CÁI GỐC CỦA PHƯỚC THIỆN
Biên Soạn: Quang Minh, Sĩ
Tải Bùi Văn Tiếp
(BBT đăng lại theo bản trên internet)
Đã
bao lần tôi muốn viết về lịch sử của cơ quan Phước Thiện, nhưng vì thiếu tài
liệu nên không thực hiện hoài bảo được. May thay tôi được Hiền Tài Dương Minh
Châu cho xem bản Phạm Môn Sử Lược Hồi Ký của ông Đạo Nhơn Nguyễn Văn Hòa bút
hiệu Khiết Dân, bản thảo viết xong ngày 1-9 Canh Thân (9-10-1980). Tôi dựa theo
tài liệu nầy, bổ cứu thêm ý kiến của ông Chơn Nhơn Nguyễn Văn Tấn Cố Vấn Vạn
Pháp Cung, thêm vào sự tích lũy công văn của cá nhân tôi nên tôi quyết định
khởi viết “Cái Gốc Của Phước Thiện”.
Một
động lực thứ hai thúc đẩy tôi phải làm phận sự của Tư Vấn Phước Thiện vì chiếu
theo Thánh Lịnh số 16/CQ.HTĐ.TL đề ngày 26.6 Bính Thìn (1976) có sự yêu cầu của
vị Phó Chưởng Quản Phước Thiện xin Ngài Bảo Đạo Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên
Đài thuyên bổ một Chức Sắc Hiệp Thiên Đài đặc trách Tư Vấn Phước Thiện để giúp
tay cho cơ quan nầy trong buổi hiện thời.
Ông
Khiết Dân viết đến thời Đạo Nhơn Trịnh Phong Cương làm Chưởng Quản thì chấm
dứt, tức đến năm 1947.
Ông
Cố Vấn Tấn nói nhiều về Phạm Môn ở Khổ Hiền Trang và công tạo tác Đền Thánh của
các Đạo sở Phạm Môn.
Từ
năm 1945 đến 1985 tôi phải tìm tòi tài liệu của các vị lão thành hoặc của cựu
Chức Sắc Phước Thiện, hoặc của Chức Sắc Hành Chánh hay bên Hiệp Thiên Đài đang
dự kiến công cuộc diễn tiến trong 10 năm qua.
Cuối
cùng xin trình bày những câu liễng đối của Phạm Môn, Phạm Nghiệp, Khổ Hiền
Trang, Trí Gíac Cung, Trí Huệ Cung, Vạn Pháp Cung. v. v…là những cơ quan liên
hệ đến Phước Thiện.
Tối
30-4-1975, cộng sản thống nhất VN, Đạo phải trải qua cơ thử thách nặng nề. Ngài
Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa cầm quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài lại biến Phước Thiện
ra cơ cứu khổ.
Cuộc
thế chưa kết thúc thì nền Đạo vẫn còn đong đưa chưa thể định rõ lập trường. Bởi
nó là Bí Pháp thì nó khi ẩn khi hiện để lánh sự khó dể của quyền đời, không thể
bêu hình bẹo tướng nó ra cho nhơn sanh thấy được. Hễ nhơn sanh thấy được nó là
của báu thì đổ xô hưởng ứng, tức quyền đời phải đập phá cho tiêu tan.
Nhớ
lại Đức Quyền Giáo Tông lập sở Lương Điền Công Nghệ thì Pháp bắt giam 2 ngày.
Đức Hộ Pháp trình Tờ Phúc, sơ giải bài Thiên Chúa độc quyền làm Phước Thiện thì
Pháp phá Đạo đến đổi đày Ngài đi Madagascar. Ngài Bảo Đạo lập Từ Thiện với mục
đích thực thi cơ cứu khổ thì CS ghép tội chống bán XHCN, bị buộc từ chức còn bị
quản chế tại gia.
Đức
Hộ Pháp há chẳng nói: “Chủ nghĩa Phước Thiện nó đương đầu với các sắc dân Vương
Vị, Đế Quyền, bảo sao mà không phản trắc, cũng vì quyền, vì lợi”.
Chúng
ta chờ xem Bí Pháp của Chí Tôn chuyển biến thế nào cần mở cửa Phật tiếp rước
nguyên nhân càng nhiều càng thỏa vọng.
Tòa
Thánh ngày 15-1 Bính Dần (1986)
Quang
Minh
1. TẠO PHẠM NGHIỆP
Năm
Kỹ Tỵ (1928) ngôi nhà đầu tiên Đức Hộ Pháp đặt ông Lễ Sanh Thượng Ngươn Thanh
lảnh khoán, khi làm xong kéo tới dựng lên tại Trường Đua, xã Hiệp Ninh, Quận
Châu Thành (Tây Ninh). Nhà cột cây lợp tranh. Có một số người vào làm công quả,
Đức Hộ Pháp ra lệnh: Em nào muốn tu phải làm tờ hiến thân vào Phạm Môn trọn
đời, có cha mẹ, vợ con đồng ý thì Hội Thánh mới thâu. Ngài mướn sở ruộng của bà
Phối Sư Lâm Hương Thanh tại Bến Sỏi, bổ ông Võ Văn Lên làm chủ sở để trồng lúa.
Còn nhà sở cũng trùng tu làm cửa ngõ đề 2 chữ “Phạm Nghiệp” và đăng hai bên đôi
liểng.
“Phạm Nghiệp thừa nhàn,
lợi lộc công danh vô sở dụng.
“Môn quan tích Đạo, tinh
thần pháp bữu hữu cơ cầu.
Đức
Thầy dạy anh em về Tòa Thánh lập Sở
thứ nhì là Sở Khách Đình kế lộ Phước Đức cũ, chủ sở là Nguyễn Văn Lư.
Năm
Canh Ngọ 1930, Sở thứ 3 được mở tại Tầm Lạnh tại xã Trường Hòa do ông Lê Văn Lưu làm
chủ sở, làm rẫy và ruộng.
Sở
nầy do ông Phạm Văn Màng (sau đắc Phối Thánh) lảnh nhiệm vụ coi lối 40 người
Miên và Việt; ông Lại Văn Sắc coi về lương thực. Khi mới đến anh em phải ở tạm
nhà của Út Giáp (Phạm Văn Giáp) và nhờ ông nầy giúp đỡ mọi việc. Ngày cày đầu
tiên Đức Thầy cầm cày đi 3 vòng rồi trao lại cho anh em ở sở.
Ngài
còn ra điều kiện cả Phạm Môn phải học thuộc lòng Thập Điều Giới Răn.
Thập Điều Giới Răn
1.Phải tuân y luật pháp chơn truyền
của Chí Tôn
2.Phải trọn hiếu với Tông Đường Phụ
Mẫu, trọn nghĩa vợ chồng,vẹn phận làm cha.
3.Phải trọn giữ trai giới.
4.Phải xa lánh các đảng phái.
5.Phải thật hành Phước Thiện, nuôi
người già, dưỡng trẻ thơ.
6.không đặng thâu của chúng sanh.
7.Coi anh em đồng Đạo như ruột thịt.
8.Không đặng bội sự phản bạn.
9.Phải ở như các Thánh Hiền, đừng
phạm tội vọng công bội đức.
10.Phải thương yêu loài người và
loài vật, kính trọng mạng sanh vứa theo tánh chất của Chí Tôn là Chúa sự sống.
Đến
năm Tân Mùi (1931) Thầy dạy tạo Sở thứ 4 kêu là Sở Giang
Tân kế mé sông Vàm Cỏ Đông thuộc xã
Trường Hòa do ông Trịnh Phong Cương làm chủ sở (sau nầy ông Cương làm Chưởng
Quản Hội Thánh Phước Thiện).
Sở
thứ 5 kêu là Sở Nam Công
Nghệ gần ngã 3 Suối Đá, Chà Là tại nách đường đi vô Thái Bình
Thánh Địa do ông Võ Văn Đợi tự Đại làm chủ sở (sau ông Đại làm Sư Trưởng Vạn
Pháp Cung)
Sở
thứ 6 kêu là Sở Nữ Công
Nghệ gần ngã tư Ao Hồ, kế bên cửa số 7 ngoại ô Thánh Địa do ông Đinh
Văn Tiết làm chủ sở.
Sở
thứ 7 kêu là Sở Dưỡng Lão
Đường, gần Ngã Tư Ao Hồ (nền nhà Sở Dưỡng Lão là Đền Thờ Phật Mẫu Đệ
Tam ngày nay) do ông Võ Văn Chi làm chủ sở.
Trên đây là những sở đầu tiên của
Phạm Môn lập tại Tây Ninh.
2. ĐỨC HỘ PHÁP ĐI THỦ
ĐỨC
Cơ
Đạo đến hồi bị khảo đảo vì số người nhập môn lên đến lối 10.000 người nên chính
phủ Pháp nghi kỵ kêu ông Tư Phát Trước (kêu cậu Tư Mắc) làm khó dể.
Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt tình nguyện ở Tòa Thánh chịu đựng mặc ai chưởi
mắng, Đức Cao Thượng Phẩm phải ra ở Thảo Xá Hiền Cung, Đức Hộ Pháp phải đến
Thánh Thất Thủ Đức tạm ngụ.
Thoạt
tiên Đức Ngài trị bệnh như Bác Sĩ, mua thuốc tiêm chích, cho uống thuốc nước
hoặc thuốc viên, bịnh nào cũng mau hết. Kế trị bịnh tà, mắc đằng dưới, quỉ ma
nhập, kết quả rất linh diệu.
Ông
Giáo Hữu Thượng Minh Thanh đến Thủ Đức hổ trợ Ngài. Có ông lục lộ tên Thái đem
vợ ông đến cho Ngài trị bệnh vì bà nầy có thai nghén mà thai không máy. Ngài
xem biết con Tinh hóa ra, ông Thái làm tình với vợ mà sanh bịnh chớ không phải
thai thật. Ngài biểu ông Minh sắm mê bồ, vôi bột và 1 lu nước cho Ngài làm phận
sự; bảo bệnh nhân thay đồ sạch sẽ, rồi ví bồ lại. Ngài dỗ cây “canac” lên niệm
chú đập 3 cái vào mình bệnh nhân, tức thì vợ ông Thái sanh ra nhớt nhau chớ
không phải trẻ nít. Sẳn vôi bột rắc lên nhau rồi đốt máu ấy, vợ ông Thái lành
mạnh trước sự khâm phục của đồng bào địa phương.
Ông
Giáo Hữu Minh thấy Đức Ngài trị bịnh hay quá mới về Phú Mỹ chở một người cháu
kêu ổng bằng chú, bị đau tê bại trong 2 năm đi không được lên Thủ Đức cho Ngài
trị. Đức Ngài truyền điện thế nào mà bệnh nhân tự nhiên cử động, đi tới đi tới
đi lui được, rồi lần hồi đi bình thường. Đó là ông Đinh Công Trứ sau nầy làm
Giám Đốc Trường Qui Thiện.
Một
hôm trên lầu Thánh Thất Thủ Đức có đàn cơ, ông Giáo Hữu Thượng Minh núp dưới
lầu không dám lên, Đức Lý Giáo Tông gián cho 1 bài thi:
Khổ mà cam chịu chớ đừng than
Hiền hảo cùng nhau mới vẹn toàn.
Trang điểm ngọc lành nên giá báu,
Giồi
mài Chí Thiện Thượng Minh Thanh.
Có
Minh dưới đài gọi Minh lên …Đức Lý dạy Đức Hộ Pháp cứu Trứ sau nầy nó sẽ hữu
dụng.
Thời
gian ở Thủ Đức Đức Hộ Pháp có làm bài thi như vầy:
Tự
Thán
Thắng
khổ người ta vẫn để lòng,
Ta
thua, Thủ Đức phải đành giông.
Buồn
chưa đạp đặng trên đầu rắn,
Vui
thấy phận mình chí khí rồng.
Nào
kẻ bị gà chê tiếng phụng,
Hiềm
vì hồng học ghét đuôi công.
Mở
kho nuôi đói đây trề miệng,
Ta
quải hồng ân trải giáp vòng.
Đất
Thủ Đức nhờ có Đức Hộ Pháp đến đó mà một số đông người tình nguyện hiến thân
vào Phạm Môn, lần hồi nảy nở làm nền cho các vùng phụ cận lan rộng ra như vết
dầu loan, dẫn độ 1 số nguyên nhân nắm phướng Tiêu Diêu mà trở về ngôi vị xưa
cũ.
