Như vậy đây là một vụ LỆ CHI VIÊN trong giới học thuật. BBT.
Tam tòng Tứ đức, Tam cương Ngũ thường đã bị diễn giải sai như thế nào? (Ảnh: Pixabay)
Tam tòng Tứ đức, Tam cương Ngũ thường đã bị diễn giải sai như thế nào?
Giúp NTDVN sửa lỗi
Tam tòng Tứ đức, Tam cương Ngũ thường bị coi là chế độ lễ nghi xã hội xưa nô dịch nữ, bảo vệ nam quyền, và được dùng làm 'lý do' để cổ vũ đấu tranh. Thực tế những khái niệm này có ý nghĩa khác với cách hiểu thông thường hiện nay, và cũng do người hiện đại không hiểu rõ nên mới dễ bị nghe theo sai, rồi truyền bá cái sai, mà vẫn coi như là 'chân lý'.
Đã một thời gian dài, chúng ta từ khi đi học cho đến lớn lên đọc sách báo, đều thấy một quan niệm mặc định bất biến rằng: Trong xã hội phong kiến, đàn ông áp bức phụ nữ, phụ nữ bị kỳ thị, bị nô dịch, bị hủy hoại. Rằng giai cấp thống trị phong kiến vì để củng cố địa vị của mình mà đã tiến hành một loạt giáo điều áp bức phụ nữ, cấm đoán phụ nữ, để duy trì quyền lực thống trị và nam quyền.
Thực tế, khi đi sâu vào những câu chữ, và diễn giải này, chúng ta sẽ không khó nhận thấy, rất nhiều điều bị bóp méo, bị diễn giải sai lệch, đoạn chương thủ nghĩa.
Tam tòng
Tam tòng là người nữ “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” (ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con trai); cũng được viết là “vị giá tòng phụ, ký giá tòng phu, phu tử tòng tử” (chưa lấy chồng thì theo cha, lấy chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo con trai).
Câu nói này được giải thích là, người phụ nữ trong xã hội phong kiến bị áp bức, là biểu hiện địa vị nô tỳ của của người phụ nữ trong xã hội trọng nam khinh nữ. Đây là minh chứng địa vị chủ nô của đàn ông, người nữ từ bé cho đến tận khi già cả vẫn phải phục tùng nam giới, thậm chí phục tùng cả con mình.
Cách giải thích sai lệch này lại được dạy dỗ các thế hệ trẻ, rồi thế hệ trẻ lớn lên lại dạy các thế hệ sau sai lệch như thế, trở thành cách hiểu méo mó phổ biến trong xã hội.
Do người hiện đại không học, không tìm hiểu văn hóa truyền thống, nên dễ dàng nghe theo. Người tìm hiểu văn hóa truyền thống sẽ dễ dàng tìm ra các bằng chứng phủ định, như chuyện Mạnh Tử mồ côi cha từ nhỏ, một lần Mạnh Tử trốn học, mẹ Mạnh Tử chặt khung cửi dạy con, Mạnh Tử sợ hãi nghe theo lời mẹ, chăm chỉ học tập, và trở thành bậc Á Thánh của Nho gia.
Hay như chuyện gần gũi với người Việt là chuyện vua Tự Đức đi săn do mưa lũ về muộn, dù đang mưa, vua vẫn đội mưa mang roi đến dâng lên Hoàng thái hậu Từ Dụ, và quỳ xuống xin chịu đòn.
Đến như bậc Thánh nhân, vua chúa còn coi trọng đạo Hiếu, răp rắp nghe theo lời mẹ như thế, thì làm gì có chuyện người phụ nữ sau khi chồng chết thì nghe theo sự sai bảo của con trai.
Vậy “Tam tòng” là gì?
Thời xưa tang lễ chia ra làm 5 loại tang phục, gọi là Ngũ phục, gồm: “Trảm thôi, tề thôi, đại công, tiểu công và ty ma”. 5 loại tang phục này ứng với để tang người hàng kỵ, cụ, ông, cha và bản thân. Vượt ra ngoài phạm vi quan hê 5 đời này thì không phải mặc tang phục, trong đó Trảm thôi là nặng nhất, và Ty ma là nhẹ nhất.
“Tại gia tòng phụ” là người nữ chưa lấy chồng, khi tang lễ sẽ mặc tang phục theo người cha.
“Xuất giá tòng phu” là người nữ sau khi lấy chồng, khi tang lễ sẽ mặc tang phục theo người chồng.
“Phu tử tòng tử” là người nữ khi chồng chết sẽ mặc tang phục theo con trai.
