Ấy vậy, Đạo có Quyền Vạn linh chớ không có Hội Vạn linh. (ĐHP/1933)
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Đệ bát niên)
Tòa Thánh Tây Nính
VI BẰNG
Nhóm “Hội Vạn Linh”
Tại Tòa Thánh Tây Ninh ngày 19–5–Quí Dậu (dl 11–6–1933)
Nhơn có tờ của Chức
sắc Thiên phong HTĐ và CTĐ, Hội viên Thượng Hội mời nhóm đặng công đồng bàn luận
việc lỗi của Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt sớm mơi ngày 6–1933, chư Đạo hữu
nam nữ tề tựu đông đảo tại Tòa Thánh Tây Ninh.
https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2023/05/4639-bai-3-trong-3-bai-dien-van-cua-uc.html (KHÔNG CÓ HỘI VẠN LINH)
Đúng 10 giờ khai hội,
chư Chức sắc Thiên phong và Đạo hữu đến trước Bửu điện, nhưng cửa đã khóa chặt
rồi, có 2 vị Đạo hữu đứng giữ.
Ông Quyền Chưởng
Pháp Nguyễn Trung Hậu hỏi chìa khóa thì 2 người trả lời rằng ông Giáo Sư Ngọc
Trọng Thanh được lịnh của QGT dạy khóa cửa Bửu đỉện và cấm không cho mở. Khi ấy
có thầy Cai Tổng và 3 Hương Chức làng sở tại đến giữ gìn trật tự. Ông Nguyễn
Trung Hậu xin thầy Cai Tổng chứng lời khai ấy và dạy 2 người giữ cửa ký tên vô
tờ khai để làm Vi bằng. Đoạn sai đi mời ông Giáo Sư Ngọc Trọng Thanh đem chìa
khóa đến. Ông không đến, chờ quá 20 phút đồng hồ cho chắc rằng ông Giáo Sư Trọng
không chịu đến, ông Nguyễn Trung Hậu bèn nói lớn cho chư Đạo hữu đứng xung
quanh biết rằng: “Hôm nay anh em chúng ta
về Tòa Thánh đặng hiệp nhau bàn tính việc quan hệ của Đạo, mà ông QGT cấm mở cửa
Bửu điện, vậy tôi xin hỏi chư Đạo hữu coi, Bửu điện là của riêng ông QGT hay là
của chung của toàn cả chư Đạo hữu?”
Chư Đạo hữu đứng tại
đó trên 500 người đồng rập một tiếng nói rằng: là của chung.
Ông Hậu lại hỏi: “Của chung mà ông QGT ra lịnh khóa lại, vậy
chúng ta tính làm sao?”
Chư Đạo hữu đồng
dơ tay lên rập một tiếng: Chúng ta phải mở
cửa ra.
Các việc nầy có thầy
cai tổng và làng chứng kiến.
Liền đó, một vị Đạo
hữu leo lên song ly vào Bửu điện vặn thông hồng mở cửa ra. Cửa mở ra rồi, Chức
sắc Thiên phong nhập Bửu điện và Đạo hữu nam nữ đồng theo vô.
Khi hay mở cừa Bửu
điện rồi, thì chư Đạo hữu ở chung quanh Tòa Thánh trước kia vì bị lịnh QGT hăm
dọa và ngăn trở mà không dám đến, bây giờ mới lần lượt kẻ trước người sau vào Bửu
điện, chia ra 3 ban, phía bên nam phái đứng xem chật nứt, còn bên nữ phái thì
có hơi rải rác một chút.
Chức sắc của 3 Hội
có mặt là:
❒ 4 vị
Hội viên Thượng Hội:
Quyền Chưởng Pháp: Nguyễn Trung Hậu, Lê Thiện Phước, Phạm Văn Tươi và ông Quyền
Ngọc Đầu Sư Lê Bá Trang.
❒ 4 vị
Giáo Sư:
Ngọc Kinh Thanh, Thượng Lai Thanh, Thượng Thình Thanh, Thái Minh Thanh.
❒ 16 vị
Giáo Hữu:
Ngợi, Hiển, Lợi, Đối, Thêm, Thành, Bảy, Học, Giáp, Dành, Đàng, Huỳnh, Tri, Họa,
Bộ, Môn.
Còn nhiều Thiên
phong Chức sắc không mặc Thiên phục phải đứng theo hàng Vạn linh, nhiều vị Lễ
Sanh Đầu Họ Tỉnh, Đầu Họ Quận, các Chủ Th. Thất và chư Phái viên Hội Nhơn Sanh,
hiệp kể chung với số Đạo hữu trên ngàn người.
Báo giới Tây Nam
thì có quí ông:
❒ Vabois (Courrier
de Saigon)
❒ Bonvicini
(Opinion)
❒ Trạng sư Diệp Văn
Kỳ và Nguyễn Thế Phương (Công Luận)
❒ Nguyễn Phan Long
(Đuốc Nhà Nam)
Khi lập ban xong rồi,
chư Đạo hữu làm lễ ra mắt Đức Chí Tôn và chư Tiên Phật. Xong việc lễ rồi, ông
Quyền Ngọc Đầu sư mở lời trước như vầy:
“Kính trình cùng
chư vị Đạo hữu nam nữ, ngày nay chư vị Đạo hữu đặng tờ mời trước không mấy ngày
mà đành chịu hao tốn cực nhọc đến đây đông đủ như vầy, chúng tôi xin để lời
chào mừng và cám ơn chư vị. Đặng tờ mời, kế đặng lịnh cấm nhặt mà chư vị cũng
đi đến, ấy là một việc của chư vị xử riêng cùng lương tâm, tôi không lẽ nói việc
vậy là phải hay không, chỉ để cho chư vị đến rồi còn có ngày giờ xem xét thêm
mà quyết đoán cho ra lẽ phải chăng.
Còn phần tôi, giờ
nầy đứng ra đây tỏ đôi điều cùng chư vị là vì phận đứng đầu sổ cáo, và đầu tờ mời,
lại cũng có lãnh vai giải nghĩa sơ qua cho một phần chư vị chưa đọc được Châu
Tri và Vi bằng Thượng Hội cho rõ cái mục đích của buổi nhóm Hội hôm nay.
Số là: Anh Cả
chúng ta là ông Thượng Trung Nhựt sái phận sự QGT nên chúng tôi là 7 Chức sắc
HTĐ và CTĐ có nhóm tại Bửu điện lo ngăn ngừa sự sái ấy, cho nền Đạo khỏi ngửa
nghiêng thêm nữa.
Lần thứ nhứt là
hôm 19 tháng chạp năm rồi (15–1– 1933) mời Đức QGT đến bàn luận việc yếu thiết
của Đạo. Ngài không đến vì Ngài cho rằng mời thiếu lễ. Lần thứ nhì, hôm 22
tháng 3 năm nay (16–4–1933) Ngài cũng cho rằng mời thiếu lễ nên không đến.
Vì chúng tôi được
đủ số Hội viên của Thượng Hội nên có nhóm lại xem xét kỹ lưỡng, thiệt quả là
QGT có lỗi với Đạo nên lập Vi bằng gởi cho Ngài xem, xin mãn 8 ngày, trả lời
cho biết việc chúng tôi cáo Ngài là phải hay quấy. Trả lời không nói đến việc
quấy phải, cứ cho rằng Hội nhóm không đúng pháp luật, không đủ lễ nghĩa với
Ngài.
Mời Ngài đôi ba
phen không đến, gởi tờ không trả lời cho rõ việc oan ưng thế nào, nên nay phải
mời thêm chư vị Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh cho đủ 3 Hội, hiệp lại kêu là “Hội Vạn Linh” đến xem xét lại.
Công việc chúng
tôi làm có sái pháp luật chỗ nào, có bất công bất chánh hay không, xin hết lòng
chỉ giáo. Bằng xem xét không có chỗ nào sái phép thì nên hiệp cùng chúng tôi mà
thi hành những điều quyết định trong Tờ Vi bằng ngày 22 tháng 3 An nam
(16–4–1933).
Xin chư vị nam nữ
nghĩ lại mà coi, bởi ý muốn hòa mới là đôi ba phen mời nhóm cho anh em có đường
phân giải thiệt hơn cùng nhau mà QGT không chịu đến, để đi làm những việc sái
luật đạo và luật đời, xúi người nầy ngỗ nghịch kình chống với người kia, rồi
không thi hành phận sự, có phải là tại Ngài muốn loạn không?
Vậy nay mà muốn thấu
đáo việc chúng tôi đã làm ra rồi đây, có chánh đáng cùng không, tôi tưởng phải
làm như vậy thì đặng công bình.
Cử một Ban ủy Viên
tạm thời đặng điều đình việc chúng ta sẽ bàn luận. Bất luận là Chức sắc hay Đạo
hữu cũng đều được phép chọn cử vô Ban Ủy Viên ấy, vì lúc nầy cả thảy chúng ta
là đồng một quyền môn đệ của Đức Chí Tôn, không còn phân nhỏ lớn nữa. Ban Ủy
Viên gồm có 4 người:
❒ Một ông Nghị Trưởng
❒ Một ông Nghị Phó.
❒ Một ông Từ Hàn.
❒ Một ông Phó Từ
Hàn.
Ban nầy
thay mặt cho cả Ba Hội kêu là Hội Vạn Lình, được quyền đối phó cùng quyền
hành Chí Tôn.
Nên xin lựa chọn Đạo
hữu nào đủ tư cách, biết Đạo và biết Đời, có đủ cớ là người biết lo cho Đạo,
không phải phe phái nào hết.
Đó, chúng tôi có mấy
lời thưa cùng chư vị, xin để hết lòng vì Đạo, minh chánh việc nầy ra cho nền Đạo
được rỡ ràng, cho nhơn sanh có chỗ dựa nhờ cho xứng đáng.
Khi dứt lời thì có
ông Giáo Sư Ngọc Kỉnh Thanh xướng lên: Cử
ông Nguyễn Phan Long làm Nghị Trưởng Ban Ủy Viên tạm thời.
Chư Đạo
hữu đứng gần truyền lần lời xin ấy ra cho cả thảy Đạo hữu xung quanh nghe biết
thì toàn cả chư Đạo hữu hiện diện đồng ưng cử ông Nguyễn Phan Long làm Nghị Trưởng, vì là người đủ tư
cách, thuở giờ không thuộc đảng phái nào, tài đức có, lại làu thông cả việc Đạo
và việc Đời.
Ông Nguyễn Phan
Long không thế từ, phải vào lãnh ghế Nghị Trưởng.
Ông Trương Duy Toản
được cử: Phó Nghị Trưởng.
Ông Giáo Hữu Tuyết
Tân Thành: Từ Hàn.
Ông Chánh Trị Sự
Phạm Văn Long: Phó Từ Hàn.
Ban ủy Viên cử
xong, ông Nghị Trưởng đứng lên khai hội. Ngài nói:
“Thưa chư Đạo hữu,
Ngày nay tôi ra mắt Thầy, sau ra mắt chư Đạo hữu lần
thứ nhứt, nhưng đã lâu nay tôi vẫn ái mộ Đạo, vẫn sùng bái Thầy. Tôi sở dĩ lấy
tư cách nhà viết báo mà lên đây, không dè chư Đạo hữu quá yêu, nhứt tâm công cử
tôi làm Nghị Trưởng hội đồng tạm thời nầy, thiệt là một điều, tuy là vinh diệu,
song có hơi quá phận sự của tôi. Nhưng chư Đạo hữu đã đồng tâm chiếu cố, tôi
đâu dám chối từ.
Thưa chư Đạo hữu,
Nền Đạo của Đức Chí Tôn mấy năm trước thạnh hành như lửa
cháy, rồi sau phải chịu nhiều nổi khó khăn. Bên ngoài, kẻ ganh người ghét, kiếm
trăm phương ngàn kế đề ngăn cản sự tấn hóa của Đạo; Bên trong lại sanh lắm điều
rắc rối, anh em một đạo mà chia ra nhiều phe nhiều phái, không hòa thuận với
nhau. Tưởng có khi người cầm quyền mối Đạo không đủ tư cách và không đắc nhơn
tâm nên mới ra cớ đỗi.