3. LẬP KHỔ HIỀN TRANG
TẠI PHÚ MỸ
Đức
Hộ Pháp và Gíao Hữu Thượng Minh Thanh đi xe đò xuống làng Phú Mỹ, quận Châu
Thành (Mỹ Tho) để lập Thảo Đường, tức là cái am, cái động để tu niệm. Thảo
Đường cất trên thửa ruộng thuộc Đồng Tháp Mười trên rạch Láng Cát. Ngài ở Phú
Mỹ 1 tháng để thăm người vào Phạm Môn và dạy Đạo cho họ.
Có
ngày nọ, Đức Lý Giáo Tông không giáng cơ mà khiến Đức Hộ Pháp đọc miệng bài thơ
như vầy:
Thảo Đường phước địa ngộ Tòng Hoa,
Lục ức dư niên vũ trụ hòa.
Cộng hưởng phàm gian, an lạc trị,
Thể đăng bồng đảo vịnh âu ca.
Đức
Ngài được lệnh Thiêng Liêng mở ếm của Tàu để tìm Long Tuyền Kiếm. Ngài đốt 1 bó
nhang phóng lên cao, cây cao nhứt rớt nơi nào thì Ngài cho đào đất nơi đó. Hai
ông Giáo Hữu Minh và Lê Văn Trung (sau làm Chưởng Qủan Phước Thiện) đào được 12
con cờ tướng bằng sừng, 1 hình nhân bằng chì lá, 1dao cùn. Vụ ếm nầy do thầy
Địa Lý Tàu làm để VN không sản xuất nhơn tài được.
Ngoài việc cất Thảo Đường, mở ếm,
Ngài còn cân Thần lập thệ cho các tu sĩ để chọn vào Phạm Môn.
Nhắc
lại ngày 12-5 Canh Ngủ (1930) tại Thủ Đức Ngài lập hồng thệ cho 23 người đó là
lần thứ nhứt.
Ngày
28-9 Tân Mùi (1931) Ngài cân Thần cho 344 vị.
Ngày
3-2 Nhâm Thân (1932) Ngài lập hồng thệ cho 72 người tại Khổ Hiền Trang, đó là
hồng thệ kỳ nhì.
Ngày
18-8 Ất Hợi (1935) Ngài lập hồng thệ cho 77 người tại Trường Hòa đó là hồng thệ
kỳ ba.
Ngày
18-8 Ất Hợi (1935) Ngài lập hồng thệ cho 52 nam và 26 nữ, trong số nầy có:
Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa
Ông Tiếp Lễ Nhạc Quân Trần Quang
Thế.
Ông Phối Sư Thượng Trí Thanh.
Ông Giáo Hữu Thái Gấm Thanh
Ông Tả Phan Quân Trang văn Giáo
Đây là hồng thệ lần thứ tư.
4. CÁCH LẬP HỒNG THỆ
Xin nói rõ cách lập hồng thệ là dùng rượu đỏ (vin rouge) đổ vào một ly lớn, mỗi
người nhúng ngón tay giữa của bàn tay mặt vào rượu mà nói rằng: “Đây là huyết
thệ của tôi” rồi uống mỗi người 1 hớp. Cha mẹ, vợ con của người chánh danh
cũng phải uống mỗi người 1 hớp. Người chánh danh Phạm Môn được hồng thệ quì
trước Thiên Bàn nguyện như vầy:
“Tôi
là………………,……..tuổi, thề rằng, từ nay tôi coi anh em Phạm Môn như ruột thịt, sanh
tử bất ly ,thoản có điều chi hoạn nạn thì tôi liều mình với anh em tôi. Nếu ngày
sau tôi thất nguyện, quyền Thiêng Liêng hành Pháp tận đọa tam đồ, bất năng
thoát tục và thầy tôi không nhìn đến tôi nữa”.
Đức
Hộ Pháp nói: Đáng lẻ mỗi người phải cắt tay mình lấy máu đựng chung, rồi mỗi
người uống 1 hớp, nhưng mấy em làm người Đạo, mỗi người đều giữ trường trai,
không thể làm như vậy được, nên phải dùng rượu chát đỏ để thay thế.
5. CÁCH CÂN THẦN
Đức Hộ Pháp nói: Cân Thần có 12 điều kiện:
1.Là Hạnh
2.Là Đức
3.Là Trí
4.Là Lực
5.Là Tính
6.Là Thần
7.Là Thân
8.Là Tình
9.Là Mạng
10.Là Căn
11.Là Kiếp
12.Là Số
Ngài
chỉ xài 4 điều đầu là: Hạnh, Đức, Trí, Lực. Cũng như Hạnh được 5 điểm, Đức được
4 điểm, Trí được 6 điểm, Lực được 7 điểm; cộng 6+4+6+7=22 điểm chia lại cho 4
thì được 5,5 điểm. Người đũ trung bình là 5 điểm thì được đậu. Ai dưới trung
bình thì lập công đức thêm, sẽ thâu nhận sau.
Trước
khi lập hồng thệ phải được Cân Thần trước, nếu đậu mới được thọ “Đào Viên Pháp”
tức là làm lể hồng thệ, lập hồng thệ thì mới là người chánh thức của Phạm Môn.
Đức
Lý Giáo Tông có giáng cơ tại Thảo Xá Hiền Trang cho bài Thánh Giáo như vầy:
Gặp cảnh khó tùy cơ xoay chuyển
Lập minh từ trước diễn thi văn.
Tả biên có tạo Dịch Đình,
Hữu liên tạo Phong Vân Kinh Thơ Viện
Sau sẽ tạo Thảo Đường Bửu Điện,
Có Thích Ca Bạch Mã hiện thân
Lão khuyên
vậy khá lo lần.
. .
. . . . . . . .
Ông Tấn nói Đức Hộ Pháp có tiên tri rằng: “Đất Khổ
Hiền Trang là cái mũi thuyền Bát Nhã, còn cái lái là Tòa Thánh, đất nầy phải
xuất Thánh mới được.”
Ông Phối Sư Thái Ca Thanh lập phái Chơn Minh Lý ở Mỹ
Tho chống lại Tòa Thánh Trung Ương.
Khi Thánh Thất Khổ Hiền Trang tạo xong, Đức Hộ Pháp
tính làm lễ khánh thành long trọng nhưng chánh phủ Pháp tính nhiệm ông Đốc Phủ
Ca, hỏi ý kiến nên cho phép hay không? thì ông Ca đề nghị bát đơn. Ông trách
Đức Hộ Pháp lập Thánh Thất nơi làng vắng ai mà theo, và tại sao xuống Mỹ Tho mà
không ra mắt ông.
Trong lúc bối rối Đức Ngài thấy Đức Thái Thượng đến mà
không cởi Thanh Ngưu. Ngài hỏi lý do thì Đức Thái Thượng nói: “Ta đến dẩn Thanh
Ngưu về, để nó phá hiền hữu không thi hành Thiên mạng được”. Đức Hộ Pháp hiểu
ý, năn nỉ Ngài cứ để y như vậy, Thanh Ngưu không hại Ngài đặng đâu. (Vì lòng
bác ái, Ngài không muốn để ông Ca tuyệt mạng, thà ngài chịu khổ).
Đức Hộ Pháp nói trên Thiêng Liêng có Động Khổ Hiền là
nơi Đức Thái Thượng ngự. Nên nơi Khổ Hiền Trang Ngài hằng viếng thăm. Mấy em
hãy giữ gìn Khổ Hiền Trang cho sạch sẽ, thanh khiết để khỏi lỗi cùng Đức Thái
Thượng.
Đức Lý còn cho tại Khổ Hiền Trang bài thơ như vầy:
GIÁO truyền Đại Đạo khắp Đông TÂY,
TÔNG chỉ Tây Ninh với cảnh nầy.
THÁI cực ôm gồm trong Pháp Chánh,
BẠCH minh điều luật sửa tà tây.
Tà tây nghị định Đạo ban hành,
Chớ cải Thiên Điều sửa quẩn quanh.
Luật lịnh Ngọc Hư đâu để sót,
Phàm nầy sửa thử, sửa sao ranh.
6. PHẠM MÔN THỌ NẠN
Ngày
16-10 Qúi Dậu (3-1-1933) anh em dựng nhà lớn tại sở Trường Hòa để làm Nhà Thờ.
Vụ nầy có thân quyến của anh em Phạm Môn rất đông (lối 500 người). 7 giờ sáng
khởi sự, thợ mộc đang chỉnh đốn kèo cột để đóng đòn tay thì bổng đâu có ông Phủ
Sửu chủ Quận Châu Thành Tây Ninh đi với 5 người lính và Hương Thân, Hương ở Chà
Là vô tới. Anh em rất lo sợ, Thầy ra bắt tay Quận Sửu chào hỏi, ông Sửu chào
lại và quở rằng: Làm gì đông dữ vậy?
-Dựng nhà
-Ông có xin phép không? vì theo lịnh
quan lớn chánh thì cuộc hội họp quá 10 người phải xin phép. Còn bây giờ 4-5
trăm người mà không có phép nên tôi phải lập biên bản. Đọan Quận Sửu kêu thầy
đội vô làm biên bản liền.
Lúc ông quận nói chuyện với Đức Hộ
Pháp, anh em rút vô đám rừng phía sau chổ dựng nhà và trong 2 đám mía lau bên
hông cao khỏi đầu. Khi lính kêu biên tên từng người thì chỉ còn lối 30 người.
Quận
Sửu nổi giận hét lớn: “Cho mấy người giỏi trốn, rồi đây sẽ biết”. Kế bắt Thầy
ký tên vào biên bản rồi ra xe về liền.
Quận Sửu đi xe hơi từ Tây Ninh đến
Chà Là, kế đi xe bò đến sở Phạm Môn Trường Hòa.
Gần tết Qúi Dậu (1933) ông trưởng
Tâm (xếp lính Tây Ninh) đi với 5 người nữa đi tới Hộ Pháp Đường trình giấy
Chánh Thanh Biện Tây Ninh cho lính xét nhà. Họ tịch thu:
-Hồ sơ hiến thân của cả Phạm Môn.
-Văn thơ của Đạo.
-Văn thơ của đời (Mật thơ của Kỳ
Ngoại Hầu Cường Để ở Nhật, của Nguyễn Hải Thần ở Tàu, cùng các tài liệu chính
trị khác).
Hai tháng sau có lịnh đóng cửa các
sở Phạm Môn, mỗi nhà sở đều dựng một tấm bảng:
“Niêm cửa lại vì lập hội không xin
phép trước”.
Trát
Tòa đòi Đức Hộ Pháp và các chủ sở Phạm Môn. Đức Quyền Giáo Tông cũng theo ủng
hộ tinh thần.
Tòa
kêu Đức Ngài ra trước buộc tôi lập hội riêng mà không xin phép.
Đức Quyền Giáo Tông xác nhận các sở
nầy là của chung của Đạo Cao Đài chớ không phải của riêng. Tòa phạt mỗi vị chủ
sở 18 quan (18 frances) lối 20 đồng, còn Đạo sở mỗi người 10 quan.
Thầy
dạy anh em ký tên chống án lên Tòa Thượng Thẩm Sài gòn.
Tòa
sài gòn cũng xử y án Tòa Tây Ninh. Luật Sư Dương Văn Giáo (Bảo Cô Quân) của Đạo
biểu anh em chống án qua Pháp. Tòa Tối Cao của Pháp xử trắng án.
Tuy được trắng án nhưng các sở Phạm Môn không được hoạt động công khai, kể như
từ đây bị đóng cửa vĩnh viễn.
7. CHI PHÁI TOAN CHIẾM
TÒA THÁNH
Khi
cúng đàn rằm tháng giêng Giáp Tuất xong (1934) Hội Thánh được tin đến 21 tháng
giêng sẽ có chi phái về Tòa Thánh đăng điện, tức là lên ngôi Giáo Tông và sẽ
đuổi Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt ra khỏi Tòa Thánh. Đức Hộ Pháp nói: “Xin anh cả yên tâm, để mặc em lo liệu”. Liền đó Ngài cho thủ bổn Phạm Môn là Nguyễn Văn Gia khẩn cấp
kêu hết anh em chủ sở nơi các sở Phạm Môn phải có mặt tại Tòa Thánh trước 5 giờ
ngày 21-1 Giáp Tuất để Ngài dạy việc mỗi sở chỉ để lại 1 người giữ nhà mà thôi.
