ĐẠI ĐẠO
TAM KỲ PHỔ ĐỘ |
VI BẰNG
“Tóm lược cuộc họp 12/97”
Hội Thánh Em ĐĐTKPĐ mở phiên họp ngày 28-11-Tân Sửu (DL: 31-12-2021),
thảo luận về Bài Tiên Tri của Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ.
Họp qua gotomeeting.
I/- Thành phần dự họp.
Chủ tọa: CTS Lương Thị Nở (Phó Ban Chấp Hành)
Người điều hành: PTS Nguyễn Hồng
Phượng
Thư ký: Nguyễn Hồng Phượng
Thành viên dự họp:
CTS Nguyễn Hữu Khanh (Trưởng ban
kiểm soát luật)
CTS Trần Quốc Tiến (Phó ban kiểm
soát luật)
CTS Nguyễn Thành Phương, CTS Võ Văn
Lực, CTS Lê Văn Một, CTS Nguyễn Thị Thu Cúc, PTS Nguyễn Ngọc Bích, PTS Lương
Văn Dương, PTS Nguyễn Thị Kim Thùy, Thông Sự Nguyễn Thị Thu Hà
Đạo Hữu nam nữ: Dương Xuân Lương (John Tung) Nguyễn Thị Chợ (Út Cam), Võ Lệ
Dung (Mary Dung), Trương Văn Mai.
Đọc Kinh Nhập Hội (Kim Thùy).
II/- Tiến
hành họp:
1/- Về hình thức. Đây là bài Đường thi. Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có rất nhiều bài Đường thi do vậy nên nhắc lại cách tìm hiểu một bài Đường thi. Đường thi là thể thơ hoàn chỉnh vào đời nhà Đường (Trung Hoa). Đường thi có hai loại thất ngôn bát cú (bảy chữ tám câu) và thất ngôn tứ tuyệt (bảy chữ 4 câu).
Một bài thất
ngôn bát cú luôn luôn có 4 phần: đề, thực (hay trạng), luận và kết. Bố cục bài
Đường thi như là một bức tranh bằng chữ khi tả cảnh, tả tình, vịnh sử hay trình
bày một vấn đề…
Câu 1&2:
gọi là đề. Câu một là phá đề (hay mở bài) phát họa bối cảnh hay khung cảnh. Câu
hai là thừa đề, nối ý câu phá đề để xác định sự việc hay tình huống.
Câu 3&4:
gọi là thực hay trạng. Đây là phần giải thích hay làm rõ đầu bài. Nghĩa là chọn
điểm nhấn cho cảnh vật hay điểm uốn của hoàn cảnh, sự tình ra giải bày hay công
đức của nhân vật… (tự thân toát ra). Thực là thực chất, thực sự, trạng thái thật
sự, thực trạng.
Câu 5&6:
gọi là luận. Là bàn bạc việc của đầu bài như thế nào; cảnh dó xinh đẹp thế nào,
nếu là tình tự thì cung bậc cảm xúc, nhân vật lịch sử thì đáng khen hay đáng
chê trách hoặc so sánh với cảnh khác, người khác, việc khác theo đạo lý, luân
lý, lịch sử. Luận là bàn luận với một chủ thể khác một hoàn cảnh khác, một khúc
quanh khác. Nếu là một nhân vật cũng có thể là bàn luận về chính nhân vật đó
trong khúc quanh nhân vật đo thăng hoa hay sa ngã.
Câu 7&8:
gọi là kết. Tóm lại ý nghĩa cả bài, thể hiện sự cảm nhận về tác dụng và ý nghĩa
của nó với cá nhân hay xã hội trong hiện tại lẫn tương lai…
2/- Tìm hiểu
nội dung
2.1/- Phân tích
cụ thể câu 1&2:
Chừng nào Chi Pháp đã ra đi,
Là lúc ĐạoTrời gặp vận suy.