Xin chư Đạo hữu biết rằng, trong Đạo ngày nay có gần
triệu tín đồ và danh Đạo đã bay ra ngoại quốc, Nước Đức, nước Ba Lan, nước Ấn Độ,
nước Lithuanie... đã biết tên Đạo và họ kính trọng Đức Giáo Tông của mình lắm,
tưởng không thua gì Đức Thánh Pha Pha bên Thiên Chúa Giáo. Chúng ta cần phải có
một vị làm đầu cho xứng đáng mới chẳng hổ với người. Vậy mà coi Đạo ngày nay có
vẻ suy đồi. Mới đây, có báo đăng tin rằng: trong Đạo hữu có 47 người đã qua nhập
đạo Thiên Chúa. Trong số nầy có một vị trước theo Đạo Minh Sư. Người nầy còn hứa
sẽ đem thêm vài ngàn Đạo hữu khác vào đạo Thiên Chúa nữa. Ấy là chỗ nguy hiểm của
Đạo đó.
Có nhiều Đạo hữu tưởng rằng, bởi Đức Quyền Giáo Tông
thiếu đức nên ngày naỵ đem Ngài ra vấn nạn ở buổi nhóm nầy. Xin chư Đạo hữu nhớ
câu: “Hữu công tắc thưởng, hữu tội tắc trừng.”
Còn bổn phận tôi thì phải giữ trật tự và để
cho hai bên tiên cáo và bị cáo biện bác lời lẽ của mình cho thong thả.”
Ông Nghị Trưởng dứt
lời. Ban ủy Viên bắt đầu làm việc. Trước hết, ông Nghị Trưởng xin dùng lễ khiêm
tốn viết thơ mời Đức Quyền Giáo Tông đến trả lời những điều Ngài bị cáo giữa Hội
cho ra lẽ minh bạch.
Quyền Ngọc Đầu Sư:
Lời yêu cầu của ông Nghị Trưởng sợ e
không được hiệu quả, vì chiều hôm qua, tôi có viết thơ cho QGT hay và xin mời
Ngài đến dự hội. Bây giờ đã quá giờ nhóm rồi mà không thấy hồi âm, thế thì chắc
Ngài chẳng khứng đến. Vậy xin phiền cùng Ban Ủy Viên thân hành đến Giáo Tông Đường
mời Ngài.
Cả thảy Đạo hữu đều
ưng thuận lời xin của ông Quyền Ngọc Đầu Sư. Ban Ủy Viên thi hành việc ấy. Hội Vạn
Linh lại
phái thêm 3 Giáo Hữu 3 phái đồng hành cùng Ban Ủy Viên.
Khi đến Giáo Tông
Đường thấy cửa ngõ đóng, ông Nghị Trưởng xin vô, người giữ cửa mời vào phòng
nhà gác. Ban Ủy Viên vào nhà gác cửa rồi, thì ông Nghị Trưởng viết thơ xin ra mắt
Đức Quyền Giáo Tông. Thơ như vầy:
“Thưa Ngài,
Nhơn sanh mới cử Ban Ủy Viên, có tôi là Nguyễn Phan
Long và mấy ông nữa đặng chứng kiến việc biện bác về lời bố cáo trong Đạo cách
mấy bữa rày.
Tuân theo ý muốn của nhơn sanh và giữ phép khiêm tốn,
Ban Ủy Viên xin yết kiến Ngài, đặng mời Ngài ra mắt hội đồng.
Vậy Ngài định lẽ nào xin Ngài Ngài cho Ban Ủy Viên biết.
Nay kính.”
Ký tên: Nguyễn
Phan Long.
Thơ đưa rồi, chờ gần
20 phút đồng hồ, QGT cho người mời vào dinh thì thấy ông Quyền Ngọc Chánh Phối
Sư Trần Duy Nghĩa ra nói: Đức QGT dạy tôi đến rước quí ông.
Ban Ủy Viên theo
vô phòng. Ông QGT chào, mời ngồi, kế hỏi:
– Hôm nay là Hội gì mà mời tôi?
Nghị Trưởng: – Hội Vạn Linh.
QGT: – Tôi không thế đi được, vì hội sái phép,
Nói đoạn, Ngài dở
sổ ra đọc cái thơ trong đó có bài chấp bút dạy về sự lập hồng thệ. Đọc một hồi
lâu, ông QGT hỏi 2 vị Chánh, Phó Từ Hàn: Ban
Ủy Viên có biết 3 vị Quyền Chưởng Pháp lãnh trách nhậm có đúng luật lệ hay
không?
Phó Từ Hàn: – Chúng tôi được tờ mời về đặng nghe nói
chuyện Anh Cả. Khi đến hội, được nhơn sanh tín nhiệm công cử vào Ban Ủy Viên,
nay đi đến mời Anh Cả, còn phần
luật lệ đúng hay không, xin hỏi lại mấy người đứng tờ mời.
Nghị Trưởng: – Nhơn sanh đương chờ đợi, xin mời Ngài đến
dự hội.
QGT: –Tôi không thế đi được, vì hội không đúng
pháp luật. Vả lại, việc Đạo tôi lãnh phần đối đãi với chánh phủ, sau tôi giao
quyền lại cho ông Thượng Tương Thanh. Còn mấy tháng sau đây thì về phần ông
Giáo Sư Latapie. Cho nên chuyện xin phép tắc thì về phần ông Giáo Sư Latapie mà
ông nầy không có xin phép, hội làm sao?
Tuy nói vậy chớ
QGT cũng phái mấy ông kể sau đây thay mặt cho Ngài đến nhóm hội:
Quyền Ngọc Chánh Phối Sư: Trần Duy Nghĩa.
Quyền Thái Chánh Phối Sư: Phạm Tấn Đãi.
Quyền Thượng Chánh Phối sư: Thái Văn Thâu.
Tiếp Thế: Lê Thế Vĩnh.
Chức sắc Ngoại Giáo: Thượng Bảy Thanh, Thượng Chữ
Thanh, Hương Phụng.
Ngoài ra: lại cố 2 ông Trạng sư Dương Văn Giáo và
Diệp Văn Kỳ. Hai ông nầy lại cáo từ.
Ban Ủy Viên về cho
Hội hay rằng: QGT nói hội nhóm hôm nay sái phép, không đúng luật Đạo, nên không
đến, song có phái 9 vị Chức sắc có tên trên đây thay mặt đến dự nhóm.
Cách một hồi lâu,
Chức sắc thay mặt đi đến Bửu điện, thấy có ông Lê Thế Vĩnh mặc Thiên phục, còn
kỳ dư mặc đồ thường. Ban ủy Viên liền mời vào, rồi ông Nghị Trưởng giới thiệu
cho chư Hội viên biết. Kế đó ông Lê Thế Vĩnh trình 2 tờ thay mặt cho QGT và Hộ
Pháp trong buổi nhóm nầy.
Nghị Trưởng: Tôi xin cho Hội đồng rõ biết, ông Lê Thế
Vĩnh có tờ thay mặt cho ông QGT và Hộ Pháp.
Vậy trong khi Phái viên của QGT đứng lên nói, xin chư Đạo
hữu phải êm tịnh mà nghe lời bào chữa cho QGT và xin chư vị đến nhóm hôm nay phải
tuân 3 điều kể dưới đây đặng giữ phần trật tự trong buổi nhóm hội:
Mỗi người đứng nói không quá 15 phút đồng hồ.
Vấn đề nào nối rồi, người sau không phép lập lại nữa.
Ban Ủy Viên cho phép thì mới được nói. Khi người nói,
chư Đạo hữu phải ráng lẳng lặng mà nghe.
Kế trao lời cho
ông Lê Thế Vĩnh.
Tỉếp Thế: – Tôi xin lỗi Hội đồng. Trước khi nói, vì em
có lỗi, nên xin cho phép làm lễ Đức Chí Tôn rồi sẽ nói sau.
Làm lễ rồi, ông Tiếp
Thế nói tiếp: Xin lỗi ông Nghị Trưởng, em
làm theo phận sự, Đạo theo Đạo, đời theo đời. Em có hứa với Quyền Chưởng Pháp
Lê Thiện Phước là anh của em, ngày nay em không ra đây. Em thất lời hứa, có lỗi
tình cốt nhục, em xin lạy anh để tạ lỗi. Nói rồi lạy 1 lạy.
Quyền Chưởng Pháp
Lê Thiện Phước: – Đạo có phần Đạo, em tôi
có phận sự riêng, tôi không nhậm cái lạy. Tiếp Thế là em tôi, ở đây không có
quyền hành chánh, vì nhẹ tính nghe lời cám dỗ ra gánh vác việc nầy là một điều
sái phép, tôi không thế ngồi nghe em tôi tranh luận, vậy tôi xin kiếu ra Hội.
Tiếp Thế: – Ngày nay lãnh phần thay mặt cho QGT và Hộ
Pháp rất khó cho tôi, vậy tôi xin lui. Tiếp Thế đi ra.
Nghị Trưởng: – Xin hai ông: Chưởng Pháp và Tiếp Thế hãy để
tình cốt nhục riêng ra, đây là nơi công đồng về sự đạo lý, mỗi ông đều có phần
trách nhậm theo bổn phận, không vì cốt nhục mà trái phận sự được. Vậy xin ông
Tiếp Thế ở lại dự Hội. (Ông Tiếp Thế đi luôn).
Quyền Ngọc Đầu Sư:
Tôi xin nói việc nầy: QGT bị cáo cũng nhiều
việc, có một hai việc khi hỏi đến, tôi sẽ xin Ngài quì giữa Thiên Bàn thề rồi sẽ
nói, mà nay Ngài không đến, để phái người thay mặt, chúng tôi hỏi, biết đâu mà
trả lời, vì có việc một mình Ngài và tôi biết mà thôi. Còn tôi không hiểu cái số
người thay mặt là bao nhiêu cho QGT, mà sao đây tôi thấy đông người, An nam có,
Tây có, đờn ông đờn bà có? Tuy nói vậy cho biết chớ nay xin cho mấy người bào
chữa, tôi cũng chịu hết. Luôn đây, tôi xin Hiền hữu Thượng Bảy Thanh đem trả những
giấy tờ về Thượng Hội, tôi đã giao cất dùm mà Hiền hữu nói lần lựa hoài, thoảng
bị cáo hỏi bằng cớ, tôi lấy đâu mà trưng ra.
Nghị Trưởng: – Xin ông Thượng Bảy Thanh đem hết giấy tờ bữa
nhóm Thượng Hội ra đây đặng xem xét lại mới biết bên nào phải bên nào quấy.
Thượng Bảy Thanh: – Xin nhường cho chị Hương Phụng là đờn bà
nói trước rồi tôi sẽ trả lời sau.
Bà Hương Phụng: – Tôi đã được giấy mời nhóm Hội, rồi lại tiếp
được Châu Tri ngăn cấm, không biết liệu thế nào, nhưng tôi cũng ráng đến xem
coi công việc ra sao, chớ tôi không phải là người của QGT phái đến. Tôi sở đĩ đến
đây dự thính, hầu sau sẽ tường thuật lại các việc xảy ra cho bổn đạo Kim Biên
hay biết.
Quyền Ngọc Chánh
Phối Sư Trần Duy Nghĩa: – Thưa mấy anh mấy
chị, tôi đến đây chẳng phải là người thay mặt cho QGT, tôi đến dự đây có phần
riêng của tôi. Tôi hay được buổi nhóm hôm nay, là thấy một tờ báo quốc âm có
đăng tin nầy. Chúng tôi làm Châu Tri số 2 là để cấm ngăn người đến dự Hội. Tôi
cho rằng Hội nhóm sái phép, Hội hôm nay ra sao? Theo luật đạo, tôi hiểu, về quyền mời Hội Nhơn sanh thì về phần Thượng
Chánh Phối Sư, còn mời Chức sắc Thiên phong thì về phần tôi là Ngọc Chánh Phối
Sư. Nay Quyền Ngọc Đầu Sư gởi giấy mời thì sái.