Ví dụ, khi người ông qua đời, người chồng mặc tang phục là Tề thôi, thì người vợ cũng mặc Tề thôi giống như chồng. Nếu người chồng đã chết trước đó, người con trai trưởng chịu tang cụ mặc Đại công, thì người mẹ theo con trai cũng mặc Đại công.
Ví dụ nữa, chồng chịu tang kỵ (cụ 5 đời) thì mặc tang phục Ty ma, người vợ cũng mặc Ty ma giống như chồng. Nếu chồng đã chết, thì con trai trưởng là đời thứ 6, không phải mặc tang phục, và người mẹ cũng theo con trai, không phải mặc tang phục.
Thế nên “Tam tòng” hoàn toàn không có một chút hàm nghĩa trọng nam khinh nữ, nam cai quản nữ như cách giải thích sai lệch của những người có ý đồ xấu, lấy làm cái cớ để phá hoại đạo đức văn hóa truyền thống, kích động, dẫn dắt mọi người làm việc sai trái.
Tứ đức
Tứ đức là quy phạm hành vi cho người nữ. Chu Lễ có viết: “Nữ quan Cửu tần cai quản phép tắc giáo dục nữ, dạy 9 bậc phụ nữ trong cung đình về Phụ đức, Phụ ngôn, Phụ dung và Phụ công”.
(Nguyên văn: Cửu tần chưởng phục học chi pháp, dĩ giáo cửu ngự Phụ đức, Phụ ngôn, Phụ dung, Phụ công)
Hiện nay chúng ta quen gọi Tứ đức là: Công Dung Ngôn Hạnh, thực tế phải là: Đức Ngôn Dung Hạnh. Hàm nghĩa của Tứ đức như sau:
Phụ đức là chỉ phụ nữ lấy chính thân làm gốc, tức đức hạnh đoan chính.
Phụ ngôn là chỉ phụ nữ ăn nói đúng mực, thích hợp, có tu dưỡng.
Phụ dung là chỉ phụ nữ đoan trang, chín chắn, giữ lễ, tránh nông nổi tùy tiện.
Phụ công là chỉ phụ nữ giúp chồng dạy con, kính già yêu trẻ, cần kiệm cai quản gia đình.
Trong tác phẩm kinh điển giáo dục phụ nữ “Nữ giới” của Ban Chiêu đời nhà Hán có giải thích về Tứ đức rằng: “Đức không cần tài năng tuyệt đỉnh, Ngôn không cần nói năng sắc sảo, Dung không cần nhan sắc mỹ lệ, Công không cần khéo léo hơn người”.
Những quy phạm hành vi đạo đức trong văn hóa truyền thống có yêu cầu khác biệt giữa người nam và người nữ. Người nam yêu cầu coi trọng Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín, tuân theo Hiếu Đễ Trung Tín Lễ Nghĩa Liêm Sỉ. Còn người nữ thì cần tuân theo Tứ đức.
Cũng không rõ từ khi nào người ta lại đổi Tứ đức từ: Đức Ngôn Dung Công thành Công Dung Ngôn Hạnh, và diễn giải xã hội xưa cần người phụ nữ biết làm việc là trước hết, sau đó là có sắc đẹp, sau nữa mới là biết ăn nói, và cuối cùng mới là đức hạnh, coi phụ nữ là nô lệ, phục vụ xã hội nam quyền. Kiểu bóp méo ý nghĩa, đảo lộn trắng đen, chính nói thành tà, tốt nói thành xấu này là có mục đích kích động cái mầm ác trong con người, từ đó nuôi dưỡng cái ác, và sự dụng làm công cụ đấu tranh của họ.
Tam cương
Tam cương là chỉ “vua là giềng mối của bề tôi, cha là giềng mối của con, chồng là giềng mối của vợ”.
Nguyên văn: “Quân vi thần cương, phụ vi tử cương, phu vi thê cương”.
Hiện nay bị diễn giải là minh chứng cho xã hội phong kiến nam quyền, người nắm địa vị chủ nô, người nữ ở địa vị nô lệ. Đây là cách diễn giải đoạn chương thủ nghĩa. Nếu xem toàn bộ đoạn văn đó, sẽ thấy ý nghĩa hoàn toàn khác.