Chừng nào chi
Pháp đã ra đi, xét về mặt nhân sự là Chức sắc Chi pháp Hiệp
Thiên Đài không còn tại thế (bỏ xác phàm). Đó là Hộ Pháp (1890-1959),
Tiếp Pháp (1893-1965), Khai Pháp (1888-1954), Hiến Pháp (1890-1976), Bảo
Pháp (1892-1961) không còn mang xác phàm trở về thiêng liêng vị. Thời
Quân Hiến Pháp bỏ xác phàm năm 1976 là toàn bộ nhân sự chi pháp đã
ra đi. Theo Pháp Chánh Truyền Đức Hộ Pháp là Chưởng Quản Chi Pháp kiêm
Chưởng quản Hiệp Thiên Đài bảo hộ về luật đạo và đời, dưới có 4 vị
Thời Quân giúp hay mà toàn thể đã ra đi thì pháp luật không còn tay bảo
hộ. Đức Chí Tôn dạy rằng muốn phá đạo không chi hay hơn là phá tiêu
pháp luật đạo. Mà nhân sự lo về pháp luật đạo đã về thiêng liêng vị
thì pháp luật bị suy yếu.
Thế nào là
vận suy? Đến nay người đạo đã có đủ điều kiện để hiểu rằng đạo suy
do 2 nguyên nhân xã hội và nội bộ tôn giáo.
Về xã hội đó
là nhà cầm quyền có chính sách kiểm soát tôn giáo thể hiện quyền lực
của nhà nước đứng trên quyền của Thượng Đế nên không phù hợp với pháp
luật và triết lý tôn giáo. Do vậy mới có Bản án ngày 20-7-1978, có
Quyết Nghị ngày 13-12-1978, có Quyết định 124 ngày 4-6-1980.
Về nội bộ
tôn giáo Chức sắc thiên phong sa ngã theo quyền đời, phối hợp với nhà
nước tạo sự đứt gẫy pháp lý năm 1983 (lập ra Hội Đồng Quản Lý Hội
Thánh Cao Đài đến năm 1989 những vị nầy xin lập Hội Đồng Hội Trưởng
nhưng mạo danh Hội Đồng Chưởng Quản). Đến năm 1997 thì các vị nầy tách
hẳn ra thành lập chi phái 1997 với danh hiệu 10 chữ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ
Độ Cao Đài Tây Ninh. (Khác với danh hiệu 6 chữ Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.)
Cũng cần hiểu
đúng rằng đạo suy không phải là đạo loạn. Theo Pháp Chánh Truyền khi
Quyền Chí Tôn tại thế và Quyền Vạn Linh phản khăc nhau mới gọi là loạn
đạo. Khi ấy Giáo Tông, Hộ Pháp cũng mất quyền và giao cho Đầu Sư chỉnh
đốn. Nhiều vị phát ngôn rằng đây là thời đạo loạn là rất sai với Pháp
Chánh Truyền.
2.2/- Câu 3&4:
- Chức sắc chuộng quyền hơn chuộng Đạo,
Nhơn sanh lo cốt chẳng lo bì
Đức Chí Tôn
dạy Đạo là gì? Đạo tức là con đường để cho Thánh, Tiên, Phật đọa
trần do theo mà qui hồi cựu vị. Đạo là đường của các nhơn phẩm do
theo mà lánh khỏi luân hồi.
Theo Pháp Chánh
Truyền Đạo có thể pháp và bí pháp? Thể pháp là kinh sách, pháp luật,
bộ máy tổ chức tôn giáo, công trình kiến trúc…
Chức sắc
chuộng quyền hơn chuộng đạo là không theo kinh sách, luật lệ… của Hội
Thánh ban hành mà kêu gọi nghe theo ý riêng, theo nhận định riêng của
chức sắc. (Thí dụ như Chức sắc kêu gọi, vận động nhơn sanh đừng nhìn
nhận Đạo Lịnh 01/1979 là của Hội Thánh mà nên nghư lời Chức sắc)
Trong Đạo
Cao Đài có chức, quyền và lịnh. Chức là các phẩm bậc trong Pháp Chánh
Truyền với quyền hành qui định cho mỗi phẩm. Đó là nguyên tắc. Khi Chức
sắc ấy được bổ nhiệm đi hành đạo nơi địa phương nào thì có quyền
trong địa phương ấy (ra khỏi địa phương ấy mà hành chánh là phạm Pháp
Chánh Truyền). Khi Chức sắc hành quyền trong địa phương được giao ra lịnh
chi phải có con dấu đóng lên công văn, đó là lịnh để đàn em thi hành.
