Trang

Chủ Nhật, 2 tháng 3, 2025

5710. Thư số 5, Gởi Giáo sư Janet Hoskins, Trường Đại Học Nam California.

Hoa Kỳ ngày 16-02-2025.
Thư số 5.
Dương Xuân Lương.

Kính bà Janet Hoskin, Giáo sư trường Đại Học Nam California.

Trong Thư số 5, Tôi xin góp phần làm rõ một những sáng kiến quan trọng của Cao Đài Phổ Độ trong bài viết của Giáo sư; đây là phần chính yếu. Sau đó phân tích một vài điểm mờ do người khác viết trong phần mở đầu từ trang 01 đến một phần của trang 03.

Một trong những sáng kiến quan trọng.


Trang 01 Giáo sư viết: Tôi thì lại cho rằng một trong những sáng kiến quan trọng của Cao Đài phổ độ là tính chủ động trong đó, việc dẫn đầu những ý tưởng mới về quyền công dân và sự trong sạch cá nhân của nó đã hợp nhất cái mà Bhabha gọi là “cho thuộc địa lấy làm của riêng” với các dạng tổ chức khác và một chương trình nghị sự chống thực dân... (hết trích)

Tôi rất cảm ơn Giáo sư đã nhận ra việc Đạo Cao Đài góp phần xây dựng xã hội, đây là phần rất đặc biệt của Đạo Cao Đài. Tôi tin rằng sẽ có nhiều bài viết, nhiều tiểu luận và nhiều luận án để đào sâu và làm rõ: những sáng kiến quan trọng của Cao Đài Phổ Độ

Giáo sư ghi nhận sự hợp nhất của: tính chủ động; việc dẫn đầu những ý tưởng mới về quyền công dân; và sự trong sạch cá nhân… do đó khi góp phần làm rõ Tôi cũng tôn trọng tính hợp nhất đó.

Tôi xin xác định Tôi căn cứ Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ nói tắt là Đạo Cao-Đài để làm rõ.

1/- Một khối hợp nhất với 3 nhận xét.

Để góp phần làm rõ Tôi nêu ra câu hỏi và lấy pháp luật hay cách tổ chức tôn giáo để giải đáp. Cả ba đã hợp nhất nên khi nêu câu hỏi là để hiểu sâu hơn nhưng đó cũng chính là sự giới hạn của ngôn ngữ. Triết học phương Đông dạy rằng: vì ý mà có lời, hiểu được ý xin hãy quên lời; xin vui lòng áp dụng ý nghĩa đó cho trường hợp nầy.

HẾT TRANG 01

1.1/- Tại sao tính chủ động đó có trong Đạo Cao Đài?

Tổ chức nào cũng có hạ tầng và thượng tầng, Đạo Cao Đài cũng trong qui luật đó. Nhưng sự đặc biệt là khung pháp lý về mối tương quan của hạ tầng và thượng tầng trong Đạo Cao Đài.

Về thượng tầng: hiến pháp của Đạo là Pháp Chánh Truyền đã ấn định quyền lực của Chức sắc qua các phương diện: Có bao nhiêu phẩm bậc, số lượng nhân sự của mỗi phẩm bậc, quyền hành các phẩm bậc và cầm quyền hành chánh của Đạo ở cấp nào. Nghiêm cấm việc tăng thêm hay là giảm bớt.

Về hạ tầng: Pháp Chánh Truyền lập ra khuôn mẫu Bàn Trị Sự hay Hội Thánh Em và cho Bàn Trị Sự phát triển không giới hạn.

Thượng tầng là Hội Thánh Cao Đài còn hạ tầng là Hội Thánh Em. Có một Hội Thánh Cao Đài nhưng có vô số Hội Thánh Em; đó là cách tạo thế mạnh cho hạ tầng.

Về quyền hành Hội Thánh Em: Hội Thánh Cao Đài có quyền gì thì Hội Thánh Em có quyền đó nhưng giới hạn trong địa phương được giao mà thôi. Có sự phân quyền từ Pháp Chánh Truyền.

Tương quan của Thượng tầng và Hạ tầng.