Đúng
hẹn anh em đến đủ mặt tại Hiệp Thiên Đài. Đức Ngài giao cho ông Giáo Sư Thượng
Minh Thanh trách nhậm điều động thống nhứt; ông liền phân ra giữ các cửa ra vào
nội ô ở Tòa Thánh.
Đúng
7 giờ sáng ngày 20-1 Giáp Tuất nhóm người chi phái kéo về Tòa Thánh rất đông.
Vừa đến cửa Hòa Viện thì ngừng lại, rồi phân ra: 1 nhóm vào cửa số 1, một nhóm
vào cửa số 2 cùng đồng xông vào nội ô. Những người giữ cửa ngăn lại và nói
rằng: “Các hiền huynh nán đợi chúng tôi báo cáo với Đức Quyền Giáo Tông chừng
nào có lịnh Anh Cả cho phép vào thì chư hiền huynh vô cũng không muộn”.
Nhưng
họ không chịu chờ đợi và ngang nhiên xông đại vào. Bên trong cố cản lại, khiến
kẻ lấn vào người xô ra. Cuộc ồn ào như thế khá lâu đến lúc dùng võ lực để tranh
phần thắng và diễn tiến mãi cho đến 9 giờ mới kết thúc. Nhóm chi phái thất bại
đành thui thủi trở về, trên vẽ mặt mỗi người đầy khí sắc căm hờn giận dữ.
Sau
cuộc biến động nầy Đức Quyền Giáo Tông mời anh em Phạm Môn dự buổi tiệc. Đức
Ngài nói: “Lúc trước Đức Hộ Pháp mở Phạm Môn có 1 phần Chức Sắc lớn trong Hội
Thánh đánh đổ, chớ ít ai nhìn nhận là đúng, vì ai nói sao qua nghe vậy chớ thật
ra qua cũng không biết Đức Hộ Pháp mở Phạm Môn có ích lợi gì. Đến hôm nay qua
mới biết, nhờ có mấy em dám hy sinh để bảo tồn nghiệp Đạo. Ngài ngỏ ý với Đức
Thầy mượn người Phạm Môn để bổ đi các tỉnh hầu trấn an tinh thần bổn Đạo.
Qua
năm Ất Hợi 1935, Đức Hộ Pháp đưa anh em Phạm Môn ra cầu phong. Đức Lý giáng
phong cho ông Trịnh Phong Cương làm Giáo Hữu, cùng 27 vị Lễ Sanh phái Thượng,
14 vị đắc Lễ Sanh Gíao Thiện:
Đức
Lý cho chung 1 bài thi tứ tuyệt:
Một
trường vinh hiển buổi sau đây,
Danh
thể phá tua trả nghĩa Thầy.
Nắm
giữ mối giềng nền Đạo cả,
Lão
đương lừa lọc trận rồng mây.
8. THUYÊN BỔ CHỨC SẮC
PHƯỚC THIỆN
Cửa
Phạm Môn đã bị chánh quyền Pháp đóng cửa nên Đức Hộ Pháp biến nó ra thành Cơ
Quan Phước Thiện. Ngài thuyên bổ mỗi vị lãnh trách nhiệm làm đầu họ Phước Thiện
cầm quyền 1 tỉnh, Ngài cho bốc thâm chọn 20 vị đi 20 tỉnh Miền Nam, lại
tặng mỗi người 1 Đạo hiệu.
Danh sách đạo hiệu và nhiệm vụ hành sự địa phương được kể như sau:
Họ và Tên 1 /. Đinh văn Tiết |
Đạo-Hiệu Chí-Khiết |
Phẩm-Tước Lễ-Sanh Giáo-Thiện |
Trách-Nhiệm Đầu-Họ Phước-Thiện Gia-Định |
Nữ-Phái ( Đầu-Họ
Phước-Thiện Nữ )
Họ và Tên 1. Trịnh thị Bền 2. Lê thị Rổi |
Phẩm-Tước Lễ-Sanh Giáo-Thiện Lể-Sanh Giáo-Thiện |
Trách-Nhiệm Đầu-Họ Phước-Thiện Bạc-Liêu Đầu-Họ Phước-Thiện Chợ-Lớn |
Những Tỉnh không có
Đầu-Họ Nữ, thì Nam-Phái kiêm luôn.
Riêng phần Nữ-Phái, cũng có một số người kê dưới đây được Đức Thầy
cho mỗi người một Đạo-Hiệu:
Họ và Tên 1/. Từ thị Kế |
Đạo-Hiệu Thừa-Thiện |
Trước
khi đi địa phương Thầy bắt tất cả phải học cách thức Hành Chánh Đạo, nghi lễ
ngoại giao, đi lể; nhứt là phải thuộc làu kinh Thiên Đạo và Thế Đạo cùng giọng
đọc kinh cho rập ràng. Mỗi đêm đều tề tựu tại Hộ Pháp Đường để học từ 6 giờ tối
đến 10 giờ, đích thân thân Thầy chỉ dạy.
Có
điều khổ cho Chức Sắc phần đông dốt nát, không biết đọc biết viết, nghe người
ta đọc mà đọc theo lâu thuộc, bị rầy lên rầy xuống.
Đi
lễ Thầy cũng tập lối Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, Bát Quái, ai cũng phải đi cho trúng
Thầy mới chịu. Thầy còn dạy tư cách đến quan viên, nhân sĩ các tôn giáo bạn,
nhà thờ chúa, miếu phải như thế nào? Cách lạy theo mỗi tôn giáo lạy ông bà theo
cổ lệ VN.
Thầy nói: Qua biết mấy em từ bấy giờ
lo về ruộng rẫy, nay học những việc nầy nên phải lứng khứng, nhưng mấy em lảnh
trọng trách trong cơ cứu khổ là đi khai mở cơ quan Phước Thiện, làm đàn anh của
nhơn sanh, dìu dẫn họ trên đường lập công, lập vị nơi cảnh thiêng liêng, nên
không học không được, dầu có khó khăn bao nhiêu cũng phải ráng học.
Về ngoại giao thì ông quyền Thượng
Chánh Phối Sư Thượng Thành Thanh chỉ dẩn. Về văn kiện thì Ngài Khai Pháp,
Chưởng Quản Phước Thiện lập thành 24 mẫu công văn rồi in ra cho mỗi vị đầu họ
mỗi người 1 bổn.
Áo
mão mấy ông cũng phải tự sắm- 1 bộ Đại Phục, 1 bộ Tiểu Phục. Hể ra khỏi
nhà phải mặc tiểu phục. Tiền xe đi cũng phải tự túc, vì Hội Thánh chưa có ngân
quỹ, nên phải đi làm mướn hay buôn bán có sanh lợi mới đi hành Đạo. Thấy cái
khó của chư vị Chức Sắc Phước Thiện buổi đầu chúng ta mới thấy thương chí hy
sinh của quí Ngài một cách tuyệt đối.
Ngày
12-9 Ất Hợi (1935) Đức Hộ Pháp tiển Chức Sắc Phước Thiện lên đường. Ngài dặn
lần chót: “ Đi tới địa phương gặp chùa Phật, nhà Thờ, Đình Thần mấy em xin phép
vào, làm lễ ra mắt các Đấng ấy. Còn khi có Chức Sắc đến địa phương mình thì
phải rước có chuông trống tùy theo phẩm tước, nhưng mấy em bên Phước Thiện nên
khước từ điều ấy. Thầy trò bịnh rịnh chia tay, ai lo phận nấy.
Hành
sự được thời gian, đến ngày 27-12 Ất Hợi (1935) Ngài Khai Pháp gởi điện tín cho
phép mỗi người về thăm gia đình và đến mùng 8 tết phải có mặt tại Tòa Thánh để
cúng Vía Chí Tôn và đãi lịnh Hội Thánh.
Ngày
mùng 9 Bính Tý (1936) Đức Hộ Pháp ban cho mỗi vị 4 phép bí tích:
1.Phép Giải Oan
2.Phép Tắm Thánh
3.Phép Đoạn Căn (làm phép xác)
4.Phép Hôn Phối.
Thầy
trục Thần, khai khiếu truyền dạy cách hành Pháp cho từng người, lại ban cho mỗi
người 1 cây Bạch Đăng (đèn cầy trắng) và dặn: “Khi gặp việc khó khăn, không
giải quyết được thì đợi lúc 12 giờ khuya, đốt cây đèn nầy và thành tâm cầu
nguyện thì Thầy sẽ giúp cho.
Cuộc
huấn luyện rất chu đáo, bảo sao cơ cứu khổ không thành công được. Từ ngày có
Chức Sắc bổ đi các tỉnh, cơ sở lương điền mọc như nấm ở các làng, các quận, các
tỉnh. Lúa thóc, khoai, bí tiếp tế về Tòa Thánh dồi giàu nên sự tạo tác Đền
Thánh mới được thuận lợi. Tài chánh cũng khả quan, mới có tiền mua sắt xi măng
mà xây cất. Nhứt là nhân lực, người Đạo sở lần lượt về gánh hồ, đào đất, rửa
sạn, nấu cơm, thợ mộc, thợ cửa… phần đông người Phạm Môn đảm trách.
9. PHƯỚC THIỆN LẢNH TẠO
TÁC ĐỀN THÁNH
NĂM
1936, Ngài Khai Pháp chưởng Quản Phước Thiện ra lịnh các đầu họ chọn người hiến
thân đưa về Tòa Thánh để đặng nhập vào công thợ tạo tác Tổ Đình. Kết quả có 400
người nam lẫn nữ về đãi lịnh. Điều kiện phải lập minh thệ, thủ trinh trong thời
gian tạo tác, nam nữ cũng vậy. Nhờ số người nầy mà thợ mộc, thợ hồ, thợ cưa,
thợ sắt, thợ đấp vẽ…có đủ dùng để xây cất đền thờ Chí Tôn.
Từ
buổi đầu lập Phạm Nghiệp đến Sở Khách Đình, Sở Tâm Lạch, Sở Giang Tân, Sở Nam
Công Nghệ, Sở Nữ Công Nghệ, Sở Dưỡng Lão Đường…, tại Thủ Đức, Khổ Hiền
Trang…đến khi Phạm Môn bị đóng cửa đã làm nền cho Sở Phước Thiện, tức đổi danh
từ Phạm Môn ra Phước Thiện. Rồi từ sở Phước Thiện được bổ đi lục tỉnh tạo Lương
Điền Công Nghệ Thương Mãi,cùng tạo tác Đền Thánh nên Đức Hộ Pháp và Đức Lý Giáo
Tông đồng ý lập Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng theo Đạo Nghị Định số
48/Phước Thiện làm pháp lý.
Văn-Phòng Hộ-Pháp
Số: 48/PT
Đại-Đạo Tam-Kỳ
Phổ-Độ
( Thập Tam Niên )
Tòa-Thánh Tây-Ninh
Đạo Nghị - Định
Chiếu y Pháp-Chánh-Truyền
ban quyền-hành cho Giáo-Tông và Hộ-Pháp.
Chiếu theo Đạo Nghị-Định số: 4/60 phân-định quyền cho Cửu-Trùng-Đài và
Hiệp-Thiên-Đài ngày 4 tháng 11 Ất-Hợi (29/11/1935).
Nghỉ vì Hội-Thánh duy có
một mà quyền Đạo có bốn phương là:
- Hành-Chánh.
- Tòa-Đạo.
- Phước-Thiện.
- Phổ-Tế.
Nghỉ vì Cơ-Quan
Phước-Thiện cốt để mở đường Thánh-Đức cho toàn sanh-chúng có đủ phương-thế nhập
vào Thánh-Thể, người Ngoại-Giáo có thể nhờ nơi cửa Phước-Thiện mà hiệp cùng
Hội-Thánh. Nên:
Nghị-Định
Điều Thứ Nhứt: Hội-Thánh sẽ tuyển chọn
trong hàng Chức-Sắc Thiên-Phong đủ hạnh-đức, đủ công-nghiệp đặng chiết ra
khai-hóa, giáo-hóa cả Cơ-Quan Phước-Thiện, đặng cứu thế độ đời.
