vừa lo đời vừa lo đạo; vừa kính Trời, thờ
Phật, vừa báo hiếu cha mẹ, chăm lo tông đường, nuôi dưỡng vợ con… không chú trọng
hình thức “ly gia cắt ái”, và luôn là một tín đồ tốt để làm tấm gương cho con
cháu noi theo…
----
(6)/- Chức sắc thuộc hàng Thần vị
trở xuống gồm: Lễ sanh, Giáo thiện, Hiền tài, Phó Tổng giám, Chánh Trị sự,
Thông sự, Phó trị sự, đạo hữu.
HẾT TRANG 08
Quan điểm của đạo Cao Đài là hướng
tín đồ đến việc “sống trong đạo pháp” và “tốt đời, đẹp đạo”. Trong đó, đạo pháp
của Cao Đài là chú trọng đến việc thờ Trời, kính Phật, làm lành trách dữ, tích
đức hành thiện; tốt đời là tu thân, tề gia, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ… Đạo
Cao Đài cũng đề ra học thuyết Hội Long Hoa giống với các tôn giáo bản địa khác
để làm phương châm hành đạo cho tín đồ; cũng nhấn mạnh đến yếu tố giải thoát, sự
đọa đày dành cho tín đồ, nhưng lại có quan niệm về tu hành khác với ba tôn giáo
bản địa vừa nêu là xem trọng hình thức “xuất gia”, xem “ly gia cắt ái”, “trường
trai, tuyệt dục” là phương thức tối ưu trong hành đạo, tu thân để tín đồ hướng
đến việc giải thoát. Những người trường trai, tuyệt dục, ly gia cắt ái luôn được
cộng đồng tôn giáo xem trọng. Các phẩm vị cao cấp trong tổ chức tôn giáo cũng
chỉ giao cho những người giữ được những điều này. Trong nghi thức tang lễ, những
người giữ được trường trai, tuyệt dục… khi mất luôn được thu hưởng những nghi
thức đặc biệt từ tôn giáo.
Như vậy, giáo lý của tôn giáo bản địa
chính là “học thuyết”, là phương hướng hình thành và chi phối quan điểm sống của
tín đồ. Để cụ thể hơn, đạo Cao Đài và Phật giáo Hòa Hảo còn đề ra những điều cấm,
như đạo Cao Đài có ngũ giới cấm (5 điều cấm) và tứ đại điều qui (4 điều phải thực
hiện); Phật giáo Hòa Hảo có tam nghiệp (thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp)
nên tránh và thập ác (sát sanh, đạo tặc, tà dâm, lưỡng thiệt, ý ngôn, ác khẩu,
vọng ngữ, tham lam, sân nộ, mệ si) không được thực hiện. Chính những điều này
đã tạo nên quan điểm sống của tín đồ và họ cố gắng thực hiện trong đời sống
hàng ngày của mình.
- Hành vi của tín đồ: Từ quan điểm học Phật, tu Nhân và
xem trọng đạo pháp… của tôn giáo đã chi phối đến hành vi của tín đồ. Điều này
được thể hiện qua việc ăn chay, niệm Phật, cúng dường Tam Bảo, tu hành theo
pháp môn của tôn giáo. Đặc biệt, tín đồ luôn xem trọng việc làm lành, tránh dữ,
sống hòa thuận, tương thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Khi
tham dự trong các đám tang của tín đồ tôn giáo bản địa, tôi luôn cảm nhận được
điều này. Như đám tang của tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa chỉ diễn ra trong 24 tiếng đồng
hồ, nhưng đầm ấm tình yêu thương đồng đạo. Hầu hết tín đồ trong cộng đồng cùng
đến chia buồn, cùng cầu nguyện cho người quá vãng được siêu thăng. Những người
giữ phận sự trong việc hành lễ, khâm liệm, an táng… đều thực hiện với tâm tôn
giáo, không màng lợi ích, không nhận thù lao. Đám tang của tín đồ Cao Đài, chức
sắc và tín đồ đến hành lễ đều phải tự bỏ kinh cho cuộc hành trình của mình. Họ
thức suốt đêm để cùng gia quyến cầu nguyện, hành lễ với Thượng đế nhằm mong muốn
cho người quá vãng được siêu thăng. Những công sức, tiền của mà tín đồ và chức
sắc bỏ ra trong đám tang của đồng đạo được xem như điều nên làm, vì đó là công
quả mà bổn phận tín đồ phải thực hiện. Việc làm công quả của tín đồ còn thể hiện
qua hình thức góp tiền từ thiện, cứu trợ đồng bào bị thiên tai, lũ lụt, xây cầu
đắp đường… Việc xây cầu, đắp đường, mua xe cứu thương để giúp bệnh nhân nghèo…
là những việc làm thường xuyên và phổ
HẾT TRANG 09.
biến của tín đồ Phật giáo Hòa Hảo.