Chính mình tôi sai người đóng cửa Bửu điện không cho nhóm hội. Tôi không thiên
vị bên nào. Tôi lấy
làm lạ sao Quyền Ngọc Đầu Sư nói việc riêng của QGT mà lại mời nhóm đại hội như
vầy?
Quyền Ngọc Đầu Sư: Hiền hữu nói hội sái phép, vì chiếu theo Đạo
Nghị Định thứ tư của Đức Lý Giáo Tông thì Thượng Chánh Phối Sư mời Hội Nhơn
Sanh, còn Hội Thánh thì về phần Hiền hữu là tạm Ngọc Chánh Phối Sư mời. Xin Hiền
hữu coi lại Châu Tri năm rồi và năm nay, cho biết ai mời Hội Thánh. Có phải là
Ngọc Chánh Phối sư thiệt thọ, Quyền Đầu sư không, còn Hội Nhơn Sanh thì Thượng
Chánh Phối Sư Quyền Đầu Sư mời, mà nay
Quyền Thượng Đầu Sư vì bịnh mà vắng mặt thì tưởng tôi mời thế cũng được.
Lại cho Hiền hữu và chư Đạo hữu biết luôn rằng, tôi đã đặng lịnh riêng của Đức Lý Giáo Tông
giao việc “nên hư của Đạo” cho tôi. Nay
nền Đạo chinh nghiêng tới nỗi nầy, Hiền hữu cũng rõ là tại đâu, vậy thì việc mời
nhóm hay là làm việc chi khác nữa cho nền Đạo khỏi hư thì tưởng tôi cũng đặng
được phép làm. Còn Hiền hữu nói tôi nói việc riêng của tôi và QGT, xin Hiền hữu
đọc lại cho hiểu Tờ Vi bằng Thượng Hội, 12 khoản, coi có khoản nào là việc
ngoài đời hay là việc riêng tôi với QGT. Và xin Hiền hữu nhớ lại coi năm ngoái
đây, ai đứng chung tờ với 2 vị Chức sắc HTĐ cư ngụ ở Sài Gòn, gởi cho chúng tôi
hay biết rằng ông Thượng Trung Nhựt hết xứng phận sự, cần phải xa nền Đạo, mà
nay Hiền hữu là Chức sắc HTĐ đến đi tùng phục người hết xứng đáng mà hành
chánh. Sau nầy xin hỏi cho biết, Tòa Thánh là của riêng Hiền hữu hay sao mà Hiền
hữu được phép ra lịnh đóng cửa Bửu điện, cấm nhơn sanh và tôi nhóm.
Quyền Ngọc Chánh
Phối Sư: – Vì sao tôi ký tên trong thơ
cùng 2 vị Chức sắc HTĐ? Vì tôi có lập thệ, lấy dạ vô tư. Vì sao tôi lãnh chức
Quyền Chánh Phối Sư, tại nơi Hội Thánh định. Vì sao 3 Chánh Phối Sư lên Quyền Đầu
Sư, nên ngôi Chánh Phối Sư khuyết, Có lịnh Hộ Pháp phái, về việc tôi đứng tên
trong thơ, còn một lẽ nữa, buổi
đó Chức sắc HTĐ đứng tờ cấm ngăn QGT, đồng nhìn nhận không xứng đáng, tới ngày
nay, tôi cũng còn nhìn nhận QGT là không xứng đáng.
Nghị Trưởng: – Tôi xin chư Đạo hữu hãy nghe và nhớ lời
ông Quyền Ngọc Chánh Phối sư Trần Duy Nghĩa mới nói đó: ông cũng nhìn nhận rằng
QGT không xứng đáng.
Quyền Ngọc Chánh
Phối Sư: – Tôi không binh bên nào, bỏ bên
nào. Hội nhóm hôm nay không
đúng pháp luật, tôi xin kiếu, chiều tôi không dự hội, nếu hội đúng phép Đạo thì
tôi cũng chung hiệp với mấy ông đứng ra tổ chức thì QGT không chạy đâu khỏi luật
Đạo, và hôm nay Ngài cũng không được thong thả trốn tránh như vầy.
Thượng Chữ Thanh: – Ông Quyền Ngọc Đầu Sư mời hội không đúng
phép, lại công chúng đến đây không phải bấy nhiêu đây mà đủ số nhóm hội.
Nghị Trưởng: – Tôi cho ông Thượng Chữ Thanh biết rằng,
chư Đạo hữu các nơi về nhóm hội ngày nay, được bao nhiêu đây, tưởng cũng là
đông đảo lắm rồi. Ông dư biết rằng: QGT, Hộ Pháp, và 3 vị Quyền Chánh Phối Sư với
phe binh vực Ngài, dùng hết phương thế cản ngăn cuộc nhóm hôm nay, nào là Châu
Tri số 2 hăm dọa giáng cấp, hoặc trục xuất những người về Tòa Thánh, nào là bố
cáo dán khắp nơi, cũng đồng một mục đích, lại còn truyền ra như ai lỡ về, phải
vào Hạnh Đường và phòng Nội Chánh ký tên xin lỗi, cho đến đỗi, nhiều người đem
Châu Tri bố cáo rải khắp nẻo đường, chận ngõ không cho Đạo hữu vào Tòa Thánh.
Bao nhiêu phương thế cản ngăn như vậy, mà Đạo hữu về nhóm trên ngàn người tưởng
không phải là số ít đâu!
(Tới đây vì đã 1
giờ trưa rồi, sợ chư Đạo hữu vừa mệt vừa đói, nên ông Nghị Trưởng xin tạm ngưng
buổi nhóm, 2 giờ rưỡi sẽ tái hội.)
NHÓM HỘI BUỔI CHIỀU: 3 giờ.
Gần 3 giờ chiều, hội
nghị khai trở lại, số Đạo hữu nam nữ dự hội kém bớt vài trăm. Mãi đến 3 giờ,
chư phái viên của QGT lần lượt vào Bửu điện, thấy những ông:
Quyền Ngọc Chánh
Phối Sư Trần Duy Nghĩa. (1) ghi chú: (1) Ông nầy tuy nói
chiều không đến nữa nhưng rồi cũng đến.
Quyền Thái Chánh
Phối Sư Phạm Tấn Đãi.
Quyền Thượng Chánh
Phối Sư Thái Văn Thâu.
Giáo Sư Latapie.
Phái Ngoại giáo thì có: – Thượng Bảy
Thanh, Thượng Chữ Thanh.
Lại cũng có 2 ông Trạng sư: Diệp Văn Kỳ và
Dương Văn Giáo.
Mấy ông phái viên
an vị rồi, ông Diệp Văn Kỳ trình cho ông Nghị Trưởng một cái giấy của Hộ Pháp gởi,
ông Nghị Trưởng liền đọc cho Hội nghe. Trong giấy, ông Hộ Pháp phái ông Diệp
Văn Kỳ thay mặt cho ông để biện luận trong buổi nhóm nầy. Câu chót có mấy lời
như vầy: “Tôi sở dĩ cậy ông Diệp Văn Kỳ
thay mặt là vì trong buổi nhóm nầy, chẳng những trong Hội viên mà ngay trong
Ban Ủy Viên cũng có người ngoài Đạo dự vào.” Đọc xong, ông Nghị Trưởng liền
nói:
Buổi nhóm nầy để vấn nạn ông QGT chớ không phải vấn nạn
ông Hộ Pháp, thì chỉ có QGT phái người thay mặt của Ngài mà thôi. Vả lại, hội
nhóm nầy để bàn tính việc Đạo, mà ông Diệp Văn Kỳ không phải là người trong Đạo,
chỉ được dự thính mà thôi, đâu có quyền tranh luận. Còn câu chót, chắc ông Hộ Pháp muốn nói xéo
tôi. Ông Hộ Pháp tưởng như thế là lầm, tôi đã vào Đạo 3 năm nay, được ban chức
Giáo Sư, song ít khi đến đặng Tòa Thánh, nên nhiều người trong Đạo chưa rõ.
Lê Kim Tỵ: Lời ông
Nghị Trưởng nói rất đúng với sự thật. Ngài là chủ nhiệm 2 tờ báo: Tribune
Indochinoise và Đuốc Nhà Nam, thiết tưởng ai cũng biết, mấy năm nay, 2 tờ báo nầy
thường đứng ra binh vực Đạo rất sốt sắng nồng nàn, lại ông Nghị Trưởng Nguyễn
Phan Long chẳng những đã nhập môn rồi, mà trong Ngũ Chi như Minh Lý, Minh Tân,
Minh Thiện, vv... đều nhìn nhận Ngài cho
chưn trong mấy Chi hết.
Diệp Văn Kỳ: Việc thay mặt được cùng không tưởng cũng
không quan hệ. Tôi chỉ xin cho Hội biết rằng, tôi đến đây không ý binh ai bỏ
ai, hay xu phụ theo phe đảng nào. Ông Hộ Pháp cậy tôi thay mặt là cốt để giải
bày một ít Đạo luật cho Hội biết mà thôi. Chí như nói ông Hộ Pháp là người
không dính dấp với Hội nầy. tôi e chẳng đúng. Hội đã công khai giữa Bửu điện,
thì bất kỳ một tín đồ nhỏ nhen cũng được quyền tranh biện, phương chi Hộ Pháp
là người giữ pháp luật Đạo trên hết Chức sắc. Còn nói QGT sai người đến thay mặt
tức là nhìn nhận buổi nhóm nầy đúng luật lệ, lại là một cách buộc Ngài chạy
chung quanh cái vòng tròn chẳng có đường ra. Không đến, mấy ông trách, sai người
thay mặt, mấy ông lại bảo nhìn nhận buổi nhóm nầy.
Chưởng Pháp Nguyễn
Trung Hậu: – Thưa chư Đạo hữu, ông Diệp mới
vừa nói rằng. Ông được Hộ Pháp ủy quyền biện giải luật đạo giữa hội, vì Hộ Pháp
chưởng quản về phần luật.
Phải, Hộ Pháp chưởng quản đạo luật, không luật nào khỏi
tay Ngài được, nhưng Ngài ủy quyền cho ông Diệp lại là một điều trái luật đó. Vả
chăng, dưới quyền Hộ Pháp thì có: Thượng Sanh, Bảo Pháp, Bảo Đạo, Bảo Thế, Hiến
Pháp, Hiến Đạo, Hiến Thế, vv... Đành rằng nếu 3 vị Bảo Pháp, Bảo Thế, Hiến Đạo
đứng về bên tiên cáo thì còn lại mấy vị HTĐ khác, lẽ thì Hộ Pháp ủy quyền cho một
ông trong mấy vị ấy mới phải, chớ giao quyền thay mặt cho ông Diệp là người
ngoài đạo là nghĩa lý gì? Tôi cực lực phản kháng việc nầy,
Giáo Sư Thượng Chữ
Thanh: – Tôi xin trả lời cho ông Hậu, ông
Hộ Pháp đã phái ông Tiếp Thế thay mặt cho Ngài, song vì tình anh em, không thế
nhóm được nên ông Tiếp Thế phải về. Tôi xin hỏi bên HTĐ hội ngày nay cố đủ số
nhơn sanh không? Mấy ông nhóm không đúng luật đạo mà dám mời Đạo hữu về hết.
Chưởng Pháp Nguyễn
Trung Hậu: – Đạo là Đạo, anh em là anh
em, ông Tiếp Thế vì tình cốt nhục không chịu tranh biện với anh nên bỏ ra về, ấy
là tự ý ông Tiếp Thế, nào có ai buộc ông bỏ hội mà ra đâu. Ông Thượng Chữ Thanh
trả lời với tôi mà ông lại còn nói thêm những là: Hội nhóm không đúng luật đạo,
là những việc không ăn chịu với câu nói trên của tôi, tôi cho là lạc đề. Nếu
ông muốn tranh biện cùng tôi cho rõ hội nhóm đúng luật đạo hay không, xin ông
chịu phiền hỏi riêng câu khác, tôi sẽ trả lời cho.