Điều Thứ Hai: Chức-Sắc Phước-Thiện chú
trọng nhập vào Thập-Nhị Đẵng Cấp Thiêng-Liêng kê 12 sau đây:
1/. Minh-Đức
2/. Tân-Dân
3/. Thính-Thiện
4/. Hành-Thiện
5/. Giáo-Thiện
6/. Chí-Thiện
7/. Đạo-Nhơn
8/. Chơn-Nhơn
9/. Hiền-Nhơn
10/. Thánh-Nhơn
11/. Tiên-Tử
12/. Phật-Tử
Điều Thứ Ba: Những người Ngoại-Giáo
hay Chư-vị Đạo-Nhơn các nền Tôn-Giáo khác muốn nhập vào cửa Đạo thì Hội-Thánh
do nơi công-nghiệp Phước-Thiện của họ mà định vị, tùy theo công-nghiệp nhỏ lớn
đặng định-phẩm từ bậc Minh-Đức tới Chơn-Nhơn mà thôi. Còn bậc Hiền-Nhơn đổ lên
thì giúp Hội-Thánh giữ-gìn Chơn-pháp, nên phẩm-vị nầy phải có cơ-bút giáng
phong mới đặng.
Điều Thứ Tư: Cả Cơ-Quan Phước-Thiện
đều giao cho Hiệp-Thiên-Đài chưởng-quản.
Điều Thứ Năm: Chức-Sắc Phước-Thiện
không có Đạo-phục riêng, duy đặng Hội-Thánh ân-tứ lịnh-bài, và sắc-lịnh kể ra
sau đây:
- Minh-Đức và Tân-Dân
duy có lãnh cấp-bằng, mặc áo Đại-phục trắng trong mà thôi, không có dấu
hiệu chi ngoại-thể.
- Bậc Chức-Sắc Thiên-Phong hay là Chức-Việc thì mặc đồ Đại-phục của mình, những
người Ngoại-Giáo thì phải mặc khăn đen, áo dài theo Quốc- phục.
- Thính-Thiện, Hành-Thiện và Giáo-Thiện thì lãnh sắc-lịnh có lịnh-bài của mỗi
phẩm-vị ấy, gắn giữa dây sắc-lịnh ngay ngực.
- Chí-Thiện, Đạo-Nhơn và Chơn-Nhơn mang dây sắc-lịnh phái Thượng có gắn
lịnh-bài mỗi phẩm-vị của họ ngay ngực.
- Phẩm Phật-Tử thì do cơ-bút nơi Chí-Tôn định và mặc sắc-phục chi thì tự Người
định-đoạt.
Điều Thứ Sáu: Sắc-lịnh và lịnh-bài của
Phước-Thiện duy mặc nơi các Thánh-Thất và Tòa Thánh để chầu Lễ Đức Chí-Tôn mà
thôi, không đặng dùng theo đồ thường thế.
Điều Thứ Bảy: Cả Hội-Thánh
Cữu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài tùy phận-sự của mình thi-hành Đạo Nghị-Định nầy./.
Lập tại Tòa-Thánh, ngày
19 tháng 10 năm Mậu-Dần. ( Dl. 10-12-1938 )
Giáo-Tông (Ký tên) Lý-Thái-Bạch
Hộ-Pháp, Chưởng-Quản Nhị Hữu-Đài, Hiệp-Thiên và Cữu-Trùng, (Ấn ký) - Phạm Công
Tắc
Vâng-lịnh Ban-Hành cho toàn
Phước-Thiện.
Khai-Pháp Hiệp-Thiên-Đài Chưởng-Quản S. PT.
Trần Duy Nghĩa
Cơ
Đạo phát triển đồng đều nhờ bên Cửu Trùng Đài Đức Quyền Giáo Tông giáo hóa đủ
Chức Sắc trường cột bổ trấn nhậm lục tỉnh. Bên Phước Thiện Đức Hộ Pháp ban phép
Tắm Thánh, Giải Oan, Đoạn Căn, Hôn Phối cùng phép trị tà cho Chức Sắc Phước
Thiện nên cơ phổ độ rất thịnh hành. Ban đầu thì dân quê dốt vào Đạo, lần lượt
làng xã, công chức, giáo chức rồi đến Cai Tổng, Hội Đồng, Quận Trưởng…cũng xin
làm môn đệ Chí Tôn.
Chánh quyền Pháp lấy làm lo sợ vì có nhiều bài Thánh Giáo tiết lộ nền quốc Đạo
sẽ phục hồi quốc thể, đem quê hương đến bến tự do, số tín đồ lên đến cả triệu
người thì mối lo lắng của họ lại càng tăng.
10. CUỘC TRẤN THÁNH PHI
CHÂU
Cơ Đạo đang trên đà tiến triển bổng dưng ngày 4-6 Nhuần Tân Tỵ (27-7-1941) Đức
Hộ Pháp và 5 vị Đại Thiên Phong bị Pháp bắt rồi lưu đày sang đảo Madagascar
(Phi Châu). Năm vị gồm:
1.Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa,
Chưởng Quản Sở Phước Thiện.
2.Ông Ngọc Trọng Thanh, Ngọc Chánh
Phối Sư.
3.Ông Thái Phấn Thanh, Quyền Thái
Chánh Phối Sư.
4.Ông Thái Gấm Thanh, Giáo Sư Công
Viện.
5.Ông Đỗ Quang Hiển, Sĩ Tải Hiệp
Thiên Đài.
Dần dần 1 số Chức Sắc bị bắt thêm
gồm các ông:
1.Ông Giáo Sư Thượng Đức Thanh bị đày
đi Bà Ná.
2.Hai ông Luật Sự Phan Hữu Phước và
Võ Văn Nhơn bị đày ra Sơn La.
3.Chánh Trị Sự Lê Văn Ngà ở Gia Lộc
Trãng Bàng bị đày ra Côn Đảo.
4.Ông Giáo Sư Thượng Sáng Thanh cũng
bị đày ra côn đảo.
Còn nhiều Thánh Tử Đạo bị biệt tích vì sự thủ tiêu vô nhân
Đạo của thực dân Pháp, không thể kể hết được.
Rồi
ngày qua ngày 2 vị Thánh đã bỏ mình nơi đảo vắng là 2 ông Thánh Hiển và Thái
Gấm Thanh. Còn Ngài Khai Pháp, ông Thái Phấn và ông Ngọc Trọng được về cùng Đức
Thầy năm 1946 sau hơn 5 năm thọ khổ.
Cơ
Đạo nói chung và Sở Phước Thiện nói riêng phải bị đình trệ vì sự lưu đày nầy.
Đức Thầy không nề lao nhọc quyết phục hồi quyền Vạn Linh bèn tổ chức Đại Hội
Nhơn Sanh và Đại Hội Phước Thiện. Kỳ nầy là kỳ ân xá cho nên việc cầu phong,
cầu thăng được chế giãm rất nhiều, bực Lễ Sanh và Giáo Thiện được thăng chức 1
số đông đáng kể. Đó là Đại Hội năm Bính Tuất (1946).
Có
nhân lực trong tay Đức Ngài chấn chỉnh Hành Chánh và Phước Thiện lại có qui cũ.
Cơ sở xây cất thêm, Hạnh Đường mở dạy Đạo đức, giáo lý và phương pháp làm quan
Đạo sao cho ra vẽ Thầy Nhơn Sanh.
Từ
sự xuống dốc gần như muốn tan rã, Đức Ngài dựng lên mạnh hơn cái cũ 5 năm về
trước. Nếu chẳng phải Thiên Tài, Thiên Mạng thì không thể chấn hưng nền Đại Đạo
một cách hùng hậu, sung mảng như vậy được. Thực Đức Ngài rất xứng đáng bậc thay
Trời tại thế đó vậy.
11. LẬP HỘI THÁNH PHƯỚC
THIỆN
Đức Hộ Pháp đã đổi danh từ Phạm Môn ra sở Phước Thiện; đến năm Bính Tuất (1946)
Đầu
tiên Ngài lập 4 viện Phước Thiện:
1/Lễ-Viện.
2/ Lương-Viện.
3/ Công-Viện.
4/ Hộ-Viện
Sau lối nửa tháng Ngài công cử thêm cho đủ Cửu Viện. Danh sách đầu tiên của
Hội Thánh Phước Thiện kể dưới đây:
1/.
Thượng-Thống Hòa-Viện Phước-Thiện, Chí-Thiện Võ Văn Lẽo.
Phụ-Thống Hòa-Viện Phưóc-Thiện Giáo-Thiện Phạm văn Hương.
2/.
Thượng-Thống Lại-Viện Phưóc-Thiện Chí-Thiện Lê văn Tri
Phụ-Thống (chưa có)
3/.
Thượng-Thống Lễ-Viện Phuóc-Thiện Đạo-Nhơn Trịnh Phong Cương
- Quan-Sự: Chí-Thiện Huỳnh văn Phương
- Hôn-Sự: Chí-Thiện Tần văn Lợi
- Tang-Sự: Chí-Thiện Phạm công Đằng
- Tế-Sự: Chí-Thiện Phạm văn Lê
4/.
Thượng-Thống Học-Viện Phước-Thiện Chí-Thiện Nguyễn văn Gia
- Phụ-Thống (chưa có)
5/. Qu.
Thượng-Thống Y-Viện Phưóc-Thiện Giáo-Thiện Lê văn Thiệt
- Phụ-Thống Y-Viện Phước-Thiện Giáo-Thiện Nguyễn văn Sáng
6/.
Thượng-Thống Nông-Viện Phưóc-Thiện Chí-Thiện Lê văn Gấm
- Phụ-Thống Nông-Viện Phước-Thiện Chí-Thiện Phạm Duy Oai
7/.
Thượng-Thống Lương-Viện Phước-Thiện Chí-Thiện Trịnh văn Phận
8/.
Thượng-Thống Công-Viện Phước-Thiện Chí-Thiện Nguyễn văn Lư
- Phụ-Thống Công-Viện Phước-Thiện Chí-Thiện Phạm văn Út
9/.
Thượng-Thống Hộ-Viện Phước-Thiện Chí-Thiện Đỗ văn Viện
- Phụ-Thống Hộ-Viện Phước-Thiện Chí-Thiện Lê văn Giờ
Sau Tết Nguyên Đáng Đinh Hợi (1947) Ngài Hiến Đạo không trở lên Tòa Thánh nên
Đức Hộ Pháp chỉ định ông Đạo Nhơn Nguyễn Tự Thế làm Chưởng Quản Phước Thiện.
Cơ cứu khổ khai mở thêm như: Cô Nhi Viện, Dưỡng Đường Phước Thiện, Nhà Bảo
Sanh, Trại Hàng Cấp Tế, các sở hốt thuốc Nam miễn phí…
Hội Thánh Phước Thiện còn mở rộng ra về đường tu chơn, nên Đức Hộ Pháp tạo ra 3
nhà Tịnh: Trí Huệ Cung, Trí Gíac Cung, Vạn Pháp Cung để những vị đã có đủ Tam
Lập mà còn muốn lập công thêm nữa có chổ tịnh dưỡng chơn thần hầu đoạt Vô Vi
Pháp tại thế.
Trong
hạng tu chơn của 3 cung phải học lý thuyết và thực hành Phương Luyện Kỹ, Phương
Pháp Trị Tâm và cách luyện Thân, luyện Trí.
Phương
Luyện-Kỹ đặng vào Con Đường Thứ Ba Đại-Đạo.
- Phải biết
thân-thích cùng cả nhơn vật tức là tìm nguyên do của Vạn-Linh cùng Chí-Linh.
- Phải ân-hậu và khoan-hồng.
- Phải thanh-nhàn đừng vị-kỷ.
- Phải bình-tĩnh, nghĩa là đừng chịu ảnh-hưởng của họa-phước, buồn vui ( tập
tánh không không đừng nhiểm, vui cũng vui, buồn cũng buồn, nhưng đừng để nọc
buồn vui thấm vào chơn-tánh ).
- Phải độ lượng khoan dung, tha-thứ.
- Phải vui-vẻ, phải điều-hòa, tự-chủ và quyết đoán.
- Giữ linh-tâm làm căn-bản, hiếu-hạnh với Chí-Tôn và Phật-Mẫu.