Hiện nay, trong cộng đồng Phật giáo Hòa Hảo ở An Giang có gần 30 xe cứu thương,
do tín đồ đóng góp để thuyên chuyển miễn phí bệnh nhân nghèo lên các bệnh viện
lớn ở TP. Hồ Chí Minh chữa bệnh. Bên cạnh đó, công quả của tín đồ còn thể hiện
qua việc đóng góp lương thực, thực phẩm và công sức cho các chùa, thánh thất
trong tôn giáo của mình để thiết đãi cơm chay miễn phí cho khách thập phương đến
chiêm bái. Ở hầu hết các ngôi chùa, ngôi thờ tự thuộc tôn giáo bản địa, khi
khách thập phương đến chiêm bái đều được mời dùng bữa cơm chay miễn phí.
Trong cuộc sống thường nhật, tín đồ
luôn cố gắng không giết hại sinh vật một cách vô cớ. Các loại côn trùng ít gây
hại, họ đều cố gắng không giết. Đặc biệt, hầu hết tín đồ đều không uống các loại
rượu có ngâm động vật.
Đối với ông bà, cha mẹ, tín đồ luôn
thể hiện sự hiếu thảo của mình. Nếu cha mẹ còn sống, họ hết lòng phụng dưỡng,
chăm sóc. Khi đã mất, việc thờ cúng được xem trọng. Hầu như trong tất cả gia
đình tín đồ đều đặt bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ và bàn thờ cha mẹ. Trên bàn thờ
luôn được thắp nhang và có vật phẩm như hoa, quả… dâng cúng hàng ngày. Nếu có
khách đem quà đến tặng, gia chủ thường dâng quà đó lên bàn thờ gia tiên và thắp
nhang trình báo về nguồn gốc của món quà. Việc làm này không ngoài mục đích tỏ
lòng hiếu thảo đối với ông bà, cha mẹ; và cũng mang tính giáo dục sâu sắc cho
con cháu trong gia đình và trong cộng đồng.
4. Vai trò của các tôn giáo bản địa
trong đời sống văn hóa cộng đồng
4.1. Vai trò cứu thế Khái niệm cứu thế (messianisme) của
các tôn giáo bản địa ở Nam Bộ không chỉ mang tính giải thoát mà còn nói đến như
một chỗ dựa tinh thần đối với người dân đang gặp khủng hoảng trong cuộc sống.
Các tôn giáo bản địa ra đời vào nửa
cuối thế kỷ XIX (Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa) gắn liền với sự xuất hiện
của một lãnh tụ nông dân có tinh thần giúp đỡ cộng đồng vượt qua sự khó khăn,
nghèo đó, bệnh tật…, và vạch ra viễn cảnh tươi đẹp ở mai sau (Hội Long Hoa).
Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương ra đời trong
hoàn cảnh xã hội Nam Bộ rối ren, đói kém, dịch bệnh. Người sáng lập ra tôn giáo
này, ông Đoàn Văn Huyên, tin rằng đây là điềm báo của thời kỳ Hạ ngươn kết
thúc; mở ra một thời kỳ mới. Con người muốn vượt qua thời kỳ này phải loại trừ
cái xấu, cái ác, thực hiện điều lành để bước vào “Hội Long Hoa”. Đạo Tứ Ân Hiếu
Nghĩa do Đức Bổn sư Ngô Lợi sáng lập cũng lấy quan điểm về Hội Long Hoa làm nền
tảng. Những người theo Tứ Ân Hiếu Nghĩa cũng tin rằng, con người đang bước vào
thời kỳ Hạ ngươn, nên thiên tai, dịch bệnh, mất mùa, đói kém, chiến tranh, chết
chóc… diễn ra liên tục tận diệt cái ác, cái xấu. Khi kết thúc sự tận diệt, những
người còn lại (là những hiền nhân) bước vào Hội Long Hoa và sống trong thời kỳ
Thượng ngươn mới.