Khi một số
chức sắc không có mạng lịnh Hội Thánh Cao Đài lập ra Hội Đồng Quản
Lý Hội Thánh Cao Đài để làm cấp trên của Hội Thánh và ra lịnh cho
nhơn sanh đó là những người chuộng quyền hơn chuộng đạo. Đến năm 1997
một số vị lại đi xa hơn, ham quyền hơn đến nước lập ra chi phái 1997. Đó
là lập thành bàng môn tả đạo. Chi phái 1997 là do những người phản đạo,
phản Thầy, làm công cụ diệt Đạo Cao Đài của Đức Chí Tôn.
2.2.1/- Còn
những vị không theo chi phái 1997 thì sao?
Một số vị
thấy thế cuộc đã biến thiên quá mức nên im lặng lo tu tại gia để giữ
phẩm hạnh của Chức sắc thiên phong. Một số vị tiếp tục đi các địa
phương để hướng dẫn cho nhơn sanh biết thời thế, biết là chi phái đang
chiếm dụng danh hiệu đạo và chiếm đoạt Tòa Thánh Tây Ninh của Đạo
Cao Đài.
Lại có một
số vị rất cửa quyền, viện cớ là thời loạn để chống đối lại những
công văn, mệnh lệnh của Hội Thánh rồi kêu gọi nhơn sanh tin họ và làm
theo họ.
Điển hình là
những chức sắc vận động nhơn sanh chống Đạo Lịnh 01 (1979) của Hội Thánh.
Họ đã để cái gương rất xấu là vận động nhơn sanh chống lại Hội Thánh
mà nghe theo họ. Một số nữa đi hàng hai để giục loạn qua ngôn luận: Về
pháp lý Đạo Lịnh 01 là của Hội Thánh còn nội dung không phải của Hội
Thánh. Họ luôn luôn tạo sự chia rẽ để nhơn sanh mất phương hướng mà
nghe lời họ, tung hô họ. Mỗi lần họ tạo chia rẽ là lại có một số
người chạy theo, cho đến khi số người nầy bỏ đi họ tạo ra sự chia rẽ
khác để tạo số đàn em khác làm vây cánh. Đó là những chức sắc không
theo chi phái 1997 nhưng thể hiện đầy đủ yếu tố chuộng quyền hơn chuộng
đạo. Họ làm quan tòa
kết án Hội Thánh.
2.2.2/- Châu
tri 15 của Thượng Đầu Sư Thượng Trung Nhựt ban hành năm
1931 nhắc lại Chương Trình Hiến Pháp (1928) về cách dùng đại tự Đại-Đạo
Tam-Kỳ Phổ-Độ.
Ðiều thứ 22: -Nghiêm
cấm trong Ðạo không ai đặng lấy danh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ và dùng THIÊN ÂN,
THIÊN NHÃN mà đề vào bìa Kinh sách, Bố cáo, vân vân... hay là in Thánh Tượng,
Kinh sách (bán hoặc phát không) nếu Kinh sách và Thánh Tượng ấy không có trình
ban kiểm duyệt xem xét trước và đóng con dấu kiểm duyệt.
Ðiều thứ 24: -Kể
từ ngày ban hành "Chương Trình Hiến Pháp" duy có một mình Hội Thánh
"Cửu Trùng Ðài" được quyền in Kinh sách, Tượng để hiệu "Ðại Ðạo
Tam Kỳ Phổ Ðộ".
Khối Nhơn
Sanh áp dụng theo lịnh Hội Thánh không dùng đại tự Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ trên văn bản
thì thì
họ kết án rằng lập ra chi phái Nam Mô. Họ không ra công văn nhưng nói
miệng để tạo mâu thuẫn và gây chia rẽ trong nội bộ KNS. Thuộc hạ của
chi phái 1997 tận dụng điểm nầy của các chức sắc không theo chi phái
1997, gọi KNS là chi phái Nam Mô.
2.2.3/- Mâu
thuẫn với Pháp Chánh Truyền để chống đàn em.
Pháp Chánh
Truyền dạy … Còn một mặt Tín đồ Hội Thánh cũng giữ quyền Hội Thánh…
trên công văn hay khi thảo luận với đàn em các vị vẫn nhắc đi nhắc lại;
đàn em rất cảm phục và cảm ơn.