Nghị Trưởng: Ngày giờ ít, tôi xin hỏi chư Đạo hữu, ông Diệp
Văn Kỳ có quyền dự hội hay không?
Giáo Sư Ngọc Kỉnh
Thanh: – Chẳng đủ luật, không đặng phép dự.
Chưởng Pháp Nguyễn
Trung Hậu: – Tôi là Bảo Pháp bên HTĐ nay
Quyền Chưởng Pháp bảo giữ luật lệ cùa Đạo, tôi không công nhận ông Diêp Văn Kỳ
được quyền dự Hội hôm nay.
Diệp Văn Kỳ: – Vậy xin mấy ông nán đợi tôi về trả lời với ông Hộ Pháp coi Ngài còn
có phái ai đi thế quyền cho Ngài nữa không?
Quyền Ngọc Đầu Sư:
Tôi xin nói thêm ít lời cho ông Giáo Sư
Thượng Chữ Thanh hiểu: Hiền hữu thường nói việc hội hôm nay không đúng luật,
không đúng phép, không đủ số người hội viên. Đủ số thêm cho đông, cho nhiều,
càng thêm nhục nhã cho QGT, vì ông Ngọc Chánh Phối Sư Trần Duy Nghĩa mới nhìn
nhận lại nữa giữa đây rằng: QGT không xứng đáng phận sự.
Giáo Sư Thượng Chữ
Thanh: – Tôi ước ao, từ Giáo Tông sắp xuống
đều phải tuân theo luật đạo, ráng làm sao cho trúng luật thì rất may cho Đạo lắm
đó, chớ kẻ nhỏ mà bất tuân lớn, là không thông hiểu Đạo.
Lê Kim Tỵ: – Ngày hôm nay, chư Đạo hữu tề tựu đông đảo
mà quí ông cứ nói chuyện ngoại hoài, thì rốt cuộc vô ích. Vậy tôi xin cứ đem những
vấn đề trong tờ Vi bằng ra mà bàn tính.
Nghị Trưởng: – Xin nhắc lại cho Đạo hữu nhớ, trong lúc hội
nhóm, phàm muốn bàn cãi một vấn đề nào thì phải viện lý lẽ cho đủ và nhứt là chẳng
nên nhắc chuyện riêng, đừng có châm chích hay là nói dông dài mà mất ngày giờ,
vậy xin mấy ông không nên đem việc cá nhơn ra mà nói.
Bác vật Phan Lương
Báu, Đạo hữu ở Ô Môn: – Ngày nay, hơn
ngàn Đạo hữu đường xa về dự nhóm hội, rồi lại mấy ông nói không đúng phép, thế
thì Đạo hữu phải trở về hết hay sao? Tôi xin ví dụ: Như muốn ăn trái cam mà cứ
liếm ngoài vỏ thì bao giờ nếm được chất ngọt của nó. Vậy xin cứ đem các vấn đề
trong Vi bằng ra biện luận, chớ để cãi cọ dây dưa biết mấy ngày cho rồi.
Nghị Trưởng: – Tôi xin hỏi lời chót: Hãy lấy dạ vô tư,
tránh sự biện luận lạc đề. Buổi nhóm hội nay nói chuyện ông Giáo Tông mà thôi,
chớ đừng biện luận việc ngoài nữa. Vậy tự nãy giờ tranh luận cũng đã lâu rồi,
tôi xin đọc mấy khoản trong Vi bằng.
Chưa kịp đọc Vi bằng
thì ông Tiếp Thế và ông Diệp Văn Kỳ trở vào Bửu điện. Ông Tiếp Thế trình thơ.
Ông Nghị Trưởng xem rồi nói rằng: Buổi
nhóm hội sớm mai, ông Tiếp Thế đã từ hội về thì 2 cái giấy của QGT và Hộ Pháp ủy
quyền cho ông Tiếp Thế kể như đã hủy rồi. Chiều nay ông trở lại, chỉ cầm cái
thơ nầy là thơ riêng của Hộ Pháp gởi cho ông, chẳng phải là giấy ủy quyền của
QGT phái đến thay mặt. Vậy phiền ông nên về xin QGT ký tên vào bức thơ nầy, đặng
chứng rõ rằng Ngài còn giao quyền cho ông chiều hôm nay nữa.
Đến đây, ông Thượng
Bảy Thanh đứng dậy, lên tay nói lớn: –
Xin lỗi ông, tôi thuở nay vẫn kính trọng ông là người hữu tâm với Đạo, nhưng cử
chỉ của ông ngày nay lấy làm bất minh, ông lấy quyền nào chủ tọa Hội nầy? còn Hội
nầy là Hội gì? Lại ông vào Đạo hồi nào? Không ai biết.
Nghị Trưởng: – À, ông biết tôi là người hữu tâm với Đạo,
chẳng những vậy thôi, mà tôi còn hết lòng triêm ngưỡng Đạo Đức Chí Tôn nữa. Tuy
việc đời ràng buộc tôi ít lên đây, chớ tôi thường hầu đàn nơi khác. Tôi thọ chức
Giáo Sư. Có Thánh Ngôn, có văn bằng, ông không biết thì thôi, tôi biết làm sao
được. Từ khi mở Đạo đến giờ, thái độ của tôi vẫn công bình chánh trực, ông thấy
chỗ nào tôi thiên vị đâu mà dám gọi là bất minh? Chỗ nầy không phải chỗ nói lớn
tiếng, ông còn làm rầy, tôi xin mời ông ra khỏi Hội.
Ông Thượng Bảy
Thanh lại nói thêm rằng: – Nhà thờ nầy lập
ra nay thành ra trường diễn thuyết chớ không phải chỗ thờ phượng.
Nói rồi, ông ngó
ngay Quyền Ngọc Đầu Sư mà nói lớn: – Hiền
huynh Ngọc Trang Thanh, tôi cùng Hiền huynh sẽ đối diện ngày về cùng Thầy, Hiền
huynh thọ Thiên điều đừng trách.
Ông Thượng Bảy
Thanh liền đi ra khỏi Bửu điện thì Chưởng Pháp Nguyễn Trung Hậu kêu lại xin ông
trả giấy tờ bữa nhóm Thượng Hội.
Thượng Bảy Thanh: – Trả lại cho ai?
Nói rồi ông quày
đi liền. Cũng liền đó có một vị Đạo hữu đứng lên la nói om sòm, nói không ăn
thua vào đâu hết, nghe ra như nhà sư thuyết pháp vậy, bên nữ phái lại có một Nữ
Giáo Sư than khóc inh ỏi. (Vả lúc ấy nhà chuyên trách giữ trật tự chưa đến kịp,
nên phe phản đối thừa dịp khuấy rối cho mất điều êm tịnh.)
Nghị Trưởng: – Ông Tiếp Thế, buổi mơi tôi có mời mà ông
không ở lại, còn cái thơ ông đem lại buổi chiều nay là cùa Hộ Pháp gởi cho ông,
thì ông không đủ quyền nhóm hội.
Quyền Chưởng Pháp
Nguyễn Trung Hậu: – Nếu thơ nầy là thơ
riêng của Hộ Pháp gởi cho Tiếp Thế thì ông Tiếp Thế để dành lấy mà coi.
Tiếp Thế: – Sớm mơi được hai cái thơ cho thay mặt, em
tứởng em đủ quyền trọn buổi hội.
Nghị Trưởng: – Nếu buổi mơi ông đừng giận bỏ ra đi, thì
ông được trọn quyền dự hội, trái lại ông đã bỏ hội mà đi ra rồi giờ nầy trở lại,
sợ e QGT đã đổi ý, không khứng giao quyền cho ông nữa, xin ông về xin giấy thay
mặt khác.
Q. Chưởng Pháp
Nguyễn Trung Hậu: – Chỗ nầy chẳng phải chỗ
chơi, ai muốn đến muốn về chừng nào cũng đặng.
Tiếp Thế: – Vậy thì tôi xin lui.
Ông Nghị Trưởng khởi
đọc Tờ Vi Bằng Thượng Hội, khoản cáo thứ nhứt:
KHOẢN THỨ NHỨT
Về Đạo Nghị Định đề
ngày 5–1–1933 của QGT lập ra mà trục xuất tín đồ Nguyễn Văn Lịch (Kêu là Biện Lịch)
có Hộ Pháp đồng ký chỉ.
Quyền Ngọc Đầu Sư
tỏ rằng: Đây nói về phần luật pháp, không
phải nói đến phần phạm nhơn. Hễ tín đồ phạm luật Đạo, thì chiếu theo Tân Luật
(chương thứ 7 điều thứ 27) có Hội Công Đồng phán đoán. Hội nầy được quyền trục
xuất, chớ QGT không nên lạm quyền đặc biệt của Hội Công Đồng. QGT trục xuất Biện
Lịch như vậy là lạm quyền. Vả lại, QGT lo phần thiêng liêng, còn phần sửa trị
thì có Chức sắc khác giao thông với tín đồ. Theo ý Ngài thì Giáo Tông thường
hay ân xá hoặc giảm tội chớ không lẽ tăng, hoặc vì việc riêng mà trục xuất một
Đạo hữu nào có việc tư với mình. Lại Hộ Pháp có tỏ với Ngài rằng tưởng là Nghị
Định đuổi phạm nhơn ra khỏi Tòa Thánh, chớ không dè là trục xuất nên mới ký
tên.
Chư Hội viên đều
ngạc nhiên cho vị tối cao bên HTĐ là Hộ Pháp mà trước khi ký tên một tờ giấy
chi, chẳng chịu đọc cho hiểu tờ giấy ấy.
Tới đây, Chưởng
Pháp Lê Thiện Phước tỏ rằng: Vậy thì Hộ
Pháp cũng nhìn nhận rằng Quyền Giáo Tông không có quyền trục xuất tín đồ.
Chưởng Pháp Nguyễn
Trung Hậu tỏ rằng: Có dâng tờ kêu nài về
khoản ấy với Hộ Pháp đã lâu rồi, nhưng ngày nay chưa thấy định đoạt ra sao.
Lời quyết nghị của
Thượng Hội sau khi chư Hội viên bàn tính, thì Thượng Hội định hủy tờ Đạo Nghị Định
đề ngày 5-1–1933 nói trên đây, vì bất hợp pháp và giao phạm nhơn ra Hội Công Đồng
phán đoán y theo Tân Luật.
Luôn dịp, Chưởng
Pháp Nguyễn Trung Hậu tỏ rằng: Nghe Hộ Pháp giải rằng: Tòa Thánh và các Thánh địa chung quanh là của riêng của Quyền Giáo
Tông. Ngài lấy làm lạ vì Tòa Thánh với các Thánh địa là của chung, là giọt mồ
hôi của nhơn sanh, không lý nào của riêng của QGT vì chẳng phải QGT lấy tiền bạc
nhà mà sắm ra.
Chư Hội viên đồng
tỏ rằng, lời của Hộ Pháp nói ra như vậy không được chánh lý. Tòa Thánh là của cả
nền Đạo tức là của cả nhơn sanh, không ai được nói là của riêng của mình, vả lại
Đức Chí Tôn đã dạy rằng: Tòa Thánh là nhà chung của cả bổn đạo.
Đọc dứt khoản ấy,
ông Nghị Trưởng hỏi chư Đạo hữu rằng: Ai
có điều chi bào chữa hay là phản đối ông QGT chăng?
Chư Đạo hữu lẳng lặng,
không ai nói chi hết.