HẾT TRANG 10
Đến nửa đầu thế kỷ
XX, đạo Cao Đài và Phật giáo Hòa Hảo ra đời. Quan điểm của hai tôn giáo này
cũng đề cập đến thời kỳ mạt kiếp, và mở ra thời kỳ thượng nguyên thánh đức. Hai
tôn giáo này cho rằng, thế giới
biến thiên tuần hoàn theo luật định qua ba giai đoạn: Thượng ngươn, Trung ngươn
và Hạ ngươn. Nhân loại hiện đang sống ở giai đoạn cuối của thời Hạ nguơn, sắp
chuyển sang thời Thượng ngươn mới. Con người muốn được sống an nhàn, hạnh phúc
trong thời kỳ mới, phải tỉnh ngộ, tu hành để trở thành người hiền đức. Hội Long
Hoa (Đức Di Lặc sẽ làm chủ Hội này) sẽ là dịp để sàn lọc người hiền đức và kẻ
ác gian.
Như vậy, các tôn giáo bản địa đều
chú trọng đến quan điểm cứu thế nhằm đưa con người “vượt qua bể khổ” đến bờ giải
thoát trong tương lai. Chính điều này đã trở thành chỗ dựa tinh thần cho dân
Nam Bộ cả trong quá khứ lẫn hiện tại.
4.2. Vai trò nhập thế trong cộng đồng
Vai trò này được thể hiện cụ thể
như:
- Khai hoang, lập làng: Vào cuối thế kỷ XIX, mặc dù đã thiết
lập được hệ thống chính trị cấp nhà nước, cư dân đã trở nên đông đúc, nhưng
vùng đất Nam Bộ vẫn còn hoang vu nhiều nơi.
Trong tình hình đó, đạo Bửu Sơn Kỳ
Hương ra đời. Ông Đoàn Minh Huyên đã lệnh cho các đệ tử thân cận như Trần Văn
Thành, Tăng Chủ, Bùi Văn Tây (còn gọi Đình Tây), Nguyễn Văn Xuyến (đạo Xuyến),
Nguyễn Đa (Cử Đa), và các ông đạo như đạo Lập, đạo Sỹ, đạo Thắng, đạo Chợ, đạo
Đọt,… dẫn tín đồ khai hoang, lập trại, tạo chốn nương thân ở vùng Thới Sơn,
Láng Linh… Về sau, các khu vực này trở thành căn cứ địa chống thực dân Pháp của
tín đồ tôn giáo này.
Khu vực vùng Thất sơn ở An Giang
cũng in đậm dấu “khai sơn, phá thạch” của tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Đặc biệt là
khu vực núi Tượng, nằm trong cụm Thất sơn, đã được Đức Bổn sư Ngô Lợi hướng dẫn
tín đồ đến khai phá. Tín đồ của tôn giáo này đã dựng nhà, lập miếu, tạo lập
thôn ấp vào năm 1876. Chùa Phi Lai cũng được dựng ở đây vào năm 1877. Đến năm
1879, Đức Bổn sư tiếp tục cho xây dựng chùa Thanh Lượng, cách chùa Phi Lai khoảng
2km để truyền đạo và hướng dẫn tín đồ khai hoang, lập làng. Từ đó, khu vực chân
núi Tượng trở thành làng, gọi là làng An Định, với khoảng 150 nóc nhà, xung
quanh đều có rẫy tươi tốt, trồng nhiều loại rau màu của tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa
(Đinh Văn Hạnh, 1999, tr. 115).
Sau làng An Định, làng An Hòa nằm
giữa chân núi Tượng và núi Dài cũng được Đức Bổn sư cho tín đồ khai phá lập nên
vào năm 1882. Tại đây, ông cũng cho xây dựng chù Phổ Đà để tín đồ có nơi chiếm
bái Tam Bảo. Sau đó, tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa tiếp tục khai khẩn, lập nên làng
An Thành dọc theo chân núi Dài và dựng chùa Châu Linh ở khu vực này vào năm
1883. Đến năm 1887, Đức Bổn sư lại cùng với tín đồ lập nên làng An Lập cũng nằm
ở khu vực núi Dài… Những ngôi làng này trở thành nơi an cự lạc nghiệp
HẾT TRANG 11.
của tín đồ của tín đồ Tứ Ân Hiếu
Nghĩa, và hiện nay chúng thuộc địa phận của huyện Tri Tôn, An Giang.
Bên cạnh đó, đạo Cao Đài cũng là
tôn giáo chú trọng đến hình thức khai hoang, lập ấp để phát triển tín đồ và xây
dựng ngôi thờ tự. Năm 1927, chức sắc của Cao Đài đã mua một mảnh rừng khoảng
100ha ở tỉnh Tây Ninh để tín đồ Cao Đài khai phá, xây dựng thánh sở thờ tự. Hơn
20 năm sau, đến năm 1953, khu vực Tòa thánh Tây Ninh và các vùng lân cận được
xây dựng hoàn thành, thu hút ngày một đông cư dân đến sinh sống. Chợ Long Hoa
cũng được chức sắc Cao Đài cho xây dựng để làm nơi để tín đồ buôn bán, giao
thương.