Phương-Pháp
Trị Tâm
Vì tâm là
hình-ảnh thiên-lương.
Đức-tin và khôn ngoan là kho chí bữu, ngoài ra là của bỏ, là đồ vô giá.
- Ai đã cố oán kẽ thù của mình thì khó giữ thanh tâm công-chánh cho đặng.
- Ai chẳng oán-hận mới thắng đặng kẽ thù-nghịch của mình.
- Sự cừu-hận là khối thảm khổ đệ nhứt của nhơn-sanh, nên người hiền thì không
biết đến hay là từ bỏ cừu-hận oán ghét.
Thắng đặng khí nộ mình thì không chọc ai giận dữ.
- Lấy thiện mà trừ ác.
- Lấy nhơn-nghĩa trừ bạo tàn.
- Lấy lòng quảng-đại đặng mở tâm-lý hẹp hòi.
- Lấy chánh trừ tà.
Ấy là đường thương huệ kiếm.
Luyện
thân, luyện trí.
-Ẩm-thực
tinh khiết.
- Tư-tưởng tinh khiết.
- Tín-ngưỡng mạnh-mẽ nơi Chí-Tôn, Phật-Mẫu.
- Thương yêu vô-tận.
Ấy là chìa khóa mở cửa Bát-Quái-Đài tại thế nầy.
(14
tháng Giêng Đinh-Hợi 1947).
Hộ Pháp Chưởng Quản Nhị Hữu Hình
Đài Hiêp Thiên Và Cửu Trùng
(Ấn
Ký)
Ôn lại chúng ta có thể kể những vị lãnh Đạo cơ quan Phước Thiện từ thỉ chí chung
như sau:
Ngài
Khai Pháp Trần Duy Nghĩa
Ngài
Hiến Đạo Phạm Văn Tươi
Ông
Đạo Nhơn Nguyễn Tự Thế
Ông
Đạo Nhơn Trịnh Phong Cương
Ông
Chơn Nhơn Lê Văn Trung
Ông
Chơn Nhơn Nguyễn Văn Phú
Ông
Chơn Nhơn Trần Minh Viên
Ông
Chơn Nhơn Đặng Văn Chưởng
Để làm sáng tỏ mục đích cơ quan Phước Thiện, chúng tôi xin trình bày những bài
giảng Đạo của Đức Hộ Pháp về Phạm Môn là gì, Phước Thiện có bị bế hay không? ...
đề chúng ta khai minh đại Đạo hầu làm bài học quí giá cho đoàn hậu tấn.
12. PHẠM MÔN LÀ GÌ?
Đức Hộ Pháp giảng Đạo ngày 30-5 Qúi
Tỵ (1.9.1953)
Phạm Môn là gì? do nơi đâu mà nảy sinh ra Phạm Môn?
- Phạm Môn là cửa Phật, Phạm là Phật, Môn là cửa tức là cửa
Phật, thật hành là nhà Phật.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển trang
119 về khoản Thi Văn Dạy Đạo có bài thi tứ tuyệt chính mình Đức Chí Tôn giáng
cơ cho như vầy:
Tỉnh
ngộ xá thân tại Phạm Môn
Khuyết
tu hậu nhựt độ sanh hồn.
Vô
lao bất phục hồi chơn mạng
Tỉnh
thế kỳ thân đắc chánh tôn.
Tỉnh ngộ xá thân
tại Phạm Môn nghĩa là Chí Tôn kêu cả con cái của
Ngài thức giấc cho mau hiến thân vào cửa Phạm.
Khuyết tu hậu
nhựt độ sanh hồn nghĩa là khuyên chúng sanh nên ráng
tu hành tùng khuôn viên kỹ luật nhà Phật thì ngày kia linh hồn được siêu thăng
thoát hỏa.
Vô vi bất phục
bồi chơn mạng nghĩa là Đức Chí Tôn dạy con cái của
Ngài nếu không có công lao khổ hạnh trong cửa Đạo thì không thể nào trở về ngôi
xưa vị cũ cho đặng.
Tỉnh thế kỳ thân
đắc chánh tôn nghĩa là nhầm lúc thế kỷ 20 nầy,
thời kỳ Đức Chí Tôn rộng mở cửa Phật độ con cái của Ngài, chỉ khuyên chúng ta
ráng tu tỉnh ngộ, hủy cả hành vi của thế sự, đem thân vào cửa Phạm, chịu nâu
sồng khổ hạnh cho đặng thì tự nhiên đắc Đạo tại thế đó vậy.
Thưa Chức Sắc
Thiên Phong Nam Nữ.
Bài thi nầy chính
Đức Chí Tôn giảng dạy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển hai mươi mấy năm trường, song
le ít ai để ý tìm hiểu ý nghĩa sâu xa ẩn nhiều huyền vi mầu nhiệm của Đạo.
Do bởi tấm màn bí
mật nên khó đổi truy tầm, song cũng có lắm người vén màn bí mật ấy nên ngày nay
nhơn sanh mới hưởng được giọt nước Cam Lồ của Đức Chí Tôn rưới chan cho toàn
nhơn loại.
Đời quá bạo tàn,
cho nên Đức Chí Tôn mới giáng trần mở Đạo cho cả con cái của Ngài biết các ngôi
Thần Thánh, Tiên Phật đều tình nguyện hạ thế cứu đời. Xuống bao nhiêu lại càng
mất bấy nhiêu. Trong thời kỳ bần Đạo vâng lịnh Đức Chí Tôn xuống mở Đạo thì Đức
Chí Tôn mới hỏi rằng: “Con phục lịnh xuống thế mở Đạo, con mở Bí Pháp trước
hay mở Thể Pháp Trước”.
Bần Đạo trả lời: Xin mở Bí Pháp
trước.
Đức Chí Tôn nói:
Nếu con mở Bí Pháp trước thì khổ đa. Đang lúc đời cạnh tranh tàn bạo, nếu mở Bí
Pháp trước, cả sự bí mật huyền vi của Đạo, đời thấy rõ xúm nhau tranh giành,
phá hoại cả cơ thể hữu vi hữu hủy đi nữa cũng vô hại. Xin miễn là Bí Pháp còn
thì Đạo còn.
Bí Pháp là Hiệp
Thiên Đài giữ.
Thể Pháp là Cửu
Trùng Đài cầm quyền đặng giáo hóa.
Đang khi cơ quan
CTĐ mở mang bành trướng về mặt phổ thông chơn giáo thì bên Hiệp Thiên Đài Bần
Đạo vâng lịnh Chí Tôn mở Phạm Môn dùng tấm màn bí mật bao phủ khuất lấp cả hành
vi, khó ai hiểu đặng. Mười mấy năm khổ hạnh nâu sồng trong cửa Phạm, ẩn nhẩn
tạo nên cơ thể hữu tướng dường ấy, hại thay! Chúa quỉ biết rõ cơ mầu nhiệm nên
mới tương liên cùng chánh phủ Pháp tìm hiểu yếu lý huyền vi của Phạm Môn, liền
ra lịnh đóng cửa thì lại nảy sinh ra trăm ngàn sở Phước Thiện.
Từ ngày Phước
Thiện ra đời cho đến nay thì toàn cả nhơn sanh nam nữ vào cửa Phước Thiện nầy
mà đoạt vị rất nhiều, y theo bài thi của Đức Từ Phụ mà Bần Đạo mới vừa đọc trên
đây.
Thưa Chức Sắc
Thiên Phong Nam Nữ.
Cơ Đạo Đức Chí
Tôn giáng lập kỳ ba là cốt yếu cứu vớt cửu nhị ức nguyên nhân còn lẫn lộn trong
hàng tín đồ đang vạch lối tìm đường mở nẻo hầu trở về ngôi phẩm. Trường xuất
Thánh Đạo, Đức Đại Từ Phụ mở rộng. Mà hại thay những người giữ cửa rất hẹp hòi,
lại quá ư nghiêm khắc. Phước Thiện Phạm Môn ra đời, kêu réo muôn nơi, song hàng
nguyên nhân phần nhiều bị đóng cửa chẳng đặng vào, thì ngày nào độ tận chúng
sanh mới trọn câu phổ độ.
Trong Thánh Ngôn
Hiệp Tuyển Chí Tôn có nói rằng: “Các
con, người dưới thế nầy muốn giàu sang thì phải kiếm phương thế mà làm ăn ra
của. Còn Thần Thánh, Tiên Phật muốn đắc Đạo thì phải có công quả. Thầy đến thế
nầy, Thầy lập một trường công đức. Vậy các con muốn đoạt thủ địa vị mình thì
phải đến trường Thầy mà thi thố, chớ không đi nơi nào mà đắc Đạo bao giờ”.
Ấy vậy cơ quan Phước Thiện Phạm Môn
là trường thi công quả của Đức Chí Tôn đã đến lập sẳn nơi làng nào, ấp nào cũng
có 1 cơ sở Phước Thiện cho toàn Đạo hữu ở thôn quê đến đó để thi thố lập công
bồi đức hầu đoạt thủ phẩm vị Thiêng Liêng của Chí Tôn đã dành sẵn cho con cái
của Ngài.
Cơ quan Phước
Thiện Phạm Môn là danh từ chung của toàn nhơn loại chứ không phải riêng biệt
cho người nào. Ngày nay cái màn bí mật đã vén hết rồi, nhìn thấy rõ ràng chớ không
còn ẩn vị như trước nữa. Vậy Bần Đạo xin Chức Sắc Nam Nữ, chư Chức Việc lưởng
phái hãy mở quát cửa Thiêng Liêng ra cho cửu vị ức nguyên nhân lần bước vào
trường thi công quả của Đức Chí Tôn.
TÓM LẠI
Phạm Môn Phước Thiện là trường
học của linh hồn, là một cái thang Thiêng Liêng 12 nấc, Chí Tôn đem bắc sẳn
sàng trong thời kỳ Tam Kỳ Phổ Độ chuyển thế, kêu gọi tất cả con cái của Ngài
hãy ráng bước kẻ trước người sau mà lên cho tột nấc thang Thiêng Liêng; ấy là
ngày giờ chúng ta hội hiệp cùng Thầy và vui vẽ nhứt nơi cõi Hư Linh đó vậy.
13. PHƯỚC THIỆN CÓ BỊ
BẾ CHĂNG?
Đức Hộ Pháp giảng tại Hộ Pháp Đường hồi 7 giờ tối do Đại Nhơn Trịnh Phong
Cương thỉnh giáo ngày 6-9-1951.
Lời Thỉnh Giáo:
-Bạch Đức Thầy: “Mấy con theo
Thầy học Đạo do Thầy chọn lựa vào môn đệ. Thầy đã mở cửa Phạm Môn là lập công
học Đạo, chỉ mong được hưởng phẩm vị Thiêng Liêng thuộc về bóng chớ không thiệt
hiện ra mặt xã hội. Từ năm 1928 Phạm Môn đã công khai với chính phủ cùng khắp
trong nước, Đạo đời đều hiểu và đã có sự công nhận của quyền Vạn Linh và liệt
vào Đạo luật năm Mậu Dần (1938).
Khi Thầy ở Hải Ngoại về qui phục Đạo
chấn chỉnh lại, Thầy lập cho cơ quan Phước Thiện có 4 viện tùng lịnh Thời Quân
là Ngài Hiến Đạo Phạm Văn Tươi, hành sự được ít tháng, kế Thầy định cho anh Chí
Thiện Thế làm Chưởng Quản, thì Thầy dạy lập đủ Cữu Viện.
Đến năm Tân Mão nầy, Thầy cho biết
cữu viện là Hội Thánh Phước Thiện thì có phần tử trong Đạo lấy làm lạ, vì sao
có Hội Thánh Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài, nay lại có Hội Thánh Phước
Thiện.
Mấy con có nghe rõ Chức Sắc Cửu
Trùng Đài có 1 vài người tổ chức Hội Nhơn Sanh tới đây sẽ đem danh dự từ Hội
Thánh và Khâm Châu, Đầu Tộc Phước Thiện ra trình bày để chỉ trích vì Phước
Thiện không có trong Pháp Chánh Truyền, chỉ có Hội Thánh Cửu Trùng Đài mà thôi
và nói rằng Phạm Môn Phước Thiện là của Thầy đặt riêng. Mấy con rất lo ngại.
