56/- Ngày 09-01-1927 (âl. 06-12-Bính Dần): Ðức Thái Bạch thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Dimanche 09
Janvier 1927 (06-12-Bính Dần).
THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Thượng Trung Nhựt bình thân. Thổ nhơn ... thâu. Nữ Thổ
nhơn vào. Ðem con chúng nó vô. Ðem con nó lại gần. Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu
khá nói lại với kẻ đến đây chẳng tâm Ðạo, chỉ quyết đến bói, ra khỏi Ðàn, để
Lão đuổi bị nhục đừng trách, Nam Nữ cũng vậy.
Kẻ muốn xin Lão chẳng cho; kẻ không xin Lão cho; ấy
cũng là một phương pháp phạt răn những kẻ vô Ðạo thôi. Thượng sớ.
Phú:
Phú
hữu thiên gia bất thoát trần,
Vinh thê ấm tử độ cô thân.
Hào gia hữu sở thiên niên đọa,
Bất dĩ nhơn sanh, bất dĩ Thần.
Thâu
Nhạn:
Nhạn
trầm có thuở nhạn cao bay,
Tài đức vinh huê cũng có ngày.
Rường cột mặc ai đưa nổi núi,
Mình chen vào đám phế cân đai.
Thâu
Hườn:
Hườn
hành Hớn thất buổi xưa sao,
Chẳng vững giang san chúng đổ nhào.
Ít đức Ðạo cao thêm vẻ gấm,
Thần Tiên Thánh Phật cũng như nhau.
Thâu
Dụng:
Dụng
nhơn chẳng khác dụng cây sang,
Quí trọng cùng chăng một buổi nhàn.
Ðế nghiệp vào tay chưa đủ phước,
Chẳng bằng vai quảy trọn giang san.
Thâu
Huất:
Uất
lòng dễ tỏ đặng cùng ai,
Hiền đức mà sao chịu khổ hoài.
Lão nói tỏ tường cho đó hiểu,
Cũng là một trả đổi xưa vay.
Thâu
Văn:
Văn
chương cái thế mãn đời còn,
Ðức hạnh vững bền sánh nước non.
Hai lẽ văn tài đồng đức tánh,
Chẳng ngồi bệ ngọc cũng lầu son.
Thâu
Khách Trú Ðịnh:
Thiên
nhiên tánh đức chí công bình,
Hữu số hám tâm thủ địa linh.
Qui phục kim môn thân ngọc mã,
Chỉ tồn hư thiệt bất quang minh.
Thâu
Viết:
Viết
Thiên viết Ðịa viết Nhơn hòa,
Mộng mị thế tình ngữ thập đa.
Bất kiến kỳ nhơn tâm ái chúng,
Thâu danh thủ lợi mảng sinh tà.
Thượng.
Thiên:
Thiên
căn chánh kiếp chỉ tâm hành,
Thán thế bất hòa chỉ cạnh tranh.
Bắc hướng loạn ly nhơn thán oán,
Hành tàng vấn đắc kiến kỳ thanh.
Thượng.
Cho:
Cho
bền dạ sắt với lòng son,
Non nước xưa kia cũng vẫn còn.
Một chiếc xuồng con không chạy biển,
Thầm lo chi hiệp giống nòi còn.
Thâu
Phát:
Phát
tài cứ tưởng dẫy đầy đầu,
Tài có là đâu Ðạo ở đâu.
Có Ðạo không cầu Trời thưởng lộc,
Không lo chí thiện mạng không cầu.
Thâu
Khương:
Khương
ninh nhứt kiếp tại Thiền môn,
Khả chí tâm tu ngã độ hồn.
Mạc nại Thiền môn tăng dối thế,
Thoát trần chủ định tại Thiên Tôn.
Thâu
Thành:
Thành
tâm khả tụng kệ Di Ðà,
Bất vấn trì môn ngữ thậm đa.
Chuyển thế nhứt thời sanh chúng độ,
Nhứt môn toàn hiệp Ðạo đồng hòa.
Thâu
Nam toàn thâu. Thượng Phẩm Hiền Hữu nhớ: Khi Lão đề
"Thất" trước, nghĩa là thơ 7 chữ, Ngũ năm chữ, Tam ba chữ; Bát tám
chữ. Dặn Sĩ Tải phải nhớ.
Ðây:
Ðây
chẳng phải nhà thầy tiệm bói,
Ấy là đèn chói rọi đường tu.
Hạnh Tiên xưa lắm công phu,
Ngoài tai đã chán mắt mù thấy chi.
Việc đời khi....
Thâu