Nhân sự Hội Thánh Em do Tín Đồ trong địa phương căn cứ vào pháp luật Đạo để công cử. Chức sắc chủ tọa, chứng kiến việc công cử có diễn ra đúng pháp luật hay không. Chức sắc chứng kiến nhưng không có quyền can dự vào việc công cử. Sau khi chứng kiến thì xác nhận tại buổi công cử. Sau đó gởi Vi bằng về Hội Thánh Cao Đài ra công văn công nhận. Hội Thánh tôn trọng kết quả công cử nơi địa phương. Chức sắc như thuyền, địa phương như bến. Thuyền hết nhiệm kỳ thì rời đi và bến lại đón thuyền mới.

Pháp Chánh Truyền minh bạch quyền hạn của thượng tầng; đó là giúp cho hạ tầng minh bạch được quyền của hạ tầng. Như vậy hạ tầng không phạm đến thượng tầng và thượng tầng muốn phạm đến hạ tầng cũng không được. Quyền trong Đạo Cao Đài được công bố để mọi người biết và thực thi nên đó là quyền công chánh, nhờ có quyền công chánh nên hạ tầng phát huy được tính chủ động, tạo năng lượng tích cực cho nền đạo. Thượng Đế trao cho nhơn sanh quyền tự chủ, khi dân được tự chủ thì khả năng sáng tạo, thích ứng không có giới hạn.

Hạ tầng luôn luôn là đại đa số so với thượng tầng, cho nên Thượng Đế lập quyền cho hạ tầng là lập quyền cho nhân loại. Do vậy Đạo Cao Đài là một tôn giáo pháp quyền để xây dựng nhân quyền. Đại Hội Nhơn Sanh là bửu pháp nhân quyền của Đạo Cao Đài.

HẾT TRANG 2

Đạo Cao Đài thờ Thượng Đế (ngôi dương) và Phật Mẫu (ngôi âm) nên Đạo có năng lực của Âm-Dương. Nói đến Âm-Dương là nói đến dịch lý, nên xét về dịch lý thì Thượng Đế lập pháp cho Đạo Cao Đài theo ý nghĩa của quẻ Địa Thiên Thái. Ngay trong cách bắt Ấn Tý của Đạo Cao Đài cũng thể hiện quẻ Địa Thiên Thái.

Một thực tế quan trọng là Thượng Đế dạy người Đạo lập Thiên bàn để thờ Thượng Đế tại nhà. Hàng ngày, người Đạo Cao Đài sống trong niềm tin Thượng Đế đến để giải thoát cho người Đạo khỏi ách nạn cường quyền. Thượng Đế đã thiết kế đủ các cơ quan ban bộ để giúp cho người Đạo được sống trong xã hội hòa bình, dân chủ, tự do thì họ sẵn sàng làm tất cả, hy sinh tất cả để chính họ hưởng được ơn phước ấy và giữ gìn cho thế hệ mai sau.

Đó là những nét phác thảo để trả lời câu hỏi tại sao Đạo cao Đài có tính chủ động. Giáo Sư có thể tham khảo thêm tại đây.

https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2018/12/2847-phap-ai-ong-xa.html#more

1.2/- Tại sao Đạo Cao Đài dẫn đầu những ý tưởng mới về quyền công dân?

Về căn bản câu trả lời là do phần Chính Trị Đạo mà Tôi đã trình bày với Giáo Sư trong Thư số 4.

Theo đó nhơn sanh được quyền tham gia viết kịch bản, quan sát và thanh tra kịch bản được thực hiện như thế nào. Đó là quyền mà xã hội Việt Nam chưa từng ban bố cho người dân từ khi Đạo Cao Đài được thành lập (1926) cho đến ngày nay. Nhưng người đạo được hưởng quyền đó trong tôn giáo. Xét theo qui trình khoa học thì Đạo Cao Đài là một phòng thí nghiệm về nhân quyền để người Tín đồ Cao Đài làm quen, thực hiện cho thành thạo trong việc xây dựng tôn giáo. Khi sản phẩm đã hoàn thành thì đem hiểu biết đó ra giới thiệu và thực hành trong xã hội theo luật Cung-Cầu. Trong phạm vi tôn giáo Luật Cung Cầu thể hiện qua lễ Nhập Môn Cầu Đạo, phải đọc Lời Minh Thệ; sau đó được cấp SỚ CẦU-ĐẠO.