Ngày giờ Thầy cầm quyền thống nhứt
thì không ai dám bác bỏ, dầu cho Hội Nhơn Sanh cũng không qua quyền thống nhứt
của Thầy đặng. Sợ 1 ngày kia Thầy có về Thiêng Liêng rồi, Nhơn Sanh cùng các cơ
quan khác chiếu trong luật không có trong Pháp Chánh Truyền rồi giải tán cả cơ
quan Phước Thiện. Riêng về Phạm Môn, dầu danh từ ấy còn hay mất, mấy con không
lo ngại vì mấy con đã theo Thầy từ lâu ở trong bóng tối, tức là làm việc khi ẩn
khi hiện.Dầu ai để hay bỏ cũng vô hại, là mấy con chỉ có một số ít, dầu sao
cũng có Thầy.
Các con cũng xin Thầy dạy lẽ nào, và
cầu xin Thầy ban Thánh lịnh đặng ngày kia khỏi bị hủy bỏ hay giải tán.
Đức Hộ Pháp Trả Lời:
Phước
Thiện không có trong Pháp Chánh Truyền, họ trích điểm là phải . Mà chính Thầy
cũng nhìn nhận là không khi nào Phước Thiện có trong Pháp Chánh Truyền, dầu
rằng mấy em cầu xin, xin xỏ đem danh từ Phước Thiện vào Pháp Chánh Truyền lại
còn sai hơn nữa. Thầy vẫn lấy quyền Chí Tôn tại thế, không bao giờ làm trái
ngược vậy được.
Bởi
khi lập Pháp Chánh Truyền, Thầy có hội cùng Đức Lý Giáo Tông được trọn quyền
thay thế Đức Chí Tôn. Hễ cái gì Hộ Pháp và Giáo Tông hiệp lại lập ra trong cửa
Đạo tức là lời dạy bảo của Đức Chí Tôn.Không có việc gì từ nhỏ chí lớn mà không
có mạng lịnh Chí Tôn trong đó.
Về
quyền hành và trách nhiệm trọng đại, nên Đức Lý Giáo Tông nôn nóng lập thành
Pháp Chánh Truyền chú giải cho kịp Thiên Thơ của Đức Chí Tôn đã định. Nếu lập
Pháp trễ thì Đạo phải loạn thì còn gì cho công trình các Đấng Thiêng Liêng dày
công dìu dẫn từ ban sơ. Ấy vậy Pháp Chánh Truyền chú giải ấy là phân quyền cho
Chức Sắc Cữu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài cho khỏi bị giành quyền nhau mà thôi,
và đồng thời trao trọn quyền ấy cho Hộ Pháp có đủ phương kềm chế nền Đạo của
Đức Chí Tôn.
Pháp
Chánh Truyền ở trong cuốn Thiên thơ mà ra, còn chú giải là phân quyền hành,
Quyển ThiênThơ Đức Chí Tôn đã để tại thế gian nầy. Ngài giao cho con cái của
Ngài gìn giữ mà làm của báu không gì bằng: Tức là “Thánh Ngôn Hiệp Tuyển”.
Trong
quyển Thiên Thơ nầy, ngày kia có sản xuất nhiều cơ quan khác trọng yếu nữa chớ
không phải một cơ quan Phước Thiện mà thôi.
Mấy
con cứ mạnh dạn trả lời: “Pháp Chánh Truyền Hộ Pháp và Giáo Tông lấy trong
Thánh Ngôn mà ra thì Phước Thiện Phạm Môn nó cũng ở trong Thánh Ngôn của Đức
Chí Tôn dạy lập ra chớ không có chi gọi là lạ”.
Nếu
không phải sứ mạng, nghĩa là người nào không phải là mạng lịnh của Trời thì
không khi nào Trời trao cả Bí Pháp cho tay phàm mà cầm đặng xử dụng.
Buổi
nọ Đức Lý Giáo Tông dạy lập Pháp trước rồi sau Ngài giáng cơ chấn chỉnh đặng
lập cho đủ các cơ sở hữu vi, mới có đủ phương giúp Hội Thánh làm hình thể của
Đức Chí Tôn mới xứng phận cho Ngài. Đức Chí Tôn đã dạy hồi mới khai Đạo:
“Thầy đã chán biết thế gian nầy là
phàm mà Thầy đến Thầy lấy cái phàm hiệp lại thành Thánh, làm sao tránh đặng cái
phàm không lẫn lộn trong cái Thánh. Mà hễ Thầy lập nên Thánh thể, nếu còn vướng
chút phàm thì đã ra phàm, không còn Thánh thể. Các con nên hiểu phẩm vị cao
trọng ấy mà trau lòng cho Thánh thể mới đáng giá. Thầy đã khuyên với các con,
từ mỗi đứa cứ giữ phận sự mình làm cho trọn phận; còn ngoài ra chi chi cũng mặc
Thầy, các con đừng sợ mất mà ngần ngại, bước đường Đạo là quí báu. Thầy đã nói
muôn việc chi để Thầy lo, các con lo không đặng đâu?”
Hộ Pháp nói: Thầy cho các con biết cái chủ nghĩa
Phước Thiện của Đạo Cao Đài lập ra đây nếu nó ra sớm thì đã bị diệt trong
trứng, vì nó là chướng ngại của thế gian. Bởi vì đời cứ bôn xu trên đường duy
vật, danh vị, quyền lợi càng tranh đấu mãi. Còn Đạo dục tiến tinh thần, đem bác
ái công bằng trãi trên mặt thế, cộng hòa nhơn loại, làm cho xã hội bình đẳng,
nâng đỡ kẻ nghèo đến tột bực, không giàu mà sang, tuy nghèo mà tự toại. Chủ
nghĩa ấy nó đương đầu với các sắc dân vương vị, đế quyền, bảo sao nó không phản
trắc, cũng vì quyền với lợi. Đừng nói chi người đời trong Đạo mà còn làm tánh
đức đó, Qua nói là bậc Chức Sắc lớn , không phải hàng Đạo Hữu mà thôi.
Cơ
cứu khổ, Đức Chí Tôn dạy lập hồi mới khai Đạo, cũng vì cái khó khăn mà duy trì
đến ngày rằm tháng 8 Quí Dậu 1933. Qua mới thuyết trình trong bài diễn văn đã
giãi rõ: Bắt đầu từ Phước Thiện mới nảy nở đến tháng giêng năm Ất Hợi (1935)
mới được bành trướng, thì Đức Lý Giáo Tông cho phẩm Phước Thiện mượn áo mảo của
Lễ Sanh 3 năm để bổ đi các tỉnh, lo mở Phước Thiện. Ngài dạy đợi đến ngày Hội
Thánh lập Quyền Vạn Linh sẽ đưa ra Hội quyết định.
Thì hiển nhiên chũ nghĩa Phước Thiện
đã ấn định trong Đạo luật năm Mậu Dần (1938) Quyền Vạn Linh đã công nhận nó đã
thành luật, còn có quyền nào mà sửa đổi hay giải tán.
Bởi
lẻ ấy mà Đức Lý Giáo Tông lập Đạo nghị định số 48/ĐNĐ năm 1938, phân minh trật
tự Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng Vị.
Qua
nhắc lại, khi anh cả chúng ta là Đức Quyền Giáo Tông khởi xướng tại cơ sở Lương
Điền công nghệ buổi nọ, mà chánh quyền Pháp còn kiếm cớ bắt tội, đến đổi ngồi
ngục 2 ngày. Còn Qua cũng bị tờ phúc sự trình trình bày với đế quốc Pháp buổi
nọ năm 1937, vì nguyên do chánh quyền Pháp nghi kỵ.
Nền
Đạo của Đức Chí Tôn có 2 cơ quan trọng yếu: Nhứt là Cửu Trùng Đài, cơ quan
Hành Pháp bảo tồn văn hiến tương lai, còn Phước Thiện là cơ quan bảo tồn Nhơn
Loại, an ủi vỗ về, nuôi sống thi hài, có chi hay bằng.
Lại
nữa Chí Tôn đã giao cho Thánh Thể của Ngài chủ quyền, dưới thì có Vạn Linh gìn
giữ. Chủ quyền đã có sẵn nơi tay mà không thực hiện, hay là vô tình mà bỏ mất
đi, là tại nguyên nhân quả kiếp của giòng dõi VN hay là toàn thể nhơn loại chưa
hưởng sớm được.
Bàn
Trị Sự là cấp bậc nhỏ nhứt ở chốn thôn quê, được thay quyền.
Hội
Thánh Em
Chánh Trị
Sự: Đầu Sư Em
Phó Trị
Sự: Giáo Tông Em
Thông
Sự: Hộ Pháp Em
Huống
chi chủ nghĩa Phước Thiện là cơ quan trọng yếu của Đạo, của Giáo Tông, của Hộ
Pháp mà không có danh từ Hội Thánh?
Trong Đạo Nghị Định 48/ĐNĐ của Giáo Tông đã phân định rõ ràng, và bài diễn văn
hồi năm 1933 đã giải rõ từ bực Chơn Nhơn trở xuống là giúp Hội Thánh Cửu Trùng
Đài. Còn từ Hiền Nhơn đổ lên là cùng Hiệp Thiên Đài lo bảo thủ “Bí Pháp Tâm
Truyền” tức là giúp Hội Thánh Hiệp Thiên Đài.
Hội Thánh Cửu Trùng Đài là của Gíao
Tông.
Hội Thánh Phước Thiện là của Hộ Pháp.
Dầu thể xác của Qua là con kỵ vật
của Hộ Pháp có thay đổi thế nào, Hộ Pháp vẫn là Hộ Pháp.
Ngày
kia chủ quyền Đạo hữu hình nầy là Gíao Tông làm chủ, không lẻ Ngài vô tình
chiếc bớt cánh tay, tức là giải tán Phước Thiện. Không có điều nào mà Chí Tôn
lập ra trong nền Đại Đạo mà không hữu ích. Nếu có Chơn Linh nào không may duyên
mới tìm phá hoại sự nghiệp của Chí Tôn, tức nhiên là họ chịu quả kiếp.
Đạo còn thì Hiệp Thiên Đài còn, mà Hiệp Thiên Đài còn thì cơ
quan trong cửa Đạo vẫn còn; tức nhiên nhơn sanh còn thì quyền Vạn Linh không
bao giờ tuyệt.
Bởi
vậy, đại nghiệp Thiêng Liêng Chí Tôn để tại mặt thế nầy, tức là quyền Đại Đạo
giao cho quyền Vạn Linh nắm giữ. Còn Thánh thể Đức Chí Tôn là chủ quyền nó sẽ
bảo thủ trường tồn mãi mãi.
Hộ Pháp Đường ngày 6-8 Tân Mão.
(6-9-1951)
Truyền Trạng Phạm Ngọc Trấn soạn
14. PHƯỚC THIỆN TỪ 1975
ĐẾN 1985
Ông
Chưởng Quản Phước Thiện Nguyễn Văn Phú vì tuổi già sức yếu, nay đau mai ốm, kế
từ trần nên Ngài Hồ Bảo Đạo Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài bổ Sĩ Tải Bùi Văn
Tiếp qua lảnh trách nhiệm “Đặc Trách Tư Vấn Phước Thiện”.
Đoạn
Ngài tổ chức cuộc trưng cầu chọn:
1 vị Chưởng Quản Nam
1 vị Chưởng Quản Nữ
2 vị Phó Chưởng Quản Nam
2 vị Phó Chưởng Qủan Nữ.
Sau
cuộc bỏ thăm ông Chơn nhơn Trần Minh Viên đắc cử Chưởng Quản Nam phái. Ông Chơn
Nhơn Đặng Văn Chưởng Đệ Nhất Phó Chưởng Quản, ông Chơn Nhơn Trần Văn Lợi Đệ Nhị
Phó Chưởng Quản.
Phái
Nữ bà Chơn Nhơn Lưu Thị Sen Chưởng Quản, bà Chơn Nhơn Tạ Thị Thế Đệ Nhứt Phó
Chưởng Quản, bà Chơn Nhơn Nguyễn Thị Khéo Đệ Nhị Phó Chưởng Quản.
Lương
Viện thống nhứt với Hành Chánh, kế các Viện khác cũng gia nhập vào một mối.