Nhưng đến khi chuộng quyền thì ra Đạo Tâm
Thư 20, làm ngược với Pháp Chánh Truyền để đã phá Khối Nhơn Sanh: Một
vài Chức sắc Hiệp Thiên và Cửu Trùng chủ trương mở Đại Hội Môn Đệ Đức
Chí Tôn để phục quyền Hội Thánh. Vận động Khối Nhơn Sanh nghe lời làm
điều trái ngược với Pháp Chánh Truyền để tỏ lòng trung hiếu với Đạo
với Đức Chí Tôn, thật là khéo.
2.2.4/- Vẫn tiếp tục đứng ngoài sự an nguy của đạo.
Năm 2015 Chức
sắc Hiệp Thiên Đài ra Thông Báo ông Nguyễn Thành Tám là một chi phái.
Chi phái 1997 sai Trần Quang Cảnh đăng ký độc quyền danh hiệu ĐẠI ĐẠO TAM KY PHO DO TOA THANH TAY NINH
với Bộ Thương Mại Hoa Kỳ và đã được cấp giấy phép tạm. Tà quyền đang
cung cấp thêm chứng từ để có giấy phép chính thức. Năm 2018 nhờ
sự giúp hay của TS Nguyễn Đình Thắng và tổ chức BPSOS, Khối Nhơn Sanh
hiệp với đồng đạo Thánh Thất Mountain View khiếu nại lên Bộ Thương Mại
Hoa Kỳ yêu cầu hủy bỏ giấy phép độc quyền danh hiệu đã cấp cho Trần
Quang Cảnh. Tháng 7-2019 việc hủy giấy phép độc quyền thành công. Đánh
bại chi phái 1997 là thành quả phi thường. Quý chức sắc hoàn toàn im
lặng, không có một công văn nào thăm hỏi.
Ngài Hồ Bảo
Đạo dạy trong Tâm Thư (14-4-1979)
Riêng về
việc thi hành nhiệm vụ của Chức Sắc Hiệp Thiên Đài thì lẽ dĩ nhiên trong việc
thay cũ đổi mới của cơ chuyển thế từ thời kỳ lập công, qua thời kỳ lập đức, chức
năng và phương châm hành đạo của tất cả mọi người dầu cho Chức Sắc hay Chức Việc
hoặc Tín Hữu cũng đều đổi mới như trong lời kêu gọi chung số 6/HĐCQ ngày 07-3 Kỷ
Mùi. (3-4-1979) của Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ chớ không phải riêng cho Cửu
Trùng Đài và Phước Thiện đâu.
Vậy thì
chư Chức Sắc Hiệp Thiên Đài mấy em phải nên sớm tỉnh giác tự mình giải hết chứng
bịnh trầm trọng chung hiện nay của tất cả Chức Sắc là bịnh “QUAN LIÊU”. Một phần
không ít Chức Sắc Hiệp Thiên Đài lãnh phận sự Pháp Chánh thường coi mình như
ông “Quan Tòa” ở ngoài đời và chỉ có biết “trị” bằng cách ngưng quyền giáng cấp
hay trục xuất, chẳng khác nào một cái máy chém chỉ biết sát phạt mà thôi chớ
không nhớ rằng vai tuồng chánh của Hiệp Thiên Đài là lập vị và bảo trọng ngôi vị
cho người khác, chớ không phải là chờ có dịp để cất vị của họ.
Thường
khi lại nghĩ sai ý nghĩa lời dạy của các Đấng Thiêng Liêng như câu “chẳng ai
qua luật mà Hiệp Thiên Đài không biết” hoặc câu “không có điều bất công nào mà
Hiệp Thiên Đài không biết” rồi từ chữ không biết lại hiểu ra là không trị vì
nghĩ rằng hễ biết là phải trị liền.
Trái lại
với chức năng của Hiệp Thiên Đài là lập vị và bảo trọng ngôi vị cho Chức Sắc
hay Chức Việc là khi mình biết thì trước hết phải tìm cách sửa đương, nhắc nhở,
khuyên dạy cách nào cho người sai lầm trở lại đường ngay nẻo chánh, chừng nào
quá lắm không sửa đương đặng mới đem ra trị cho trọn câu “tiên giáo hậu trị”.
2.3/- Câu
3&4.
Mão cao dễ rớt nên thành nhát,
Cổ ngắn không kêu phải hóa lì.