Nguyên văn đoạn văn này trong “Xuân thu phồn lộ” rằng: “Quân vi thần cương, quân bất chính, thần đầu tha quốc. Quốc vi dân cương, quốc bất chính, dân khởi công chi; Phụ vi tử cương, phụ bất từ, tử bôn tha hương. Tử vi phụ vọng, tử bất chính, đại nghĩa diệt thân; Phi vi thê cương, phu bất chính, thê khả cải giá. Thê vi phu trợ, thê bất hiền, phu tắc hưu chi”.
Tạm dịch: “Vua là giềng mối của bề tôi, vua bất chính, bề tôi đầu quân cho nước khác. Nước là giềng mối của dân, nước bất chính, dân nổi dậy tấn công. Cha là giềng mối của con, cha không nhân từ, con bỏ đi tha hương. Con là hy vọng của cha, con bất chính, đại nghĩa diệt thân. Chồng là giềng mối của vợ, chồng bất chính, vợ có thể lấy chồng khác. Vơ trợ giúp chồng, vợ không hiền, chồng từ bỏ vợ”.
Giềng mối (cương) ở đây có nghĩa là quy phạm, hình mẫu. Về cấu tạo sinh lý, người nam là mạnh mẽ, nên tự nhiên sẽ là chủ đạo, phải gánh vác trách nhiệm, làm những việc nặng nhọc hơn. Thế nên, người mang trách nhiệm chủ đạo, làm giềng mối thì đồng thời có quyền lợi và có trách nhiệm, nghĩa vụ cũng lớn hơn. Từ đoạn văn này, chúng ta thấy, quyền lợi và trách nhiệm của vua tôi, cha con, vợ chồng là tương xứng, hoàn toàn không có ý nghĩa ai phải tuyệt đối phục tùng ai, mà chỉ phục tùng trong phạm vi quy phạm đạo đức.
Câu này hoàn toàn cùng mang ý nghĩa như câu nói của Khổng Tử: “Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con”. - Tam cương này hoàn toàn là mối quan hệ tương hỗ, với quy phạm đạo đức từ 2 phía, 1 bên mất đi tiêu chuẩn, thì mối quan hệ này kết thúc.
Chuyện Khổng Tử đang làm quan Đại tư khấu nước Lỗ, đạt được thịnh trị “ngoài đường không nhặc của rơi, tối ngủ không đóng cửa nhà”, khiến nước Tề sợ hãi. Nước Tề bèn chọn mỹ nữ tặng vua Lỗ, vua Lỗ ham mê nữ sắc, bỏ bê triều chính, Khổng Tử liền từ quan, bỏ nước Lỗ ra đi, đã thể hiện rất rõ: “Vua là giềng mối của bề tôi, vua bất chính, bề tôi đầu quân cho nước khác”.
Ngũ thường
Ngũ thường nghĩa là 5 tiêu chuẩn đạo đức mà con người luôn luôn (thường hằng) cần có, đó là Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín.
Đổng Trọng Thư nói: “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín là Đạo Ngũ thường, là thứ mà Vương Đạo thường xuyên trị sửa”.
“Bạch hổ thông nghĩa” viết: “Ngũ thường là gì? Là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”.
Cũng có cách hiểu khác, Ngũ thường là: Cha nhân nghĩa, mẹ hiền từ, anh hữu ái, em cung kính, con hiếu thuận.
Sách Thượng Thư viết: “Ngày nay, vua Thương khinh nhờn Ngũ thường”. Khổng Dĩnh Đạt chú giải: “Ngũ thường tức là Ngũ điển, đó là cha nhân nghĩa, mẹ hiền từ, anh hữu ái, em cung kính, con hiếu thuận, là 5 đức hạnh mà con người thường phải có”.
Cũng có cách hiểu nữa, Ngũ thường là Ngũ hành.
Lễ Ký viết: “Nói về thực hiện Ngũ thường, đó là làm cho Dương không bị phân tán, Âm không bị tập trung”. Trịnh Huyền đời Hán chú giải: “Ngũ thường là Ngũ hành”.
Trang Tử viết trong Thiên Vận thiên rằng: “Trời có lục cực ngũ thường”. Thành Huyền Anh chú giải rằng: “Ngũ thường là Ngũ hành: Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ”.
Vì Ngũ thường (Ngũ đức) tương ứng với Ngũ hành, Nhân - Mộc, Nghĩa - Kim, Lễ - Hỏa, Trí - Thủy, Tín - Thổ, nên cách hiểu trên là đứng từ 2 góc độ khác nhau mà thôi. Đứng từ góc độ quan niệm đạo đức truyền thống thì Ngũ thường chính là Ngũ đức: Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín - 5 đức tính (Ngũ đức) mà con người luôn luôn (thường hằng) cần phải có.
Trung Hòa