Ông Nghị Trưởng tiếp
đọc khoản thứ nhì:
KHOẢN THỨ NHÌ
Quyền
Ngọc Đầu Sư đọc Đạo Nghị Định đề ngày 11–2– 1933 của Quyền Giáo Tông và Hộ Pháp
ký tên về việc thăng ba Chánh Phối Sư lên địa vị Quyền Đầu Sư. Ngài tỏ rằng khi
Đức Lý Giáo Tông và Hộ Pháp đã lập 6 Đạo Nghị Định thì cái Nghị định thứ hai
ngày mùng 3–10–Canh Ngọ (22–11–1930) đã thăng 3 Chánh Phối Sư lên Đầu Sư rồi,
sau lại có một Đạo Nghị Định nữa ngày 30–11–1930 của Hộ Pháp và Đức Lý Giáo
Tông đã ban hành đặc biệt rồi, nên không cần phải lập thêm Đạo Nghị Định ngày
11–2–1933 làm gì nữa.
Vả lại, quyền
thăng thưởng cho Chức sắc là của Chí Tôn với Tam Trấn, chớ dưới thế nầy không
ai được quyền thăng thưởng chức cho một người khác, vì vậy nên Ngài xin hủy Đạo
Nghị Định nói trên đây. Theo lời bàn của Chưởng Pháp Lê Thiện Phước và Nguyễn
Trung Hậu thì Thượng Hội định không hủy Đạo Nghị Định ấy, nhưng sửa chữ thăng
ra chữ giao mà thôi.
Về khoản nầy cũng
không có ai ra nói chi hết.
Ông Nghị Trưởng
nói: Vậy thì chư Đạo hữu đều nhìn nhận 2
khoản ấy đúng với sự thật.
Tới đây, ông Nghị
Trưởng có hơi mệt, xin nhường lại cho ông Quyền Ngọc Đầu Sư đọc tiếp.
Ông
Quyền Ngọc Đầu Sư đọc khoản thứ ba:
KHOẢN THỨ BA
Quyền Ngọc Đầu Sư
tỏ rằng từ mùng 3–10–Canh Ngọ, tuy Đức Lý Giáo Tông đã lập Đạo Nghị Định ban quyền
cho mỗi vị Đại Thiên phong, nhưng QGT Thượng Trung Nhựt nắm cả quyền hành Giáo
Tông và Đầu Sư. Xin xem các Châu Tri sau đây và thơ QGT gởi cho ba vị Chánh Phối
Sư thì rõ.
Chưởng Pháp Lê Thiện
Phước hỏi: Sao khi đó không phản kháng,
thì Quyền Ngọc Đầu Sư trả lời rằng: Thật
khi ấy Ngài chưa rõ quyền hành Quyền Đầu Sư tới đâu và hai vị Quyền kia cũng vậy.
Ngài nhớ chắc rằng, Hộ Pháp có nói quyền
hành của Ngọc Chánh Phối Sư sắp xuống.
Chưởng Pháp Lê Thiện
Phước hỏi, vậy có điều chi hại Đạo chăng?
Thì Quyền Ngọc Đầu
sư tỏ rằng: nay nói ra đây cho biết việc
trên phạm quyền dưới, làm cho 3 Quyền Đầu Sư không rõ quyền hành của mình
(xem Vi bằng ngày 25–12–32).
Quyền Thượng Đầu Sư
cũng để lời than: Anh Cả nay nắm quyền
Giáo Tông, mai nắm quyền Đầu Sư, nên 3 vị Cựu Chánh Phối Sư chỉ có biết tuân
theo lịnh trên hành sự mà thôi.
Quyền Ngọc Đầu Sư
tỏ rằng: QGT lập Châu Tri gởi ngay cho Chức
sắc và Đạo hữu, không tuân y Pháp Chánh Truyền, nắm một lượt 2 quyền thì là lạm
quyền đó. Lớn lấn quyền nhỏ thì phạm tội, phải giải ra Tòa Tam Giáo. Cũng có
nhiều khi Quyền Ngọc Đầu Sư bàn tính với Quyền Giáo Tông xin lãnh hành chánh
QGT thiệt thọ đi thì Ngài nói không dám, để ở địa vị Đầu Sư. Câu trả lời nầy
nghe rất khiêm tốn mà ý trí sâu xa. Vì lớn phạm quyền nhỏ nên 3 Quyền Đầu Sư
không được rõ quyền hành của mình. Vả lại Hộ Pháp rõ biết việc lạm quyền nầy
nhưng không có chỉ giải, để đến sau đây mới tỏ ra. Thật tình Quyền Ngọc Đầu Sư
không rõ quyền hành ấy, nếu thuở giờ
mà rõ biết thì QGT không thế nào lạm
quyền được.
Nghị Trưởng tỏ rằng:
QGT có ý làm như vậy đặng dụng lưỡng quyền, tùy theo hoàn cảnh tiện lợi cho
mình.
Chưởng Pháp Nguyễn
Trung Hậu tỏ rằng: Hễ nắm nơi tay 2 quyền hành chẳng phải trọn của mình đặng lợi
dụng thì phạm luật đó.
Quyền Ngọc Đầu Sư
tỏ thêm rằng: Mới rồi đây, giữa Hội Thánh và trong tờ Vi bằng của HTĐ nhóm hôm
11–2– 1933, Hộ Pháp có nói rằng, 3 Quyền Đầu Sư nắm 2 quyền trong tay, muốn làm
sao tự ý, nên Ngài phải nói ra đây cho rõ rằng hồi giờ (từ năm 1930) Chánh Phối
Sư, Quyền Đầu Sư, lo việc hành chánh theo trách nhậm Chánh Phối sư hết 9 phần một
hai khi chỗ nào có cần dùng tới chức Đầu Sư thì mới đem lên thế vị đó vậy, thời
Ngài tưởng cho Hộ Pháp phải nói rằng: Quyền Giáo Tông nắm 2 quyền một lượt mới
là phải, vì không lẽ 2 việc quyền, như một (Quyền Đầu Sư và Quyền Giáo Tông) mà
thấy cái nầy, không thây cái kia, nghĩa là thấy Đầu Sư chuyên quyền mà lại
không thấy Giáo Tông chuyên quyền.
Sau khi Hội viên
bàn tính, thì Thượng Hội định rằng: QGT Thượng Trung Nhựt, biết mình đã được
thăng chức QGT mà khi thì dùng Quyền Đầu Sư, khi thì dùng QGT, thì là lạm quyền.
Chiếu theo Đạo Nghị Định thứ nhứt ngày 22–11–1930 của Đức Lý G. Tông thì phạm tội,
phải giải ra Tòa Tam Giáo.
Dứt khoản thứ 3,
ông Nghị Trưởng hỏi chư Đạo hữu có ai bào chữa cho QGT không?
Khi ấy có Đạo hữu
Phò (Thơ ký Nội Chánh mới của QGT) đứng ra nói:
Sớm mơi ông Tiếp
Thế đã được lịnh thay mặt cho QGT, sao chiều nay ông Nghị Trưởng không cho?
Nghị Trưởng: – Sớm
mơi ông Tiếp Thế tự quyền cáo thối, thì 2 tờ thay mặt kia kể như đã hủy rồi,
nay muốn trở lại dự hội thì phải xin giấy ông QGT ủy quyền lại mới được. Tưởng
chẳng thất công chi, chỉ viết vài chữ, ký tên là đủ.
Thượng Chữ Thanh:
– Tôi ao ước sao Hội vui lòng nhóm lại một lần nữa cho đúng luật lệ, cho ông
QGT có đủ ngày giờ đến dự.
Quyền Ngọc Đầu Sư:
– Ông muốn vậy, theo ý tôi cũng được.
Nghị Trưởng: – Như
vậy thì dây dưa ngày giờ lắm. Chúng ta nhóm đây là cốt công luận coi ông QGT có
lỗi không, thiết tưởng nhóm như buổi hôm nay cũng đủ rồi, chớ mỗi lần nhóm thì
hao phí, mất ngày giờ cho nhơn sanh chẳng ít, song giữa đây muốn cho công bằng,
tôi xin hỏi trong Vạn Linh, ai định nhóm một lần nữa?
Nhơn sanh lại rập
nhau một tiếng nói: không bằng lòng.
Qụyền Ngọc Đầu Sư:
Vì nghe một phần Đạo hữu không rõ luật pháp của Đạo, cho rằng làm việc nầy là bất
công bất chánh, nên tôi xin nhắc một việc Đạo hữu Lịch và hỏi các Đạo hữu, nhứt
là Giáo Sư Thượng Chữ Thanh có biết QGT đặng phép trục xuất ai không?
Thượng Chữ Thanh:
– Xin ông Nguyễn Trung Hậu trả lời giùm.
Chưởng Pháp Nguyễn
Trung Hậu: Hộ Pháp đã nói là sái phép rồi. Đoạn ông Quyền Ngọc Đầu Sư liền đọc
Tờ Vi bằng nhóm hội hôm 19 tháng chạp năm rồi, cho chư vị biết rằng Hộ Pháp
cũng nhìn nhận QGT lập Nghị Định mà trục xuất như vậy là sái phép, vì quyền trục
xuất tín đồ là quyền đặc biệt của Hội Công Đồng.
Thượng Chữ Thanh:
– Xin hãy kể tội cùa Đạo hữu Lịch ra cho công chúng rõ.
Nghị Trưởng: –
Trong tờ Vi bằng không có nói Đạo hữu Lịch có tội hay không có tội, mà chỉ nói
việc QGT trục xuất như vậy là lạm quyền.
Khi ấy, một vị Nữ
Giáo Sư hỏi lớn lên rằng: – Ông Nghị Trưởng
tọa chủ trước Bửu điện sao không mặc Thiên phục? (Ghi chú: Vị Nữ Giáo Sư nầy
là Bà Hương Lự (Hồ Thị Lự).
Nghị Trưởng: – Tôi
vốn lấy tư cách nhà báo lên dự thính, nên mặc âu phục, tình cờ lại được toàn cả
chư Đạo hữu tín nhiệm cử lên ghế Nghị Trưởng, vì vậy mà tôi không có Thiên phục.
Lê Kim Tỵ: – Anh
em chúng ta đã công nhận ông Nghị Trưởng là người đủ tư cách chỉ huy cuộc tranh
biện ngày nay, vậy là đủ rồi, mặc Thiên phục cùng không, ấy là điều
không quan hệ chi cho mấy.
Nghị Trưởng: Trình
cùng chư Hội viên, tôi mới được giấy của ông Diệp Văn Kỳ xin hội cho phép hỏi
vài câu trong luật lệ Đạo.
Chư Hội viên đều
cho phép.
Ông Diệp Văn Kỳ liền
đứng nói: – Thưa quí Ngài, trước khi xin
hỏi vài câu, tôi xin tỏ trước cho quí ngài biết tôi là người ngoại Đạo. Song
tôi thấy suốt trong bổn đạo dự nhóm đây, chọn cử ông bạn đồng nghiệp Nguyễn
Phan Long lên làm Nghị Trưởng, chứng buổi hội nghị nầy và cũng nhờ đó, mà tôi
được biết rằng ông bạn đồng nghiệp đã vào Đạo lâu rồi, lại được Ơn Trên ban
Thiên chức thì tôi lấy làm mừng giùm cho Đạo. Cái thái độ ôn hòa đúng đắng của
ông Nguyễn chẳng những làm cho rực rỡ buổi nhóm hội hôm nay mà rồi đây, Đạo
cũng sẽ nhờ đó được bước lên con đường vẻ vang sáng sủa.
Tôi sở dĩ muốn hỏi vài điều là cốt cho thấu hiểu pháp
luật của Đạo, chớ chẳng phải lãnh thay mặt cùng binh vực ai.
Theo như Tân Luật của Đạo mà tôi được thấy, thì có một
khoản nói về Giáo Tông như vầy: “Chưởng Pháp phải can gián sửa lỗi của Giáo
Tông nếu cả ba thấy lẽ vô đạo của Giáo Tông, có quyền đem đơn kiện nơi Tòa
Thánh.
Luật nầy coi dường như không được phân minh cho mấy. Một
việc rất trọng hệ là việc đem Giáo Tông ra xử mà luật lệ nói tóm tắt như vậy,
thì tôi sợ chưa được hoàn toàn.
Còn Quyền Vạn Linh là gì?