Không chỉ ở Tây Ninh, tín đồ Cao
Đài thuộc các hội thánh khác như Minh Chơn Lý, Minh Chơn Đạo, Ban Chỉnh Đạo,
Tiên Thiên… cũng chú tâm đến việc khai khẩn đất hoang ở những vùng bưng biền mà
người Pháp chưa quan tâm đến để lập làng, tạo nơi thờ tự; và cũng có một số nơi
dùng để làm căn cứ cách mạng chống lại thực dân Pháp như tín đồ của Cao Đài
Minh Chơn Đạo ở vùng Bạc Liêu và Cà Mau do ông các Cao Triều Phát và Trần Đạo
Quang lãnh đạo.
Nhìn chung, việc khai hoang, lập ấp
là vấn đề mà những người sáng lập nên các tôn giáo bản địa chú trọng. Họ không
chỉ muốn tìm nơi để tín đồ an cư lạc nghiệp, có nơi thờ tụ, chiếm bái các đấng
thiêng liêng trong tôn giáo mà còn để tăng số lượng tín đồ trong đạo, và cũng
là địa bàn để lập căn cứ địa chống thực dân Pháp vào nửa đầu thế kỷ XX.
- Chống ngoại xâm: Hòa cùng lịch sử của đất nước, Nam
Bộ cũng là vùng đất chịu sự xâm lược của thế lực bên ngoài. Trong lịch sử, tín
đồ các tôn giáo bản địa luôn thể hiện lòng yêu nước, chống ngoại xâm chống ngoại
xâm của họ. Như, cuộc khởi nghĩa của Đức Cố Quản Trần Văn Thành ở khu vực Láng
Linh, Bảy Thưa là một ví dụ.
Ông Trần Văn Thành còn được gọi là
Trần Vạn Thành, sinh ra trong một gia đình trung nông ở ấp Bình Phú, làng Bình
Thạnh Đông, tổng An Lương, huyện Đông Xuyên, tỉnh Châu Đốc (nay thuộc xã Phú
Bình, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang). Năm 1840, ông gia nhập quân đội nhà Nguyễn.
Nhờ có sức khỏe, giỏi võ, thông thạo chữ nghĩa, nên ông được cử làm suất đội
(chỉ huy khoảng 50 lính). Năm 1845, ông được thăng làm Chánh quản cơ (chỉ huy
500 quân) và đóng quân ở Châu Đốc để trấn giữ vùng biên giới Tây Nam. Năm Đinh
Mùi (1847), ông được triều đình cho giải ngũ và sau đó gia nhập đạo Bửu Sơn Kỳ
Hương vào năm 1949 (Nguyễn Văn Hầu, 1956, tr.19-20). Khi thực dân Pháp chiếm
thành Vĩnh Long vào ngày 20 tháng 6 năm 1867, ông đã cùng với ông Nguyễn Trung
Trực tham gia khởi nghĩa (Sơn Nam, 1988, tr.67). Ông Nguyễn Trung Trực bị thực
dân Pháp đánh thua, rút quân ra Hòn Chông (nay thuộc Kiên Lương, tỉnh Kiên
Giang), còn Trần Văn Thành dẫn lực lượng của mình vào vùng Láng Linh để luyện
quân, rèn đúc vũ khí, tiếp
HẾT TRANG 12.
tục đánh Pháp. Quân đội của ông được
đặt tên là Binh Gia Nghị, với khoảng 1.200 nghĩa quân, phần đông là tín đồ Bửu
Sơn Kỳ Hương (Phạm Văn Sơn, 1962, tr.21).
Cuối năm 1868, hầu hết các phong
trào kháng Pháp tại Nam Kỳ bị tan rã, lực lượng Trần Văn Thành cũng lâm vào thế
cô, và ông trở thành nhân vật bị Pháp truy nã. Quân Pháp đã nhiều lần đánh vào
căn cứ của ông, nhưng đều thất bại. Tháng 3 năm 1873, quân Pháp mở đợt tấn công
lớn vào khu vực Láng Linh. Quân của ông bị thất thủ. Ông tử trận vào ngày 19
tháng 3 năm 1873.