Các
vụ Đinh Văn Kiếp, Phạm Ngọc Trảng, Tám Ngoài xảy ra tới tấp đi lần đến quyết
định số 124/QĐ ngày 4-6-1980 ra đời.
Nơi
điều 2 nói rõ: Giải tán, thu hồi quản lý và kể từ
nay nghiêm cấm hoạt động bất cứ với hình thức nào, các cơ sở tổ chức Chánh Trị
Đạo và từ Trung Ương đến địa phương bao gồm: Hiệp Thiên Đài, Phước Thiện, Cữu
Trùng Đài, Phổ Tế. Thế
là Phước Thiện bế tắc từ ngày 4-6-1980
Muốn
cứu vãn phần nào tình thế, Ngài Hồ Bảo Đạo liên tiếp ra nhiều công văn khuyên
Chức Sắc cùng Đạo sở hãy đổi hướng cơ lập công quả bằng cơ lập đức.
Ngài không nhứt
định kêu cơ quan ấy bằng danh từ gì mà chỉ khuyên Chức Sắc, Chức Việc, Đạo Hữu
ai có thiện chí tiếp tục tạo âm chất bằng cách: ai đau thì thuốc, ai đói thì
gạo, ai rách thì vải, ai chết thì hòm. Ai gặp hoạn nạn như nhà rách thì xúm
lợp, ai khổ tâm thì an ủi bằng vật chất lẫn tinh thần. Những việc ấy dầu nhà
nước có khó khăn thế nào cũng không cấm đoán. Nhứt là Ngài khuyên Thanh Niên
nên gia nhập vào Chữ Thập Đỏ để phục vụ Đạo đời, không cần danh vị, chí tâm
giúp đỡ kẻ cô thế thì công nghiệp Thiêng Liêng không mất.
Những
công văn dưới đây đã định rõ lập trường cùng hướng đi của Ngài.
Văn
phòng
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
Chưởng Quản
H.T.Đ
Ngũ Thập Nhị Niên
Số:045/40/Q. CQHTĐ
Tòa Thánh Tây Ninh
Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài
Kính gởi chư vị Hiền Huynh, Thượng Đầu Sư, Ngọc Đầu Sư Cữu Trùng Đài.
Trích yếu: v/v PHƯƠNG PHÁP HÀNH ĐẠO
Kính nhị vị Hiền Huynh,
Chiếu
theo Đạo luật năm Mậu Dần (1938) chương I điều 2, xin nhị vị Hiền Huynh nhắc
nhở Chức Sắc địa phương và nhứt là ở châu thành Thánh Địa là nơi trung tâm của
Đạo phải thiệt hành chu đáo các khoản qui định nơi điều 2 nầy, đại lược như
sau.
1.-
Thấy người lâm cơn hoạn nạn nguy nan phải tận tâm điều độ, lo lắng châu toàn,
cũng như anh em ruột lo cho nhau vậy.
2.-
Thấy kẻ đói khát tật nguyền phải tìm phương trợ giúp.
3.-
Khuyến khích nhắc nhở chư Đạo Hữu trọng đường Đạo đức, kết chặc giãi đồng tâm,
tương thân hòa ái cùng nhau đặng phấn tâm lo Đạo, chẳng để sót một ai phải bất
bình vì việc chi mà phải khổ tâm thối bước.
4-
.Muốn cho toàn Đạo kết chặc giãi đồng tâm, tương thân hòa ái thì cần gần gũi nhau
cho thường đẩ kết chặc tình thân mật hầu chia vui sớt thảm cho nhau mà gây khối
yêu thương chơn thật.
Ngoài
ra cũng cần thiệt lành những lối dạy của Phối Thánh Màng mà tôi có nhắc lại
trong bức tâm thư số 42/34/QCQHTĐ ngày 4-2 Đinh Tỵ (23-3-1977) của tôi gởi cho
Trưởng Tộc Phạm Môn, có kính tường đến vị Hiền Huynh .
Cơ
Đạo hôm nay chuyển mình qua giai đoạn mới, vì thời kỳ lập công hôm
nay có thể gọi là đủ dùng rồi và cơ chuyển thế thúc giục chúng ta phải mạnh dạn
và cương quyết bước qua thời kỳ lập
đức. Vì vậy từ Chức Sắc cho đến Đạo Hữu
cần phải hiểu rằng: muốn có Đạo cần phải vị tha, đừng vị kỷ, vị chánh danh,
chẳng vị hư danh, vị ái, vị công, chẳng vị lợi.
Muốn
lập đức thì phải nhờ Tánh, vì Tánh là Dụng, Đức mới là Thể và Tâm mới là Chơn.
Vì vậy muốn lập Đức thì trước hết phải sửa Tánh mới giữ được Đức.
Bắt
đầu từ Chức Sắc và luôn cả chư Đạo Hữu phải lả người có đức thì cơ Đạo mới tiến
lên lập đời Thánh Đức mới đặng chớ nếu chúng ta mãi giữ tánh ích kỹ, tham lam
không trọn quên mình để làm nên cho người như lời Thiêng Liêng đã dạy từ
trên 50 năm qua thì làm sao lập đời Thánh Đức cho đặng.
Vậy
tôi yêu cầu Hội Thánh Hành Chánh cũng như Phước Thiện từ nay nên hướng dẫn bổn
Đạo đi lên đường Lập Đức bằng cách tính công nghiệp cho họ bằng những điều âm chất,
nhơn nghĩa đã thực thi cho người khác, được Bàn Trị Sự chứng thật là ưu tiên
hơn việc đóng công quả bằng tiền. Và nên nhớ rằng Của chỉ tính 1 đồng còn Công
phải kề là 1 Lượng.
Tôi
rất mong sao Hội Thánh sớm chuyển hướng hành Đạo về lối tập cho nhau được tánh
tốt, làm âm chất và nhơn nghĩa cho nhiều, sớm hoàn thành thời kỳ Lập Đức để kịp
thời bước qua thời kỳ Lập Ngôn, hằng ra Đại Hội Long Hoa định quyền Chánh Ngôn.
Kính tường Hiền Hữu, Chơn Nhơn,
Chưởng Quản Phước Thiện, Hiền Muội, Chơn Nhơn Phước Thiện Nữ Phái. Xin luôn nhớ
rằng Phước Thiện là biến thể của Phạm Môn, vậy nhị vị phải cố gắng đào tạo thế
nào cho chư tín hữu Phước Thiện phải cho ra thiệt tướng, là người biết làm nhơn
nghĩa, Đạo đức, tức là làm phước đó vậy.
Nay Kính
Tòa Thánh ngày 14-2 Đinh Tỵ
(2-4-1977)
Hồ Tấn Khoa. (Ấn Ký)
Văn
phòng
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
Chưởng Quản H.T.Đ Ngũ
Thập Nhị Niên
Số:068/CQ. HTĐ
Tòa Thánh Tây Ninh
Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài
Kính gởi: Hiền Hữu Chơn Nhơn Quyền Chưởng Quản Phước Thiện Nam Phái.
Hiền Muội Chơn Nhơn Chưởng Qủan Phước Thiện Nữ Phái.
Trích yếu: Chức Sắc xin qua nông nghiệp tự túc.
Kính Hiền Hữu, Hiền Muội.
Tôi
nhận thấy Chức Sắc Nam cũng như Nữ xin qua nông nghiệp tự túc, phần lớn về nhà
lo sống tư riêng, ích kỷ cho phần gia đình, riết rồi không còn nhớ Đạo là gì.
Để bảo tồn phẩm vị của họ, Quí Vị
cần dạy dỗ họ và khuyến khích họ giữ tròn bổn phận của nhà tu là:
1.Ăn chay.
2.Đi Cúng.
3.Trau giồi đức hạnh, lo làm âm chất
nhơn nghĩa, Đạo đức và từ thiện.
Mỗi vị cần có “Sổ Hành Đạo” mỗi
tháng phải có Ban Cai Quản hay Châu Tộc chứng thực:
- 1-Ăn chay đặng mấy ngày?
- 2-Đi cúng đặng mấy thời?
- 3-Mỗi ngày cố gắng làm đặng 1 việc
nghĩa hay từ thiện, dầu lớn hay nhỏ cũng đặng và tối thiểu 2 ngày phải làm đặng
1 việc nghĩa hay từ thiện, phải ghi rõ làm việc gì lúc nào và cho ai ?
Phương
pháp nầy là phương tiện tối cần để tự trau giồi Đạo đức của mình, nâng cao chất
Thánh và kềm chế chất phàm để trở nên người Thánh Đức cùng nhau xây dựng đời
Thánh Đức.
Nên
nhớ đây không phải là sự bắt buộc hay áp bức xâm phạm đến quyền tự do tín
ngưỡng cá nhân, mà chỉ là những lời nhắc nhỡ những vị đã tự giác, tự nguyện, tự
hiến thân vào cửa Đạo đặng bảo tồn ngôi vị của họ.
Tùy
ý mỗi người ai tự nguyện làm theo thì trong Hội Thánh sẽ nhìn công nghiệp hành
Đạo của họ, còn ai không muốn thì không bắt buộc, nhưng kể như tự mình hồi tục, không còn là Chức Sắc nữa và chỉ làm
một Đạo Hữu thường mà thôi.
Kính tường Hiền huynh Ngọc Đầu Sư CTĐ Hiền hữu Q. Chưởng Quản Phước
Thiện Nam Phái. |
Nay kính. Tòa
Thánh ngày 11-6-Mậu Ngọ. (5-7-1978) Bảo
Đạo Hồ Tấn Khoa (Ấn ký) |
Còn nhiều Đạo Lịnh công văn khác vẫn nhắc nhở toàn Đạo ăn chay, cúng kiến, lập
đức, quên mình mà làm nên cho thiên hạ…
Nhưng
lần lần vẫn xảy ra vụ Thiên Khai Huỳnh Đạo, Hội Thánh Tân Triều, Mật Trận Thống
Nhất Toàn Lực Quốc Gia, Uỷ Ban Hòa Giải Quốc Tế…Chánh quyền XHCN đổ trút vào
trách nhiệm của vị lảnh Đạo Gíao Phái Cao Đài TN tức ông Hồ Tấn Khoa. Họ buộc
Ngài Đầu Sư và Ngài Hồ Bảo Đạo từ nhiệm Hội Đồng Chưởng Quản và đề cử ông Q. Thái
Chánh Phối Sư Thái Hiểu Thanh thay thế. Lần lược họ đổi luôn danh từ Hội Đồng
Chưởng Quản thành Hội Đồng Quản Lý Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh.
Từ từ nền Đạo chỉ có hư danh và cũng
không có thực lực chi hết. Còn có mặt đó để có tiếng là còn tự do tín ngưỡng,
chớ Hội Đồng Quản Lý không có quyền hành chi cả, chỉ để thực hành chỉ thị của
nhà nước mà thôi.
Ông
Bảo Đạo còn bị 1 sự khảo đảo nặng nề nữa là có tham dự vào vụ chấn động quốc tế
do Phạm Quốc Túy lảnh Đạo. Họ ghép con lớn ông Khoa là Hồ Thái Bạch vào tội
phản quốc và bị tử hình ngày 8-1-1985 (18-12 Giáp Tý)
Cơ
Đạo nói chung, Phước Thiện nói riêng đang trên trường thi thọ khổ, ai chịu đựng
được sẽ đậu, ai thối bước sẽ rớt tức mất phẩm vị Thiêng Liêng.
Ngồi
vào trường thi cử tử ai cũng hy vọng qua đặng cửa võ môn, chúng ta chưa biết
Giám Khảo còn ra bài nào khó nữa chăng hay chỉ bấy nhiêu đó là đủ.
Chừng
nào tuyên bố kết quả, điểm danh sách người trúng tuyển thì thí sinh mới hớn hở
reo mừng, chớ thâm tâm ai cũng hồi hộp lo lắng trong lúc cuộc thi chưa kết
thúc.
Năm Bính Dần đã đến, châu kỳ 61 năm
trở lại, mọi người đều hy vọng nền đại Đạo sẽ gội hồng ân của Đại Từ Phụ. Tất
cả những đám mưa đều có hồi tạnh, tuồng hát nào cũng phải đến lúc vãng, chiến
tranh nào cũng có thuở chấm dứt. Hơn nữa quyền lực Thiêng Liêng không lẻ nhượng
bộ thế lực phàm trần. Đức Chúa Jesus chịu đóng đinh trên Thập Tự Giá gần 2000
năm được thờ kính nơi những ngôi đền sang trọng nhứt trên thế giới.