Có phải là quyền gồm cả 3 cơ quan yếu trọng: Thượng Hội,
Hội Thánh, Hội Nhơn Sanh chăng?
Ngày hội hôm nay có phải là ngày Hội Vạn Linh chăng?
Tôi xin nói rõ: Thế nào là Thượng Hội? Thế nào là Hội
Thánh? Thế nào là Hội Nhơn Sanh?
Theo lệ thì Thượng Hội gồm 9 vị Chức sắc trọng yếu
trong Đạo, kể từ Đầu Sư sắp lên cho đến Giáo Tông. Ấy vậy mà buổi nhóm hôm nay,
Thượng Hội thì như tuồng có 6 vị, song 6 vị đều là người đứng buộc tội Giáo
Tông, thì bữa nay là ngày xử, tôi e cái quyền hành 6 vị ấy phải ở trong phạm vi
rất hẹp hòi: vừa buộc tội, vừa xử cũng hơi khó liệu.
Còn Hội Thánh? Hội Thánh hôm nay có những ai hiện diện?
Theo số Chức sắc mặc Thiên phục tôi thấy đây thì tôi tưởng e về phương diện Hội
Thánh cũng còn thiếu nhiều lắm!
Vậy mà thôi, 2 cái cơ quan ấy thiếu đủ thế nào tôi xin
nhượng quyền ây lại cho quí Ngài thẩm phán.
Hội Nhơn Sanh là ai? Cứ theo luật thì Hội Nhơn Sanh là
cái Hội gồm đủ các Chức sắc trong các địa phận, trong các Thánh Thất, các phái
viên của các tín đồ nam nữ. Và theo phép, thì mỗi Thánh Thất có 4 Chức sắc: 1
ông Giáo Sư, 2 ông Chánh Phó Trị Sự và 1 ông Thông Sự. Còn đại biểu cho tín đồ
thì mỗi số 500 tín đồ được phép cử 1 người đại biểu, trên số 500 tín đồ thì được
phép cử 2 người đại biểu, vv...
Số Thánh Thất của Đạo là 130 cái, số tín đồ theo bảng
’thống kê là lấy triệu mà kể. Ấy vậy mà quí ngài hãy nhìn thử chung quanh mấy
ngài, tính luôn cả mấy đứa trẻ em nhỏ dại đương ngồi ngó không hiểu chi hết
cũng chưa trên số vài trăm người thì sao gọi là nhơn sanh?
Thưa quí Ngài,
Trong các Hội phàm tục của chúng tôi mà mỗi khi đến kỳ
đại hội muốn giải quyết điều chi cho đắc thế, cũng cần có định trước một số hội
viên hiện diện tối thiểu, tiếng tục kêu là “quorum” thay, huống chi đem Giáo
Tông ra xử, là một việc theo dốt của tôi chẳng bao giờ thấy trong lịch sử tôn
giáo mà làm khinh xuất như vầy, chẳng phạm đến sự tôn nghiêm của quí Đạo ư? Tôi
tưởng làm như thế chẳng những là sái với luật của Đạo mà lại đốì với thường thức
của người phàm như tôi cũng chưa được hợp lý.
Quyền Ngọc Đầu Sư
(Lê Bá Trang): – Ông Diệp nên biết rằng, việc đời có chỗ khác hơn việc Đạo, việc
Đạo bình thường thì dễ giữ theo luật lệ, chớ gặp hồi biến, nền Đạo chinh
nghiêng như ngày nay, không dễ gì giữ y theo luật lệ được. Vả lại nền
Đạo hư nên là ở phần trách cứ nơi tôi, theo lời phú thác của Đức Lý Giáo Tông, cho nên ngày nay
thấy ông QGT làm nhiều việc sái luật đạo và thất nhơn tâm, tôi buộc lòng phải mời
nhóm Hội Vạn Linh để chỉ lỗi Ngài ra cho nhơn sanh biết mà định đoạt hầu chấn
chỉnh nền chánh giáo lại cho hoàn toàn, sau nữa coi có làm điều chi hiếp đáp
không, chớ chưa phải là Hội xử QGT như ông lầm tưởng đâu.
Ông lại nói, hội
nhóm không đủ số, làm sao ông biết đủ hay là không đủ? số Đạo hữu kể gần đến
triệu người, có thế nào hội về một lượt cho đủ đâu. Thêm nỗi, 3 Quyền Chánh Phối
Sư ra Châu Tri ngăn cấm Đạo hữu không cho về dự hội, còn như sớm mai đến giờ,
ông đã thấy rõ cách ngăn cấm của QGT và Chức sắc theo Ngài làm sao?
Diệp Văn Kỳ: – Vậy thì ông có cho hội nhóm hôm nay không
đủ luật lệ không?
Quyền Ngọc Đầu Sư:
– Luật lệ của Đạo chỗ nào cũng còn thiếu hết. Buổi hội nhóm nay cũng chưa đủ luật
theo ý ông muốn cho y như hội nhóm ngoài đời. Mà thôi, việc thiếu đủ đôi chút
không quan hệ chi, chờ cho đủ luật mà Đạo phải bị hại, tưởng không chờ làm chi,
còn thiếu luật lệ mà cứu được Đạo khỏi chinh nghiêng thì tôi tưởng việc thiếu
đó không sao.
Quyền Chưởng Pháp
Nguyễn Trung Hậu: – Xin ông Quyền Ngọc Đầu Sư cho tôi biết Hội Thánh và Hội
Nhơn Sanh nhóm mấy kỳ trước có quyết định số Đạo hữu hiện diện là bao nhiêu
không?
Quyền Ngọc Đầu Sư:
– Không.
Quyền Chưởng Pháp
Nguyễn Trung Hậu: – Nếu mấy kỳ nhóm trước không buộc số quyết định ấy thì bây
giờ không thế bắt chặt lỏng về số bổn đạo hiện diện nhiều hay ít vì đã có gương
trước kia mà. (Il y a un precedent, Maitre)
Ông Diệp Văn Kỳ cười,
đoạn cùng ông Nguyễn Thế Phương ra về. Khi ấy lối chừng 4 giờ rưỡi.
Quyền Ngọc Đầu Sư
đọc khoản cáo thứ tư:
KHOẢN THỨ TƯ
Quyền Ngọc Đầu Sư
trình Châu Tri số 1 ngày 1–4– 1933 (mùng 7 tháng 3) của QGT và Hộ Pháp lập ra,
có bài Bố cáo của ba Chánh Phối Sư tạm và tỏ rằng, cách ít bữa rày (11– 4–1933)
Ngài có gặp Quyền Thượng Chánh Phối Sư nói rằng, khi đến Giáo Tông Đường mới là
hay cái Châu Tri đó. Còn chiều hôm kia (14–4–1933), Quyền Thái Chánh Phối Sư đến
phòng thăm, Ngài hỏi thì có cho Ngài biết rằng không có ký tên cái tờ Bố cáo in
vô trong Châu Tri số 1, vì là chữ in, có phải ký tên sau, mà nói là người ký,
cái đó là QGT và Hộ Pháp nay nắm Quyền Chí Tôn mà làm ra Châu Tri ấy, rồi tái
bút lập luôn bài Bố cáo ấy.
Lại lúc Ngài đi khỏi,
tại Giáo Tông Đường có sai người đến văn phòng Ngài lấy con dấu Ngọc Chánh Phối
Sư đặng ấn vào Châu Tri ấy. Khi về mới hay cử chỉ ngang ngược đó.
Chưởng Pháp Nguyễn
Trung Hậu tỏ rằng: Trong Châu Tri số 1 nói trên đây, trương thứ 5, QGT tuân y
Thánh Ngôn của Chí Tôn ngày 23–12–1931, Ngài và Hộ Pháp nhứt định dụng Quyền
Chí Tôn giúp cho 3 vị Chánh Phối Sư đủ quyền thi hành chương trình hành đạo
đính theo Châu Tri ấy, nhưng mà theo Thánh Ngôn đó, thì Chí Tôn có dặn như vầy:
“Vậy từ đây, hễ có mạng lịnh chi đã đủ hai đứa
nó (là Lý Giáo Tông và Hộ Pháp) hạ quyền thì các con phải hội đủ Nhơn sanh, Hội
Thánh và Thượng Hội mà xét nét cho cặn kẽ phân minh, đặng thi hành phận sự.”
Ấy vậy là chính
mình Đức Lý Giáo Tông giáng hạ lịnh, cũng còn phải nhóm 3 Đài nói trên đây lại
mà xét, huống chi là QGT Thượng Trung Nhựt, hiện thời trách nhậm Ngài chỉ do
theo tờ Vi bằng của Thượng Hội nhóm hôm 25–12–32 nhằm 28–11–Nhâm Thân, trương số
9 mà thôi.
Trách nhậm ấy như
sau đây: “Phần Quyền Giáo Tông thì chi chi cũng cầu hỏi nơi Đức Lý Giáo Tông dạy
bảo mà ban hành theo cho khỏi điều lầm lạc sơ sót, vì hễ là người thì thân phàm
xác thịt, nếu lấy ý riêng ra mà làm thì phải có điều trở ngại. Mỗi vị đương quyền
lãnh một chức đặc biệt thì 3 ngôi Chánh Phối Sư sẽ trống. Vậy thì Quyền Giáo
Tông chọn lựa trong mấy vị Phối Sư đương quyền mà giao chức ấy, thoảng như khiếm
khuyết Phối Sư thì chọn lựa trong hàng Giáo Sư, rồi đem trình cho 3 Đài là Hội
Nhơn Sanh, Hội Thánh và Thượng Hội công nhận theo phép. Việc nầy đình lại cho
Quyền Giáo Tông một tuần, đặng chọn lựa người.
Tóm lại thì QGT và
Hộ Pháp lập Châu Tri số 1 và giao trách nhậm Chánh Phối Sư cho 3 vị Thời Quân
HTĐ là trái với lời quyết nghị trên đây và không đem ra trình cho 3 Đài thì lại
là một sự trái thêm nữa.
Nghị Trưởng tỏ rằng:
Làm đạo như vậy là muốn chuyên quyền, là độc tài (dictature).
Chưởng Pháp Lê Thiện
Phước: Hỏi vậy chớ Pháp Chánh Truyền có giá trị hơn hay là Thánh Ngôn chưa
kiểm duyệt?
Chưởng Pháp Nguyễn
Trung Hậu đáp lại rằng: Chiếu theo chương trình về Cơ Bút của HTĐ và CTĐ lập ra
ngày 24–1–1932 mà Quyền Thượng Đầu Sư đã ra Châu Tri thi hành ngày 1–2–1932 số
42 thì bài giáng cơ nào không có Bàn Kiểm Duyệt xem xét thì Hội Thánh không
phép nhận và đem ra thi hành. Tờ Châu Tri số 1 ngày 1–4–1933, nguyên vì chiếu
theo bài giáng cơ ngày 14–2–1933 tại Kim Biên và chấp bút ngày 10–3–1933 mà lập
ra, nhưng 2 bài nầy không đủ thức lệ buộc trong Châu Tri số 42 trên đây nên Thượng
Hội không công nhận, vì vậy nên hủy Châu Tri số 1.
Quyền Ngọc Đầu Sư
chỉ về chương trình hành đạo của 3 Chánh Phối Sư trong Châu Tri số 1 trên đây,
khoản Phái Ngọc điều 3, về việc thăng chức cho Chức sắc có câu: Sau khi đem ra
ba Đài công nhận thì Giáo Tông và Hộ Pháp ra Đạo Nghị Định phong chức. Ngài tỏ
rằng 2 vị Đại Thiên phong nầy không có quyền phong chức cho ai hết, khi 3 đài
công nhận rồi, phải cầu Chí Tôn giáng cơ thăng thưởng.
Chưởng Pháp Nguyễn
Trung Hậu tỏ rằng: Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh mỗi năm nhóm có lệ, không lẽ mỗi việc mỗi
mời nhóm cho mất ngày giờ và tốn kém cho hội viên.