Ngoài cuộc khởi nghĩa này, cao đồ của
Bửu Sơn Kỳ Hương như Đình Tây, Cử Đa, Đạo Thắng… cũng lãnh đạo tín đồ chống
quân Pháp ở khu vực An Giang, nhưng cũng đều thất bại sau đó.
Đức Bổn sư Ngô Lợi của Tứ Ân Hiếu
Nghĩa cũng là nhân vật yêu nước được lịch sử dân tộc nhắc đến, và được nhân dân
truyền khẩu. Ông đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp ở vùng Thuộc
Nhiêu, Cây Lậy, Mỹ Tho năm 1878, nhưng thất bại, sau đó bị truy nã. Sau đó, ông
tiếp tục lãnh đạo tín đồ tiến hành các cuộc khởi nghĩa Cây Mít (dọc kênh Vĩnh Tế),
tại làng An Định vào năm 1885… gây được tiếng vang lớn, nhưng cuối cùng vẫn
không thành công.
Bên cạnh đó, nhiều tín đồ của Cao
Đài, Phật giáo Hòa Hảo cũng từng tham gia kháng chiến chống Pháp trong các
phong trào khởi nghĩa của nông dân ở Nam Bộ. Một số Hội thánh Cao Đài như Minh
Chơn Đạo, Ban Chỉnh Đạo, Tiên Thiên… chức sắc và tín đồ rất tích cực tham gia
các phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp. Tiêu biểu như ông Cao Triều
Phát (chức sắc cao cấp của Hội thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo) đã đứng ra kêu tín
đồ chống thực dân Pháp nhằm bảo vệ đạo, bảo vệ đồng bào (Nguyễn Thị Ngọc Dung,
2000, tr.58), nên nhiều lần bị đốt phá. Hoặc chức sắc của Cao Đài Tiên Thiên
như Giáo tông Phan Văn Tòng và tín đồ cũng hết lòng tham gia chống thực dân
Pháp. Ông Phan Văn Tòng sau đó bị bắt và bị đày ra côn đảo, đến sau Cách mạng
tháng tám (1945) mới được tự do.
Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước,
nhiều chức sắc, tín đồ của các tôn giáo bản địa tham gia kháng chiến, nhưng
không đứng với danh nghĩa tôn giáo như trước mà dưới sự lãnh đạo của Đảng Công
Sản Việt Nam. Tuy nhiên, dù đứng ở góc độ nào, tín đồ tôn giáo bản địa vẫn là bộ
phận của dân tộc Việt Nam; do đó việc chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập, tự
do cho dân tộc cũng là trách nhiệm của họ. Đó cũng là vai trò nhập thế mà các
tôn giáo này đã thể hiện.
- Các hoạt động từ thiện: Các hoạt động này có thể kể đến
như chữa bệnh, phát thuốc miễn phí, cứu trợ, làm đường, làm cầu…
Chữa bệnh cho người nghèo là phương
thức từ thiện phổ biến mà các tôn giáo bản địa luôn chú tâm thực hiện. Ngay từ
đầu, những người sáng lập tôn giáo đã thực hiện phương thức này. Ông Đoàn Văn
Huyên đã bỏ công sức, đi hết vùng này đến vùng
HẾT TRANG 13.
khác ở khu vực Tây Nam Bộ để chữa bệnh
cho dân nghèo. Ông dùng nước lã cúng trên bàn thờ, giấy vàng mã, phù nhang bằng
bùa phép để chữa các bệnh thời khí, dịch tả cho người dân (Phạm Thị Bích Hợp,
2007, tr.65). Đức Bổn sư Ngô Lợi cũng thực hiện phương thức chữa bệnh của mình
giống như ông Đoàn Văn Huyên và rất nhiều bệnh nhân khỏi bệnh (Đinh Văn Hạnh,
1999, tr. 60). Đức Huỳnh Giáo chủ cũng cứu nhân, độ thế bằng phương pháp chữa bệnh
này. Các chức sắc của đạo Cao Đài khi đi truyền đạo cũng dùng phương này chữa bệnh.
Các bệnh mà chức sắc Cao Đài chữa, không chỉ là các bệnh thời khí, ôn dịch mà
chữa cả các bệnh liên quan đến tà ma, quỷ dữ ám hại.
Ngày nay, việc chữa bệnh như trên
không còn, thay vào đó là chữa bằng thuốc Nam. Hầu hết các ngôi thờ tự của tôn
giáo bản địa đều có phòng thuốc Nam và có lương y túc trực khám, chữa bệnh và
phát thuốc miễn phí cho người nghèo. Tại phòng thuốc Nam luôn có sẵn các loại
cây thuốc do tín đồ tự đi tìm về sơ chế. Họ xem đây là bổn phận, là công quả mà
tín đồ phải thực hiện.