Chúng ta không trọng thể xác thì cuộc khảo xác vẫn tầm thường, miễn tâm luôn
hiếu nghĩa với Đức Chí Tôn, Phật Mẫu được bền vững thì danh vị Thiêng Liêng
không hề thiệt phận.
15. LIỄNG ĐỐI VÀ THI
THƠ LIÊN QUAN ĐẾN PHƯỚC THIỆN
1.Trước cửa ngỏ Hộ Pháp Đường cũng
như cửa ngỏ của Hội Thánh Phước Thiện Nữ Phái chúng ta thấy đôi liễng như vầy:
PHẠM giáo tùy Ngươn, cứu thế độ nhơn
hành chánh pháp.
MÔN quyền định tội, trừ tà diệt
mị hộ chơn truyền.
2.Trước cửa ngỏ Văn Phòng Cữu Viện
Phước Thiện nội ô Tòa Thánh có đôi liễng:
PHƯỚC đức Thiên Ban, vạn vật chúng
sanh qui khổ liếp
THIỆN duyên địa trữ, thập phương chư
Phật hội nguyên nhân.
3.Trước cửa ngỏ Phạm Nghiệp trên
quốc lộ Tây Ninh Giang Tân có đôi liễn:
Phạm Nghiệp thừa nhàn, lợi lộc công
danh vô sở dụng.
Môn quang tích Đạo, tinh thần pháp
bữu hữu cơ cầu.
4.Cách Tòa Thánh lối 5 cây số có
Trường Qui Thiện, trước ngỏ có đôi liễng:
- QUI
lương sanh, hành chánh giáo, thủ bí pháp, chấp truy hoán nhứt.
THIỆN cấp cô, năng dưỡng lão, bảo
chơn truyền, Đại Đạo Kỳ Tam.
- TRÍ
linh quán thế Thiên cơ đạt,
GIÁC huệ siêu phàm Đạo pháp thông.
c. Chợ Tân Dân Qui Thiện
có đôi liểng.
TÂN thế khai nguơn, hội cửu nhị ức nguyên nhân qui thiện cổ.
DÂN thiên giáo Đạo ,chuyển bát hồn, hòa vũ trụ, hiệp càn khôn.
5.Từ Qui Thiện đi vài cây số tòa Trí
Huệ Cung đẹp đẽ hiện lên, trước ngỏ có đôi liễng:
a. TRÍ định thiên lương qui nhứt bổn
HUỆ thông Đạo pháp độ quần sanh.
b. VÃNG CẢNH TRÍ HUỆ CUNG
Hứng
cảnh phong quan khởi sắc,
Ngát
trời kiển vật đưa hương.
Kìa
sau lưng dãy phố chợ Thiên Vương,
Nọ
trước mắt tòa lầu Cung Trí Huệ.
Nhìn
Đoạn Trần Kiều, dòng suối uống mình bao thế hệ,
Trông
An Nhàn Lộ, vườn cây lả ngọn, mấy tinh sương.
Gió
nhẹ lân chào đón khách thập phương,
Nắng
chói rỡ khơi tràn Ao Thất Bữu.
Động
Thiên Hỉ một vùng thế gian danh hy hữu,
Lộ
Pháp Luân ba mặt Đạo pháp lý siêu nhiên.
Kỳ
hoa hớn hỡ bốn cửa dựng màu thiền,
Dị
thảo diễm đà ngàn trùng chen cội đức.
Vào
kỉnh lễ, trước một ghế chạm ngôi hình sen Tây Vức,
Ngửa
thành tâm, bên mấy nghi thờ roi dấu Phật Nam Bang.
Nhớ
Tôn Sư từ ngày sống lại cỏi Niếc Bàn
Giúp
đệ tử vững chí chung xây nền Đại Đạo.
Cơ
nghiệp đó chính tay Người đào tạo,
Hạnh
phúc nầy đỡ bước kẻ tu hành.
Tầng
địa lầu, dưới đã thấy đành rành,
Tiếng
Thần Hạc ngoài kia như nghe văng vẳng.
Dạo
gót hiên ham ngòi sương tay vẩy thẳng,
Lóng
chuông cửa tịnh hồn bướm giấc mơ nhanh
Nhác
trông ra quan cảnh Đạo yên lành,
Hồi
tưởng lại sơ đồ Thầy vững chắc.
Ngang
dọc hình phi trường tái thiết, khách trông vui tầm mắt.
Trước
sau chòm cổ thụ, vẽ tiêu dao chim hót đẹp nguồn thơ.
Viện
Bảo Cô kế đó mới khai cơ,
Ban
Kỳ Lảo bên nầy chưa thượng bảng.
Đẹp
đẹ trời trưa vui cảnh rạng,
Êm
đềm gió mát tận lầu cao.
Vòng
vô vi treo cửa trước, ba cái vẫn ba màu,
Vật
kỷ niệm để phía sau, hai xe cùng hai loại.
Dãy
nhà khách kế rào lầu rộng rãi,
ẤpTrường
Xuân đưa mắt, cảnh khang trang.
Cửa
hậu Trí Huệ Cung ngay phía Lộ Thiên Cang
Mặt
tiền Ban Kỳ Lão đẹp thay đường Thanh Tịnh.
Giải
oan Kiều nằm hút đường nầy,
suối
gợi khách trì trai thiền định.
Văn
Hiếu Lộ mở ngang rẫy đó, người vui câu kích nhưỡng nhi ca.
Kìa
ấp Cây Chò Ngũ Luân Lộ xuyên qua,
Nọ
cửa trường học Tam Cang lộ chạy xuống.
Sở cao su mắt nhìn có uống,
Nhà phái nữ ngói lợp xây tường.
Lộ Cổ Phong sổ thắng đến phi trường,
Cầu Giải Tục nối liền về Trí Gíac.
Ngấm cảnh đề thơ duyên bát ngát,
Cho
cành đọng ngọc sắc long lanh.
THI
Vùng
Thiên Hỉ Động đẹp như tranh,
Quang
cảnh nơi đây đượm sắc lành.
Bên
Đọan Trần Kiều, Ao Thất Bữu,
Trước
cung Trí Huệ, bóng Tam Thanh.
Vườn
hoa nhân ái thêm nhàn nhả,
Cánh
cửa từ bi mãi vận hành.
Trãi
mấy tan thương còn vững đó,
Làm
cơ hoằng pháp độ nhơn sanh.
04-7 Nhâm Tý (1972)
Huệ Phong
6. Báo Ân Từ hay Đền Thờ Phật Mẫu do
Phước Thiện đảm trách việc lễ bái, nhan đèn, quét tước, sơn phết. Có đôi liễng
Báo Ân Từ tại Trí Gíac Cung như sau:
a. BÁO bổ sơn hà, thế giới hồi tâm
qui thiện bổn,
ÂN bồi xã tắc,
nhơn quần ngộ Đạo thức linh căn.
b.Bên trong Báo Ân Từ Tòa Thánh có
đôi liễng:
BÁT phẩm chơn hồn, tạo thế
giái, hóa chúng sanh, vạn vật hữu hình tùng thử Đạo.
QUÁI hào bác ái định càn khôn, qui
đẳng pháp nhứt Thần vô tướng trị kỳ tâm.
7. Liễng treo tại Tịnh Am
a. VẠN lý hòa đồng nhứt mạch
PHÁP cao hình trí hội tam tông.
b. Liễng của Ngũ Linh Sơn Động:
LINH diệu cơ thiên, tế chúng truyền
chơn
SƠN trường quang điển, phổ nhân pháp
ly hiệp kỳ tam.
Chúng tôi dùng đề tựa CÁI GỐC CỦA
PHƯỚC THIỆN là có ý nói
nó khởi thủy từ đâu, cũng như con sông bắt nguồn từ núi nào; còn cái ngọn của
nó đến thất ức niên thì trên đường tiến bộ nó sanh biết bao tả ngạn cùng hữu
ngạn ao hồ, kinh rạch.
Thời kỳ 50 năm, từ năm Kỹ Tỵ (1928) sở lương điền đầu
tiên là Phạm Nghiệp, kế Khách Đình, Giang Tân, Dưỡng Lão, Công Nghệ … có thể
gọi là thời kỳ lập công.
Danh từ Phước Thiện có thể chia làm 4 giai đoạn:
a) Giai đọan
đầu gọi PHẠM MÔN
b) Giai đọan kế
gọi SỞ PHƯỚC THIỆN bổ Đạo Hữu đi 20 tỉnh Nam Kỳ để rãi chữ nghĩa cơ bảo tồn, mở
trường công quả cho nhơn sanh lập công hầu lần vào cửa Phật.
c) Giai đọan
thứ 3 là lập HỘI THÁNH PHƯỚC THIỆN, có đủ Cửu Viện như bên Hành Chánh.
Thời
kỳ 10 năm chót (1975 đến 1985) có thể nói là Thời Kỳ Lập Đức.
d) Giai đọan
thứ tư là lập CƠ CỨU KHỔ, chúng sanh không có Nhà Sở, không còn Hội Thánh,
Phước Thiện, không quản lý được đất đai, không còn mang nhiệm vụ Khâm Châu
Phước Thiện, Đầu Tộc Phước Thiện, chỉ còn phẩm tước để cúng Thầy mà thôi. Mỗi
người chỉ tự làm chủ bản thân: ăn chay trường, đi cúng thường và làm việc từ
thiện.
Mục đích cũng giải cứu cho nhơn sanh
kém phần may mắn (đau thì thuốc, rách thì vải, thác thì hòm, cầu siêu, tụng cửu
…).
Đức Hộ Pháp lập bao nhiêu Thể Pháp,
tuy nó không tiêu tan hoàn toàn, nhưng nó bị cấm họat động, thật đúng với lời
Đức Chí Tôn đã tiên tri. Hiện nay chúng ta còn Bí Pháp, nhờ nó vô hình quyền
đời không thấy đặng nên chẳng biết đâu mà phá.
Đúng như lời ngài Bảo Đạo nói: Thời
kỳ lập công đã qua, thời kỳ lập đức đã đến để chúng ta tiến lên đời Thánh Đức.
Mỗi cá nhân phải Thánh Đức thì mới tạo đời Thánh Đức được.
Tiếc thay chúng ta có 3 triệu tín đồ
mà kiểm điểm lại có bao nhiêu trang được danh Thánh Đức. Nếu đa số còn phàm tâm
thì đời Thánh Đức đến với chúng ta rất muộn màng chậm trễ.
Vậy chúng ta phải tận nhân lực mới
tri thiên mạng, làm nhơn nghĩa, lập âm chất tự tu kỳ thân là phần chúng ta phải
tu chỉnh. Còn phần Thiêng Liêng chúng ta nên nhứt triêu nhứt tịch, kỉnh bài mộ
khan, cầu khẩn Đại Từ Phụ, Đại Từ Mẫu bổ hóa hồng ân cho nền Đại Đạo chóng hanh
thông để chúng ta làm tròn phận sự Qui Tam Giáo, Hiệp Ngũ Chi lập nền đại đồng
toàn thể nhơn loại.
Viết
xong tại Tòa Thánh ngày 30-1 Bính Dần (1986)
Quang
Minh
Xin nhắc lời Đức Hộ Pháp giảng Đạo ngày 5-6 Kỷ Sữu (1949):
“Đức Chí Tôn đến cậy nhơn sanh làm Thánh Thể của Ngài, Ngài phải bồi thường,
phải trả mắc cho người, người ta mới phụng sự cho Ngài. Trả bằng cách đến ký
hòa ước với loài người, nhứt là với dân tộc Việt Nam nầy trước đã. Nếu các
Người thay thế cho tôi phụng sự con cái tôi, tôi có phận sự lập vị Thần, Thánh,
Tiên, Phật cho các người chịu không? Nếu các người chịu làm tôi cho con cái của
tôi cho vừa sức tôi muốn, cho vừa sở ý tôi định, thì tôi sẽ trả mắc cho mấy
người. Mấy người đoạt được nơi thế nầy thế nào, nơi cỏi Hư Linh tôi cũng không
chối cải.”