NGỤ ĐỜI BÀI 1.
58/- Ngày 11-01-1927 (âl. 08-12-Bính Dần): Ðức Thái Bạch dạy thi văn (Ðiệu văn Ðộng Ðình: Thái Cực) & thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Mardi 11 Janvier
1927 (08-12-Bính Dần).
THÁI BẠCH
Chúng đẳng ngồi kiết tường nghe dạy:
Lão viết chậm, Thượng Phẩm Hiền Hữu dặn Sĩ Tải phải
viết cho cẩn thận. Lịch rán đọc cho tử tế, bằng chẳng Lão đuổi ra ngoài ...
nghe à.
Ðiệu văn Ðộng Ðình của Lão dạy chư Tiên, chư Phật, sau
có truyền cho Bạch Vân Ðạo Sĩ gọi là Trạng Trình, song người học đặng có một
điệu truyền thế gọi là điệu Bạch Vân. Lão lấy đề "Ngụ Ðời" nghe.
Ngụ Ðời:
Ðời
hằng đổi, nước non không đổi,
Giữ nhơn luân nhờ mối Ðạo truyền.
Nhẫng lo trọng tước cao quyền,
Ðem thân trần cấu gieo miền trầm luân.
Biệt cành lá rụng đầy rừng,
Con thuyền Bát Nhã lỡ chừng độ duyên.
Sắc,
Tài,
Tửu,
Khí,
Lưng vơi lấy chí anh hùng,
Mượn gươm Thần huệ dứt lần trái oan.
Vụ chữ nhàn....
Giải nghĩa:
Thầy là cội, chúng sanh là lá.... Phải lấy chữ anh hùng hoặc nhiều hay ít mà
dứt oan trái đặng tu tâm dưỡng tánh, hầu vụ chữ nhàn.
Mardi 11 Janvier
1927 (08-12-Bính Dần).
THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh. Bình
thân.
Thổ nhơn Nam và Nữ nhập nội đồng quì. Chư Sơn trước...
toàn thâu... lui. Nữ phái thượng sớ.
Cân:
Cân
câu tội phước sửa mình lành,
Cửa ngục Diêm Ðình chẳng kể danh.
Thế cuộc như trò khoe mắt tục,
Tội tình khó rửa với khôn lanh.
Thâu
Rẩy:
Rẩy
bái thà quen thú dốt mình,
Thà là giữa chợ lắm đua tranh.
Nên hư một kiếp nhờ gần gũi,
Kẻ thiện học gương đặng sửa mình.
Thâu
Kế:
Kế
trăm chước khéo chẳng bằng hiền,
Tu bởi biết mình chuộng nết Tiên.
Mối Ðạo đỡ nâng phàm hóa Thánh,
Căn xưa bồi sức giúp lòng Thiền.
Thâu
Vàng:
Vàng
tuy quí giá chẳng bằng lòng,
Phật tự thuở chừ mến chữ không.
Ham lợi hiếp cô đâu phải Ðạo,
Còn gầy oan nghiệt Ðạo chi mong.
Thâu
Liêng:
Liên
trì mai nở sắc sen sưa,
Cải ác ngày nay nghĩ cũng vừa.
Có vị đừng mê phàm mất vị,
Thiên Ðình phải phận chịu dư thừa.
Thâu
Ðó:
Ðó
đăng phải giữ phận nghèo hèn,
Dầu có rách lành vụ tiếng khen.
Thanh bạch một lòng vì đạo hạnh,
Có khi lóng đục bởi nhờ phèn.
Thâu
Phượng:
Phượng
thờ cha mẹ vẹn đôi bên,
Rán chuộc gái ngoan bởi nết hiền.
Chẳng đợi người khen Trời thấy bụng,
Họa may gỡ vẹn nợ tiền khiên.
Thâu
Bảy:
Bảy
mươi chưa biết trọn mình lành,
Ðừng thị khi đời ỷ miệng lanh.
Lui.
Nhạn:
Nhạn
chiu chít phận một phương Trời,
Kêu bạn canh tàn chẳng mỏi hơi.
Ðưa bóng tuyết càng thêm thắt dạ,
Thân lao lục chịu lắm mùi đời.
Thâu
Ý:
Ý
chẳng phải tu đến hỏi đời,
Ta cho đặng kế thử lòng ngươi.
Có nơi chẳng tưởng gầy oán để,
Ðem tiếng thị phi rải lắm lời.
Thâu
Nữ:
Nữ
trung đã trọn một lòng thờ,
Trinh liệt giữ bền thuở bé thơ.
Nhơn Ðạo đã xong lo phận Thánh,
Tham chi cuộc thế vọng rồi ngơ.
Thâu
Toàn thâu Nữ phái.
Nam thượng sớ.
Ðâu:
Ðâu
là cửa Thánh với đâu phàm,
Mà cứ để lòng tính tứ tam.
Học thiện là nguồn gieo Chánh Ðạo,
Nghe chi miệng quỉ luận tam xàm.
Thâu
Mẫn:
Mẫn
thế khá tua tính ích đời,
Ích đời chẳng vụ một mình ngươi.
Mình ngươi đặng thỏa trăm người thiếu,
Thiếu sót lòng tu chẳng độ đời.
Thâu
Châu:
Châu
về hiệp phố buổi xưa sao,
Nay nghiệp nhà ngươi có khác nào.
Có đức của rơi còn lượm lại,
Không duyên phẩm hạnh khó nâng cao.
(THÂU).
Thiền:
Thiền
cao chưa đủ đỡ muôn linh,
Như thuở Hạng Vương ở Bành Thành.
Chước khéo là thâu lòng với đức,
Xưa Tần vong nghiệp bởi không lành. (THÂU).
Sơn:
Sơn
là cao đã có lời rằng,
Ta thấy tên ngươi ... nghiến răng.
Học hỏi chưa thông ngoài chái bếp,
Nhẫng lo cỡi phụng với đua tranh. (LUI).
Thay:
Thay
đời chẳng phải một tên ngươi,
Thấy phách lối kia bắt nực cười. (LUI).
Hào:
Hào
phú chưa ai dám sánh bằng,
Dầu nghèo mà giữ Ðạo làm ăn.
Trời soi dạ thẳng trăm oan thoát,
Có lúc vinh huê bỏ nhọc nhằn.
Thâu. Sau trọng dụng.
Toàn thâu, bỏ tên: Thiện, Ðào, Ðài.