Ngoài ra, việc cứu trợ, làm đường,
xây cầu cũng được tín đồ các tôn giáo này thực hiện. Ban Trị sự hoặc Ban Quản
trị ở các cơ sở tôn giáo là đầu mối kêu gọi và nhận tài trợ từ tín đồ và cũng
lãnh luôn trách nhiệm quản lý thực hiện công việc từ thiện này. Bên cạnh đó,
tín đồ còn làm từ thiện theo hình thức cá nhân, như phát cơm chay miễn phí tại
các bệnh viện; tổ chức quyên đồ cứu trợ lũ lụt, thiên tai...
Hiện nay, công tác từ thiện là việc
làm phổ biến và hiệu quả của tín đồ các tôn giáo bản địa nhằm thể hiện vai trò
nhập thế mà các tôn giáo này luôn chú trọng.
5. Kết luận
Nếu so với khu vực Đồng Bắc Bộ, thì
Nam Bộ được xem là “vùng đất mới”, với nhiều thành phần tộc người rời bỏ quê
hương đến khai khẩn và định cư tại đây. Họ là người Việt, người Khmer, người
Hoa, người Chăm… là những lưu dân “tứ chiếng” (khắp nơi), ít có quan hệ họ hàng
với nhau, đến định cư xen kẽ nhau trong không gian mở, với sự tổ chức, quản lý
xã hội thiếu chặt chẽ, rời rạc. Trong bối cảnh đó, người dân (nhất là người Việt)
cần có những con người ưu tú trong nhóm để tập hợp, tạo nên sự dính kết dính cộng
đồng. Đây phải là những người ưu tú, có khả năng khả năng thuyết giảng, tổ chức
chiêu dân lập ấp, khai khẩn đất đai, có uy tín giải quyết những tranh chấp, bất
hòa. Họ còn có những khả năng đặc biệt như trị bệnh cứu người bằng thuốc nam,
nghi lễ và bùa chú, chăm sóc người dân cả về đời sống vật chất và tâm linh.
Chính vì thế, khi các ông Đoàn Văn Huyên, Ngô Lợi, Huỳnh Phú Sổ, hoặc các chức
sắc của đạo Cao Đài thể hiện khả năng “cứu thế” của mình đã thu hút được sự chú
ý, tin tưởng của người dân Nam Bộ lúc bấy giờ. Đó chính là cơ sở để các tôn
giáo bản địa ra đời và phát triển.
Sự tồn tại của các tôn giáo bản địa
này cho đến hiện nay đã và đang thể hiện đúng vai trò đóng góp tích cực cho đời
sống của người dân ở vùng đất Nam Bộ này, như:
HẾT TRANG 14.
1. Góp phần vào cộng tác khai
hoang, lập làng. Tín
đồ của Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Cao Đài đã bỏ nhiều công sức trong
việc khai hoang ở khu vực Nam Bộ, từ An Giang đến Đồng Tháp Mười và khu vực Tây
Ninh hiện nay.
2. Góp phần bảo vệ đất nước, chống
giặc ngoại xâm. Rất
nhiều chức sắc, tín đồ của các tôn giáo bản địa góp sức vào công cuộc chống ngoại
xạm, giải phóng dân tộc cho đất nước qua cả hai thời kỳ, chống Pháp và chống Mỹ.
3. Giữ gìn văn hóa truyền thống, xây dựng cộng đồng, giúp đỡ tương
trợ lẫn nhau trong cuộc sống. Những điều này là tôn chỉ, phương châm hành động
của các tôn giáo bản địa và được tín đồ tôn trọng, thực hiện.
Ngoài ra, tôn giáo bản địa thể vai
trò đặc biệt đối với đời sống văn hóa của cá nhân tín đồ như là chỗ tinh thần để
họ vượt qua những khó khăn, khủng hoảng trong cuộc sống. Các qui định, giáo lý
của tôn giáo bản địa cũng được xem là một chuẩn mực đạo đức trong đời sống của
tín đồ.
6. Tài liệu tham khảo Ban Tôn giáo
tỉnh An Giang. (2020).
Báo cáo về tình hình hoạt động tôn
giáo, công tác quản lý nhà nước đối với tín ngưỡng, tôn giáo (ngày 6/3/2020).
Ban Trị sự Trung ương Phật giáo Hòa
Hảo. (2004).