2.3.1/- Chi
phái 1997 ra đời. Chức sắc phụ trách pháp luật đạo là Hiệp Thiên Đài im lặng.
Mãi đến tháng 10-2015 mới ra Thông Báo xác định rằng đó là chi phái đang
chiếm Tòa Thánh Tây Ninh của Đạo Cao Đài. Trong bao nhiêu năm ấy chức sắc
Hiệp Thiên Đài vẫn áo mão đầy đủ vào cúng với chi phái 1997, ấy là
hành vi gián tiếp nhìn nhận tính chính danh của chi phái 1997. Chức sắc
Hiệp Thiên Đài đã bỏ mặc cho nhơn sanh nhận định về chi phái 1997 trong
ngần ấy năm, gián tiếp hậu thuẫn tính chính danh cho chi phái 1977 là
gây khó cho công cuộc tranh đấu cho đạo quyền, trong đó có Khối Nhơn
Sanh.
2.3.2/- Theo truyền thống các Chức sắc Hiệp Thiên Đài coi nhau
như một gia đình. Hiền huynh Thừa Sử Lê Quang Tấn không tùng phục chi phái
1997 cho đến khi tạ thế ngày 15 -8-2013. Theo di chúc tang lễ được tổ chức
tại tư gia và do đồng đạo Cao Đài 1926 đảm trách. Nhà của hiền huynh cách
Tòa Thánh Tây Ninh khoản 800m. Khi đưa đi an táng thì chức sắc không ai dám
đến cầm phướng đi đưa cho đúng với nghi lễ cho Chức sắc Hiệp Thiên Đài. Đến
lúc an táng mới thấy một vài Chức sắc Hiệp Thiên Đài đến đứng ngoài mộ.
Các vị sợ cái chi?
2.3.3/- Năm 2008 Khối
Nhơn Sanh tổ chức
Lễ Cầu Nguyện tại Gốc Bồ Đề trước Đền Thánh và bị đàn áp. Sau đó
Chức sắc được tài trợ một chuyến đi Hà-Nội để trình bày về đạo sự. Trên
xe còn dư chỗ ngồi. Khối Nhơn Sanh xin cho một chỗ ngồi để cùng đi. Chức
sắc thà để xe trống chỗ chứ không cho Khối Nhơn Sanh tháp tùng. Có phải
quý chức sắc được tiếng tranh đấu cho đạo quyền nên được tài trợ cho
chuyến đi hay chăng? Tại sao việc tài trợ cho Chức sắc đi Hà Nội diễn
ra ngay sau khi có Lễ Cầu Nguyện và bị đàn áp? Nhưng các vị e sợ cho
Khối Nhơn Sanh tháp tùng thì bị quở trách chăng? Rốt lại thì sau đó
Khối Nhơn Sanh cũng được đồng đạo quyên góp để đi Hà Nội trình bày
việc bị đàn áp.
2.3.4/- Chức sắc
vẫn than phiền, uất ức
về Bản án ngày 20-7-1978 và muốn xóa bỏ. Ngày mùng
10-4-2014 Khối Nhơn Sanh mời quý chức sắc tham gia Lễ kỷ niệm 55 năm
Ngài Đức Hộ Pháp triều thiên tại Thánh Thất An Ninh Tây, đồng đạo hằng trăm
người, nhưng quý chức sắc được tiếng là tranh đấu cho đạo quyền, chống
bản án chẳng hề đến tham dự.
2.3.5/- Tháng 5-2015 Khối Nhơn Sanh vận
động tổ chức Đại Hội Nhơn Sanh các chức sắc có tiếng là tranh đấu cho đạo
quyền chẳng hề ký tên ủng hộ, lại còn chỉ trích. Đến ngày 27-5-2015
KNS tiến hành quý chức sắc không tham gia còn hiệp với chi phái để rước
bửu ảnh và cúng lễ. Việc làm của quý chức sắc Hiệp Thiên Đài đã
gián tiếp nhìn nhận tính chính danh của chi phái 1997. Đến tháng 10-2015
thì các Chức sắc ra công văn xác định ông Nguyễn Thành Tám lập chi phái
năm 1997. Tại sao 5 tháng trước thì thờ ơ và hiệp với chi phái 1997 rước
bửu ảnh và 5 tháng sau có Thông Báo ông Nguyễn Thành Tám là chi phái
lập năm 1997? Vậy cái hậu quả như thế nào xin để cho đạo sử làm rõ.