Chưởng Pháp Phạm
Văn Tươi nói rằng: Có Hội Nhơn Sanh thường xuyên. Vậy như chưa tới kỳ nhóm thường
lệ mà có việc chi cần kíp thì nhóm Hội thường xuyên mà bàn tính.
Vừa đọc dứt khoản
tư, ông Nghị Trưởng hỏi trong Hội viên: Ai muốn bào chữa điều chi cho QGT
không?
Không có ai xin
nói chi hết.
Đọc qua khoản thứ
5:
KHOẢN THỨ NĂM
Quyền Ngọc Đầu Sư
đọc bài Thánh giáo của Chí Tôn đề ngày 14–2–1933 do Hộ Pháp và Tiếp Đạo phò
loan tại Kim Biên có câu: “Khi Đại Hội Ngọc
Hư Cung, ...”
Chiếu theo Thánh
giáo ấy, trọn CTĐ từ Quyền Giáo Tông đổ xuống, tranh quyền phá hư vẻ Đạo thì phải
bị tội hết, cả quyền hành của CTĐ phải về tay HTĐ nắm trọn. Như có câu: trả quyền
hành chánh cho HTĐ thì phải hiểu như vầy: quyền hành chánh ấy trước vẫn của HTĐ
nên nay mới trả lại.
Thượng Sanh nói rằng:
Từ thử chưa có Thánh giáo nào nói về khoản đó, chỉ thấy trong Pháp Chánh Truyền
nói rằng: Hiệp Thiên và Cửu Trùng, mỗi đài đều có quyền đặc biệt. Quyền HTĐ là
quyền tư pháp, còn quyền CTĐ là quyền hành chánh. Trả quyền hành chánh cho HTĐ
là một điều vô lý.
Chưởng Pháp Nguyễn
Trung Hậu hỏi Quyền Ngọc Đầu Sư: Tại làm sao khi làm lễ đăng điện chịu làm
theo, không phản kháng, thì Ngài trả lời rằng: Lúc đó Quyền Giáo Tông ra lịnh
thi hành. Ngài có kêu nài, mà nhắm thế không được nên phải tuân đỡ cho yên việc
tại Bửu điện (Faire acte de soumission) rồi sau sẽ nói. Vì lúc ấy Quyền Giáo
Tông ngồi tại ngai mà ra lịnh, Quyền Thái Đầu sư thì vâng lịnh liền, Quyền Thượng
Đầu Sư thì khóc, nên tôi không vâng theo không được, không lẽ để cãi lẫy nơi
ngai.
Sau khi Hội Viên
bàn tính thì Thượng Hội quyết định:
A.
Hủy
bài gỉáng cơ ngày 14–2–1933 vì không y theo thể lệ cầu cơ đã lập ra rồi, nhứt
là không phải nơi QGT cầu xin mà ra bài đó. Hai là bài nầy không cầu nơi bửu điện
HTĐ. Ba là không đủ mặt Chức sắc có trách nhậm theo “Chương trình Cơ bút” hầu đàn. Bốn là Hội Thánh Ngoại Giáo duy có cầu
cơ hỏi về phần mình mà thôi. Còn việc can hệ với Tòa Thánh mà có bài giáng nói
đến thì Tòa Thánh phải kiểm xét lại.
Chưởng Pháp Nguyễn
Trung Hậu xin Hội Thánh Ngoại Giáo khi nào có bài giáng cơ nói về Tòa Thánh thì
xin các Đấng cho phép cho Tòa Thánh hay mà cầu lại.
B.
Hủy
bài Chấp bút của Hộ Pháp ngày 10–3–1933 tại Hộ Pháp hay là Giáo Tông Đường. Chấp
bút để dùng học riêng cho mình, không được đem ra ban hành.
C.
Bài
giáng cơ ngày 23–12–1931 tại Thảo Xá Hiền Cung thì phải giao cho Bàn Kiểm Duợt
xem xét trước rồi mới ban hành.
D.
Hủy
Tờ Châu Tri số 1 ngày 1–4–1933 (tháng 3 năm Quí Dậu) vì Quyền Giáo Tông và Hộ
Pháp lạm quyền, lấy ý riêng mà đặt ra.
E.
Phải
tuân theo các lời quyết nghị trong tờ Vi bằng Thượng Hội ngày 25–12–1932 đã
tuyên bố rồi.
F.
Giao
3 vị Thời Quân đã qua CTĐ lãnh chức Chánh Phối Sư tạm về HTĐ tái thủ nguyên chức
và chọn lựa 3 Chánh Phối Sư khác y theo tờ Vi bằng nói trên đây.
Nghị Trưởng: – Chư
Đạo hữu có ai tranh cãi khoản thứ 5 không?
Chẳng có ai nói
chi.
Khi tới khoàn thứ
6, ông Nghị Trưởng đứng nói: – Xin chư Đạo hữu ráng lẳng lặng nghe rõ khoản thứ
6. Khoản nầy rất quan hệ, có dính dấp với việc đời, thoảng có ai cáo ra tòa đời
thì còn gì danh giá Quyền Giáo Tông.
Quyền Ngọc Đầu Sư
đọc khoản cáo thứ 6:
KHOẢN THỨ SÁU
Quyền Ngọc Đầu Sư
tỏ rằng: Nguyễn Ngọc Lịch kêu là Biện Lịch có vô 3 lá đơn kêu nài việc Quyền
Giáo Tông Thượng Trung Nhựt bán đất không phân minh. Tiên cáo có nạp một cái
biên lai 200 $ làm bằng, giấy có in danh hiệu Đại Đạo và ký tên TRUNG. Quyền Ngọc
Đầu Sư vì lòng kính nể bề trên và làm theo phép, nên phong gởi các đơn từ cho
QGT mà hỏi ý kiến, thì QGT trả lời cho Quyền Ngọc Đầu Sư rằng cứ coi giấy tờ ấy
mà xử, như có tội thì Ngài chịu.
Quyền Ngọc Đầu Sư
tiếp rằng: Nếu Ngài muốn dùng quyền Tòa Tạp Tụng thì cứ gởi tờ đòi bị cáo là M.
Lê Văn Trung đến đối nại cũng được, song không nỡ và lại mắc nhiều điều xảy đến
liền liền hoài nên không thể lo riêng vụ ầy đặng.
Chư Hội viên định
rằng: Ngày nay Ngọc Chánh Phối Sư lên Quyền Đầu Sư thì các đơn từ ấy nên giao lại
cho Tân Ngọc Chánh Phối Sư định đoạt.
Quyền Ngọc Đầu Sư
tỏ rằng: QGT có lãnh bạc ngàn của Đạo hữu đặng mua giùm đất rừng, có làm giấy
ký tên rõ ràng, mà đến nay việc giao lãnh đất cát không rành rẽ gì hết, kẻ có đất,
người không. Đạo hữu kêu nài không ngớt, đơn từ giao lại đặng trả lời cho người
ta mà Ngài không làm cái chi cho minh bạch cho hết việc thán oán. QGT thâu tiền
mua đất rồi, phần đất của ai chỗ nào không biết chắc, không tờ giấy gì cho rành
rẽ, để tới có người hăm kiện đến Tòa đời và có người hết sức kêu nài rồi bỏ
luôn số bạc. Xin coi cái biên lai 160 $ của 2 người ở Chợ Lớn thì rõ. Có một Chủ
Thánh Thất lãnh bạc mua đất giùm cho một vài chục Đạo hữu ở Tân An mà đến nay
cũng không biết đất cát ở chỗ nào. Thơ từ năn nỉ, kêu nài, không biết mấy cái,
thét rồi phải đến tận Văn phòng Giáo Tông mà rầy rà, nhục nhã đòi tiền lại, buộc
phải trả tiền lời. QGT kỳ hẹn một đôi tháng, nay cũng mãn rồi, mà cũng chưa có
chi hết cho người ta. Nếu kiện thưa ra không khỏi bị án.
Vả lại, đất rừng ấy
của 2 người Lang sa khẩn chưa khai phá, chưa có giấy tờ vĩnh viễn, Đạo hữu nghe
lời mua đất không có bằng cớ chi cầm tay hết. Thoảng đất ấy nhà nước lấy lại,
hoặc chủ đất hoặc người làm trung gian từ trần, rồi Đạo hữu mua đất mới làm
sao?
Bởi lòng vị nể,
không nỡ đòi xử, nên Quyền Ngọc Đầu Sư gởi các đơn từ cho QGT toan liệu cho an
việc. Vả lại thấy Ngài nghèo nàn, nên cũng nhắm mắt để cho kiếm chút lợi, miễn
là đâu vào đó, làm cho xuôi được thì thôi hầu có yên trí mà lo việc Đạo. Ngài
chịu cái lỗi ấy.
Ngài xin Hội viên
cho biết việc QGT làm như vậy có nhục đến danh giá của người và danh Đạo chăng?
Chư Hội viên nghĩ
vì đã mấy năm nay, QGT mỗi tháng có lãnh của Hội Thánh 50 $, có nhà cửa ở tử tế,
trong Đạo phụng dưỡng trọng thể và lại là một vị tối Đại Thiên phong chủ trương
một nền Đạo, Anh Cả nhơn sanh, phải phế đời lo trọn cho Đạo, nên Thượng Hội
nhìn nhận rằng QGT Thượng Trung Nhựt không được phép lo việc đời, lo buôn bán để
sanh lợi. Còn về việc mua bán đất cát không phân minh, để đến người vào Thánh địa
đòi hỏi nhục mạ thì can hệ đến phẩm giá tối cao tối trọng của Quyền Giáo Tông
và cho Đạo nữa.
Đọc tới khoản “vài chục Đạo hữu ở Tân An mua đất” thì
có một vị Đạo hữu kêu là Cựu thôn trưởng Lưu, hiện đương làm chủ Thánh Thất
Bình Quới, hạt Tân An đứng ra khai rằng: Số bạc tôi lãnh của chư Đạo hữu đặng
mua giùm đất là 1400$. Tôi giao cho QGT hồi năm 1930, QGT có nói rằng mua giùm
mỗi mẫu đất là 50 $, tới nay đã lâu mà không thấy đất cát chi hết.
Cũng liền đó, có một
vị Đạo hữu đã có giao số bạc cho Đạo hữu Lưu ra nói sẽ vào đơn kiện nơi tòa đời.
Nghị Trưởng: Đạo hữu
khoan đã, chúng ta nên điều đình trước với QGT, chừng nào không được, Đạo hữu sẽ
ra tòa đời cũng chẳng muộn chi. Mình phải thương Thầy mến Đạo, việc trong nhà
mình tính với nhau là phải hơn, phương ngôn có câu: Phải giặt áo dơ trong nhà.
Quyền Ngọc Đầu Sư
đọc tiếp khoản cáo thứ 6, vừa dứt khoản nầy thì ông Nghị Trưởng hỏi chư Đạo hữu
có ai nói thêm điều chi không?
Quyền Ngọc Đầu Sư:
Tôi xin cắt nghĩa việc chia đất của QGT mua cho Đạo hữu: QGT giao cho 2 người
là Lễ Sanh Thượng Tài Thanh và Đạo hữu Xướng coi sở đất 113 mẫu. Xướng thì lãnh
phần đốn củi bán, mỗi mẫu trên 500 thước củi, giá mỗi thước là 0$20. Khi Đạo hữu
đưa tiền rồi mà chưa biết đất ở đâu kêu nài thì QGT dạy Lễ Sanh Thương Tài
Thanh lo chia. Cách chia như vầy: Sở đất 113 mẫu nằm theo đường dây thép, nơi
cây số 2000, mặt tiền được 500 thước, sâu vô 2000 thước, cắt làm hai, lấy 1000
thước trở ra ngoài mặt tiền chia cho 3 Đạo hữu có mặt, mỗi người 10 mẫu, rồi về
phải chia lại cho vài chục người khác. Chia rồi, Đạo hữu ở xa đến sau, chưa có
phần, kêu nài nữa và không chịu ở phía sau, lại đất bị đốn củi gần hết. Khi
mua, cả năm ba chục Đạo hữu đều kể chắc là đất có cây, không dè đốn hết chừa gốc
lại, nay muốn khai phá, phải tốn thêm tiền lấy gốc nên không chịu, kẻ đến đòi tiền
lại, người thì hăm kiện.