Sấm giảng giáo lý Phật giáo Phật
giáo Hòa Hảo của Đức Huỳnh Giáo chủ. Hà Nội: NXB Tôn giáo.
Ban trị sự Trung ương Phật giáo Hòa
Hảo. (2018).
Sấm giảng giáo lý Phật giáo Hòa Hảo
của Đức Huỳnh giáo Chủ. Hà Nội: NXB. Tôn giáo.
Chu Xuân Diên. (2005). Cở sở văn
hóa Việt Nam. Hà Nội: NXB Giáo dục.
Coulet, G. (1929). Cultes et
religions de l’indochine Annamite. Saigon: C. Ardin.
Đặng Nghiêm Vạn. (2005). Lý luận về
tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam. Hà Nội: NXB. Chính trị Quốc gia.
Đinh Văn Hạnh. (1996). “Táng tục của
đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa ở Vũng Tàu”. Tạp chí Dân Tộc và Thời Đại. Hội Dân Tộc Học
Việt Nam. Số 11 và 12.
Đinh Văn Hạnh. (1996). “Tứ Ân -
Nguyên lý đặc trưng của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Hòa Hảo”. Tạp
chí Khoa học Xã hội. Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ. Số chuyên đề, Quý II:
tr. 145-152.
Đinh Văn Hạnh. (1997). “Đạo Tứ Ân
Hiếu Nghĩa với phong trào kháng chiến chống Pháp”. Tạp chí Xưa & Nay. Số
40B (6-1997), từ trang 14.
Đinh Văn Hạnh. (1999). Đạo Tứ Ân Hiếu
Nghĩa của người Việt ở Nam Bộ (1867 1975). TP.HCM: NXB. Trẻ.
Đinh Văn Hạnh. (1999). Đạo Tứ Ấn Hiếu
Nghĩa của người Việt Nam Bộ (1867-1975). TP.HCM: NXB. Trẻ.
Durkheim, E. (2006). “Định nghĩa hiện
tượng tôn giáo về tôn giáo”. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. Những vấn đề Nhân học
tôn giáo. Đà Nẵng: NXB. Đà Nẵng.
HẾT TRANG 15
Geertz, C. (1973). “Religion as a
Cultureal System”. In Micheal Banton (ed.), Anthropological Approaches to the
Study of Religion. ASA Monographs 3. London: Tavistock.
Gobron, G. (1848). Histoire du
Caidaisme – Boudhisme Renové. Paris: Dervy.
Gobron, G. (1848). Histoire et
philosophie du Caodaisme. Paris: 20 rue de la trimolle.
Hà Tân Dân. (1971). Hệ phái Tứ Ân
Hiếu Nghĩa. Tủ sách Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương. Nguồn:
https://www.diendanpghh.com/a245/tu-an-hieu-nghia (truy cập ngày 20 tháng 2 năm
2023).
Hoàng Văn Việt. (2006). Thực trạng
đời sống tôn giáo và xây dựng luận cứ khoa học cho chính sách tôn giáo đối với
cộng đồng cư dân người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long. TP.HCM: Đề tài Trọng điểm
Đại học Quốc gia.
Hoskins, J. (2010). “Sáng tạo cá
nhân và thần lực của Phạm Công Tắc”. Sách Hiện đại và động thái của truyền thống
ở Việt Nam: Những cách tiếp cận nhân học. TP.HCM: NXB Đại học Quốc gia TPHCM.
Jammes, J. (2009). “Caodaism and
its global networks: An Ethnological Analysis of a Vietnamese Religious
Movement in Vietnam and abroad”. Moussons. No. 13-14, p. 339-358. https://doi.org/10.4000/moussons.1100.
Jammes, J. (2010). “Tiên tri và
chính trị ở miền Nam Việt Nam: từ Tam Tông miếu đến đạo Cao Đài”. Sách Hiện đại
và động thái của truyền thống ở Việt Nam: Những cách tiếp cận nhân học. TP.HCM:
NXB Đại học Quốc gia TPHCM.
Lê Thành Thảo. (1974). Sinh hoạt Phật
giáo Hòa Hảo trong cộng đồng quốc gia. Viện Đại học Sài Gòn, Trường Đại học Văn
khoa.
Marx, K., Engels, F. (1995). C.Mác
– Ph. Anghen toàn tập (tập 20). Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
Nguyễn Hữu Hiệp. (1974). Tiền giảng
Đức Phật Thầy Tây An. Sài Gòn: NXB. Diễm Chi.