2.4/-
Câu 7&8:
- Khảo thí lọc lừa trường hắc bạch,
Chung lo hiệp sức thoát cơn nguy.
Khi Hội Thánh
bị giải thể là người Đạo Cao Đài bước vào phòng thi. Cuộc khảo thí
rất quyết liệt. Theo pháp luật đạo, tại Đạo Nghị Định thứ 8 thì chi
phái 1997 là bàng môn tả đạo.
Nhân sự không
theo chi phái 1997 cũng phải làm bài thi của mình trong thời Hội Thánh
bị cốt. Người đạo vận dụng Thánh Lịnh 257 của Đức Hộ Pháp để công
cử nhân sự cầm quyền thiêng liêng của đạo (cầm quyền hành chánh tôn
giáo). Cho nên tất cả phải minh bạch trước nhơn sanh. Chung lo với ai?
2.4.1/- Về mặt
thiêng liêng, Đạo Cao Đài là Thiên Nhân Hiệp Nhất. Nên thiễn nghĩ
về mặt thiêng liêng khi lập chí phụng sự để lo việc đạo là có các Đấng
Thiêng Liêng hộ trì nên người đạo phải siêng năng hành đạo để thiêng liêng
mượn thể xác mình làm phương tiện chuyển thế.
2.4.2/- Về mặt
hữu hình là chung lo với những người đồng mục đích và đồng cách
làm. Còn đồng mục đích mà khác cách làm thì tùy phương ứng biến chớ
chẳng thể chung lo hết được.
2.4.3/- Cùng
mục đích khác cách làm Đồng đạo Thánh Thất Mountain View đồng mục đích, nhưng khác
cách làm với Khối Nhơn Sanh và Hội Thánh Em Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ nên
hợp tác nhau một tời gian rồi quý vị ra Thông Báo không hợp tác là một
ví dụ điển hình.
2.4.4/- Thoát
cơn nguy là chính bản thân mình được thoát trước; bản thân mình hiệp
với thiêng liêng, hiệp với người đạo có cùng mục đích cùng cách làm
thì không sa ngã vào bàng môn tả đạo mà uổng phí một kiếp sanh may
duyên ngộ đạo. Sau nữa nếu nhìn thấy nền đạo khôi phục được hành chánh
tôn giáo (nền đạo thoát cơn nguy) ấy là một kiếp sanh rất hữu hạnh.
III/- Linh
tinh: về việc KNS và HTE ĐĐTKPĐ Lập Bộ Đạo.
Trước đây Khối
Nhơn Sanh có lo việc thành lập bộ đạo. Sau nầy giao cho Hội-Thánh Em
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ tiếp tục. Cả hai thời kỳ đều phân công cho hiền
huynh Chánh Trị Sự Trần Ngọc Sương phụ trách. Nay hiền huynh Chánh Trị
Sự Trần Ngọc Sương hợp tác với Hiền tỷ Lễ Sanh Lê Hương Muội (Thánh
Thất, Điện Thờ Phật Mẫu Mountain View) là quyền tự do công quả của hiền
huynh.
Nhưng ngày 19-9-2021 các vị hữu trách tại Thánh Thất và
Điện Thờ Phật Mẫu Thánh Thất Mountai View đã có Thông Báo: không hợp
tác với Khối Nhơn Sanh và Hội-Thánh Em Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
Do vậy Khối
Nhơn Sanh và Hội-Thánh Em Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ nên có công văn để nhờ
hiền huynh Chánh Trị Sự Trần Ngọc Sương bàn giao lại Bộ Đạo đã lập.
Đó là thể hiện trách nhiệm với các nơi đã tin tưởng và hợp tác để
cho số liệu lập ra bộ đạo và bảo toàn danh dự cho mọi cá nhân hay tổ
chức liên quan. Dĩ nhiên đồng đạo các nơi có quyền dùng số liệu để
phụng sự cho đạo.
IV/ Đọc Kinh
Xuất Hội: Kim Thùy
Kết thúc lúc
lúc 22 giờ
Đồng đạo có mặt trong phiên họp đồng ý thông qua vi bằng.