Quyền Ngọc Đầu Sư
vừa nói rồi thì có 3 vị Nữ Đạo hữu đem ra 3 biên lai, trình cho ông Nghị Trưởng
mà nói rằng: có giao số bạc cho QGT ba năm rồi, mà không có được đất. Ba biên
lai kể dưới đây:
1.
Phạm
Thị Chi ở Phước Lâm 150 $ (3 mẫu)
2.
Trẩn
Thị Mực ở Phước Hậu 200 $ (4 mẫu)
3.
Mai
Thị Cúc ở Phước Lãm 400 $ (8 mẫu)
Rồi ông Nghị Trưởng
hỏi thêm: Có ai nói chi nữa không? Không thấy ai kêu nài điều chi.
Quyền Ngọc Đầu Sư
đọc khoản thứ 7:
KHOẢN THỨ BẢY
Quyền Ngọc Đầu Sư
trình ra một cái giấy vay 300 $ đề ngày 11–11–1931 của QGT viết và ký tên. Bạc
nầy QGT mượn của một vị Hòa Thượng Tàu tên là Âu Tu ở Chợ Lớn, nói rằng để gởi
bên Pháp in Thánh Tượng, kỳ một tháng trả lại. Lâu rồi không trả, buộc chủ nợ
đòi hỏi và có viết một cái thơ nhục mạ gởi cho Ngài đưa lại cho QGT. Thơ nói
như vầy: “Lời nói của Tiên nhơn sao không
bằng lời của thường nhơn.”
Quyền Ngọc Đầu Sư
sợ người ta nhục mạ nữa, nên xin xuất tiền của Hội Thánh 100 $ mà trả cho chủ nợ,
phải trừ 2 tháng tiền phụ cấp cho QGT. Nay còn thiếu 200 $; bạc nầy không rõ
dùng khoản nào, nhưng một điều là rõ ràng QGT Thượng Trung Nhựt lấy danh Đạo mà
mượn của người và có nhiều Đạo hữu cho Ngài hay rằng QGT có mượn bạc, nói rằng
lo cho Hội Thánh Ngoại Giáo, cũng hứa trả lại, mà lâu rồi chưa trả lại cho ai hết.
QGT lại có nhận lãnh một số bạc 1500$ mà chưa thấy pièces justificatives. Hiện
giờ đây, QGT cũng thường xuất ngoại vay mượn xin xỏ nói rằng lo cho Hội Thánh
Ngoại Giáo.
Khoản thứ 7 đọc dứt,
có Giáo Hữu Thượng Áo Thanh coi kho sách Tòa Thánh ra xin biện giải cho QGT về
vụ mượn 300$ của vị Hòa Thượng ở Chợ Lớn.
Người nói số bạc
đó, QGT mượn để đặt Thánh Tượng, hiện nay 5000 Thánh tượng lấy về rồi, để tại
kho sách, như ai không tin xin đến đó mà coi.
Quyền Ngọc Đầu sư:
chẳng phải nói mượn số bạc để mà xài, không đặt Thánh tượng, tôi chỉ nói việc
mượn lâu không trả, để cho người ta đòi hỏi, viết thư nói nhiều tiếng nặng nề,
xấu hổ cho Đạo và QGT.
Đọc tới khoản thứ
8:
KHOẢN THỨ TÁM
Quyền Ngọc Đầu sư
tỏ rằng: Một ngày kia QGT giao cho sở giữ cò để gởi thơ, một xấp thơ, bảo gắn
cò đặng gởi. Quyền Ngọc Đầu Sư coi lại thì là thơ của QGT ký tên Thượng Trung
Nhựt đóng con dấu Thượng Đầu Sư gởi cho Đạo hữu và người ngoài Đạo, cậy mua Nhựt
báo “Bảo An”. Việc nhựt trình là việc
riêng mà dùng tiền của Đạo, tuy không phải là bao nhiêu đó, song Quyền Ngọc Đầu
Sư không cho gởi thơ ấy. Vì là thơ QGT lấy danh Đạo gởi hỏi mượn tiền đặng giúp
cho nhựt trình ấy.
Chưởng Pháp Nguyễn
Trung Hậu tỏ rằng: Ngài có sẵn trong tay cái thơ của QGT viết gởi cho một nữ Đạo
hữu là bà Cả Đường, chủ Thánh Thất, mượn 50 $ cho nhựt trình Bảo An. Thơ ấy ký
tên Thượng Trung Nhựt và đóng con dấu Đầu Sư. Ngài sẽ giao cái thơ ấy cho Quyền
Ngọc Chánh Phối Sư mới.
Sau khi Hội viên
bàn tính thì Thượng Hội định nhựt trình Bảo An không phải của Đại Đạo, Quyền
Giáo Tông (QGT) mượn danh Đạo cổ động cho nhựt trình ấy là sái phép.
Đọc đứt khoản nầy,
ông Nghị Trưởng đứng hỏi có ai phản đối điều chi không?
Quyền Ngọc Đầu Sư:
Tôi xin cắt nghĩa việc mượn và trả số bạc 280$. Mượn 280$ nói gởi cho Kim Biên,
có trả được 190$. Trong số 190$ đó có 100$ cũ, chủ nợ đổi ra xài được có 50$, lỗ
50$, và nay còn thiếu 90$ nên kêu nài.
Quyền Ngọc Đầu Sư
đọc khoản cáo thứ 9:
KHOẢN THỨ CHÍN
Quyền Ngọc Đầu Sư
đọc tờ của Quyền Thượng Đầu Sư trình cho Thượng Hội rõ, việc Ngài trả lời về việc
QGT cáo 2 vị cựu Ngọc và Thượng Chánh Phối Sư hôm Hội Thánh (tờ ghim theo đây).
Chuyện nầy của QGT sắp đặt trước, cậy tay người dưới quyền đặng có trương công
cán của mình hồi giờ, sao để nhục 2 vị Thượng và Ngọc Chánh Phối Sư giữa Hội
Thánh cho biết. Việc nầy sau sẽ định đoạt.
Không thấy ai ra
biện hộ cho QGT.
Quyền Ngọc Đầu Sư
đọc khoản cáo thứ 10:
KHOẢN THỨ MƯỜI
Quyền Ngọc Đầu Sư trình ra một phong thơ, bề mặt
thì có chữ của Hộ Pháp đề như vầy: (13–3–1930), thơ nầy đem ra cho chư Hội viên
thấy sự giả, mà sự giả nầy có thế QGT cũng biết được, vì có con dấu Thượng Đầu
Sư đóng trên keo niêm sau lưng bao thơ ấy, và QGT có gởi tờ cho Chức sắc mà giới
thiệu thơ ấy. Nay nói cho biết vậy, ngày sau sẽ xin xét lại, nên Thượng Hội
chưa định sao hết.
Không thấy ai ra
biện hộ cho QGT.
Quyền Ngọc Đầu Sư
đọc khoản cáo thứ 11:
KHOẢN THỨ MƯỜI MỘT
Quyền Ngọc Đầu Sư
đem ra một xấp sao lục Thánh Ngôn, trong ấy có dạy nhiều việc mà QGT không thi
hành. Bởi không có mặt QGT nên Thượng Hội chưa định sao.
Không thấy ai ra
biện hộ cho QGT.
Quyền Ngọc Đầu Sư
đọc khoản cáo thứ 12:
KHOẢN THỨ MƯỜI HAI
Quyền Ngọc Đầu Sư
đem cái thơ của Thượng Sanh gởi cho Hộ Pháp hồi tháng năm 1930 mà trách cứ Hộ
Pháp và Thượng Đầu Sư nay là QGT, song chưa giáp mặt 2 người nên còn đình việc
nầy lại.
Không thấy ai ra
biện hộ cho QGT.
Nghị Trưởng: Trong
9 khoản đầu trong tờ Vi Bằng mới vừa đọc rồi, chư Đạo hữu đều thấy khoản cáo
nào cũng đủ bằng cớ, không một chút chi oan ức, nhưng có khoản thứ 6 là nặng
hơn hết, chư Đạo hữu cũng nên để ý về khoản nầy. Tôi xin khuyên, một người Đạo
mà có tội với Đạo thì để cho Thầy xử, Đạo xử, chớ để ra tòa đời thì nhục cho
danh Đạo lắm.
Trước khi Hội nghị
bế mạc, tôi xin hỏi hết cả Hội viên câu như vầy:
1.
Ông
QGT quả có phạm tội theo 9 khoản cáo trong tờ Vi bằng không?
2.
Ông
QGT còn xứng đáng phẩm vị không?
Cả chư Đạo hữu đồng
dơ tay nhìn nhận ông QGT có tội, và không còn xứng đáng phẩm vị tối cao ấy nữa.
Nghị Trưởng: – Tôi xin
thay mặt Ban Ủy Viên trình cho chư Đạo hữu hay, phận sự chúng tôi tới đây đã dứt.
Vậy từ đây, là về phần 3 Hội định liệu sao cho hợp với điều lệ của Đại Đạo.
Lê Kìm Tỵ: – Tôi
xin chư Đạo hữu nhóm hội hôm nay đồng thanh cảm tạ Ban Ủy Viên lấy hết trung tâm
thành ý mà điều đình cuộc hội ngày nay được kết quả rất là mỹ mãn.
Ông Tỵ dứt lời, có
một Đạo hữu không rõ tên họ, đứng ra nói: – Ngày nay Quyền Ngọc Đầu Sư tố cáo
QGT trong khi Ngài vắng mặt và không có bằng cớ chi chắc chắn, ấy là Quyền Ngọc
Đầu Sư họa phù thân đái.
Quyền Ngọc Đầu Sư:
Tôi có mời QGT, tuy Ngài không đến chớ cũng có phái người đến cãi lẽ nãy giờ. Mỗi
khoản cáo đều có để cho công chúng thong thả biện luận. Có 2 vị Đạo hữu nam và
3 vị nữ trình biên lai mua đất, lại có người đòi kiện QGT giữa đây bằng cớ như
vậy, nhơn sanh đồng công nhận QGT có tội. Đạo hữu ở đâu xa mới đến không rõ trước
sau nên mới nói vậy phải không?
Nghị Trưởng: Tôi
xin lập lại một lần nữa cho chư Đạo hữu nhớ rằng, trong 9 khoản buộc tội, chỉ
có khoản thứ 6 là hệ trọng hơn hết. Thoảng như một ngày kia ehư Chức sắc điều
đình việc nầy không được, để cho mấy người mua đất ức lòng kiện ra tòa đời thì
thể nào QGT cũng không tránh khỏi đường lao lý, vì có đủ bằng cớ. Đạo mình thuở
nay đã bị người ta nghi ngờ. Cách vài bữa đây, một viên Phó Tham Biện nói với
tôi rằng: kẻ cầm quyền trong Đạo không minh chánh, vì vậy mà chánh phủ phải để
ý dòm ngó.
Vậy xin toàn cả
chư Đạo hữu phải quyết định lẽ nào cho Đạo khỏi mang tiếng nữa.
Dứt lời, Ban Ủy
Viên liền thối vị, nhường quyền phân đoán cho Hội Vạn Linh.
Chư Hội viên Hội Vạn
Linh đồng quyết định việc QGT nay có tội như vậy, thì phải đệ lên cho Tòa Tam
Giáo thiêng liêng định án.
Tới đây, đã hết vấn
đề bàn giải, Hội giải tán hồi 6 giờ chiều.
KÝ TÊN:
❒ Nghị
Trưởng:
Nguyễn Phan Long.
❒ Phó
Nghị Trưởng:
Trương Duy Toản.
❒ Từ
Hàn:
Giáo Hữu Tuyết Tân Thành.
❒ Phó
Từ Hàn:
Chánh Trị Sự Phạm Văn Long.