Nguyễn Thị Ngọc Dung. (2000). Tìm
hiểu Hội Cao Đài cứu quốc (1947-1954). Luận văn Thạc sĩ Lịch sử. TP.HCM: Trường
đại học KHXH&NV, ĐHQG-HCM.
Nguyễn Trung Hậu. (1930). Đại Đạo
căn nguyên. Tài liệu lưu giữ tại Toà Thánh Tây Ninh.
Nguyễn Văn Hầu (1956). Đức Cố Quản
hay cuộc khởi nghĩa Bảy thưa. Sài Gòn: NXB. Tân Sanh.
Nguyễn Văn Hầu. (1956). Đức Cố Quản
hay cuộc khởi nghĩa Bảy thưa. Sài Gòn: NXB: Tân Sanh.
Nguyễn Văn Hầu. (2018). Nhận thức
Phật giáo Hòa Hảo. Hà Nội: NXB. Tôn giáo.
Nguyễn Văn Hồng. (2003a). Bước đầu
học đạo - dành cho tân tín đồ Cao-Đài. Tòa thánh Tây Ninh. Nguồn: http://www.
personal. usyd. edu. au/~cdao/booksv (truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2023).
HẾT TRANG 16
Nguyễn Văn Hồng. (2003b). Cao đài từ
điển (giáo lý - triết lý - danh nhân thành ngữ - điển tích). Tác giả giữ bản
quyền: Nguồn: http://www. caodaism. org/home. htm (truy cập ngày 20 tháng 2 năm
2023).
Ninh, Thien-Huong. (2011). “God
Needs a Passport: The Struggle of Vietnamese Caodaists in Cambodia for
Religious and Ethnic Recognition across National Borders”. Encounters: An
International Journal for the Study of Culture and Society. N.4 (Fall): 133–160
Phạm Bích Hợp. (1999). Làng Hòa Hảo
xưa và nay. TP.HCM: NXB. TP. Hồ Chí Minh.
Phạm Thị Bích Hợp. (2007). Người
Nam Bộ và tôn giáo bản địa (Bửu Sơn Kỳ Hương, Cao Đài, Hòa Hảo). Hà Nội: NXB.
Tôn giáo.
Phạm Văn Sơn. (1988). Việt sử tân
biên (Quyển 5, Tập Thượng). Sài Gòn: Tác giả tự xuất bản.
Smith, R. B. (1970). An Introdution
to Caodaisme. VoI. II. London: University of London.
Sơn Nam. (1988). Lịch sử An Giang.
An Giang: NXB. Tổng hợp An Giang.
Sơn Nam. (1992). Cá tính của miền
Nam. Thanh Hóa: NXB. Thanh Hóa.
Tòa thánh Tây Ninh. (1972). Tân luật.
Tòa thánh Tây Ninh giữ bản quyền và ấn hành.
Tòa thánh Tây Ninh. (1973). Thánh
ngôn hiệp tuyển (quyển 1). Tòa thánh Tây Ninh giữ bản quyền và ấn hành.
Tổng cục Thống kê. (2020). Kết quả
toàn bộ tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019. Hà Nội: NXB. Thống kê.
Trần Quốc Vượng. (2005). Cơ sở văn
hóa Việt Nam. Hà Nội: NXB Giáo dục.
Trung Hưng Bửu Tòa. (1995). Kinh Tận
Độ. Hà Nội: NXB. Tôn giáo.
Tylor, E. B. (1958). Religion in
Primitive Culture. New York: Harper & Row.
Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang.
(2013). Địa chí An Giang. An Giang.
Vương Kim và Đào Hưng. (1954). Đức
Phật Thầy Tây An. Sài Gòn: NXB. Long Hoa.
Vương Kim. (1953). Tân thế hội Long
Hoa. Sài Gòn: NXB. Long Hoa.
Vương Kim. (1966). Bửu Sơn Kỳ
Hương. Sài Gòn: NXB. Long Hoa.
Vương Kim. (1975). Huỳnh Đức Giáo
chủ. Sài Gòn: NXB. Long Hoa.
Werner, S. J. (1974). The Cao Đài:
The Politics of a Vietnamese Syncretic Religious Movement (Part 1). A Thesis
Presented to the Faculty of the Graduate Shool of Cornell University for the
Degree of Doctor fo Philosophy.
Werner, S. J. (1981). Peasant
Politics and Religious Sectarianism: Peasant and priest in the Cao Dai in Viet
Nam. Monograph Series No. 23 Yale University Southeast Asian Studies.
HẾT TRANG 17
HẾT
BẢN PDF
ẢNH CHỤP