Đạo Cao Đài cung ứng phương pháp lập quyền dân (nhân quyền) để xây dựng trật tự mới, xã hội mới. Khi cung và cầu gặp nhau thì chính nhân loại tham khảo hiến pháp Đạo Cao Đài, tham khảo Chánh Trị Đạo về xây dựng quê hương của họ.

Phật Mẫu Chơn Kinh dạy: Diệt hình tà pháp cường khai Đại-Đồng (câu 40) nghĩa là Đạo Cao Đài tự biết có cái gì để cung ứng cho xã hội theo luật Cung Cầu. Thượng Đế đến để tạo ra sản phẩm mà xã hội cần, đó là tạo nguồn cung. Chữ CƯỜNG là tự biết mình, tự thắng mình. 

HẾT TRANG 3

(Đạo Đức Kinh chương 33 viết: Thắng nhơn giả hữu lực, Tự thắng giả cường. Tạm hiểu Thắng người khác là có sức, Tự thắng mình là mạnh). Đức Chúa Jesu hay Đức Phật Thích Ca cũng tạo nguồn cung mà các môn đệ cầu học, sau đó truyền bá ra xã hội theo luật Cung-Cầu.

Thượng Đế đã hứa với tổ tiên của nhân loại là dạy cho nhân loại xây dựng nền hòa bình, Thượng Đế lập Đạo Cao Đài là để thực hiện lời hứa đó. Công thức xây dựng hòa bình cho nhân loại:

Cầu xin trăm họ bình an,
Nước giàu dân mạnh thanh nhàn muôn năm.
(Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối, 02 câu cuối)

Theo đó Thượng Đế dạy phải làm cho dân mạnh (CƯỜNG) mới xây dựng được hòa bình. Thượng Đế không dạy làm cho dân giàu mà dạy làm cho dân mạnh. Khi dân đã mạnh thì dân kiểm soát nhà nước, khi dân kiểm soát được nhà nước thì đương nhiên cuộc sống vật chất của dân được giải quyết tốt đẹp. Chính quyền nào phục vụ dân không tốt, dân xô xuống. Thượng Đế không dạy làm dân lo làm giàu, Thượng Đế dạy làm cho dân mạnh thì cái giàu chắc chắn phải có. Đó là dạy giải quyết từ cái gốc, cái nhân thì sẽ có kết quả. Cũng như Thượng Đế dùng cơ bút lập ra Đạo Cao Đài thì Thượng Đế dạy kiểm soát từ cái nhân (trung tâm) của cơ bút là công bố danh sách 16 đồng tử của Thượng Đế chọn.

Triết lý Dân Mạnh là một trong những động lực tạo ra bản sắc công dân mới, và Giáo sư đã ghi nhận. Tới đây có thể tạm kết luận rằng: ý tưởng mới về quyền công dân của người Đạo Cao Đài có nguồn gốc từ tính cách QUỐC ĐẠO của Thượng Đế lập thành. Kính mời Giáo sư tham khảo thêm:

https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2020/07/3116-tuyen-tap-chon-phap-cao-ai-q1-tt-11.html#more

1.3/- Tại sao Đạo Cao Đài cần sự trong sạch cá nhân và làm sao giữ gìn sự trong sách đó?

Thượng Đế lập ra ba NHÁNH Phật, Tiên, Nho vào thời Nhứt Kỳ Phổ Độ và Nhị Kỳ Phổ Độ. Đến Tam Kỳ Phổ Độ Thượng Đế chọn tinh hoa của ba NHÁNH đưa vào Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, nên gọi Quy Nguyên Tam Giáo. Trong Quy Nguyên Tam Giáo thì dùng Nho Tông Chuyển Thế. Trong Nho giáo thì tu thân là trước hết. Người biết tu thân thì mới làm nên được cho mình, sau đó đến gia đình và xã hội. Tu thân trong Đạo Cao Đài có 4 công thức: Cần mẫn học tập, thanh liêm, tín nghĩa và chí nhẫn.

Muốn vào lập công trong hành chánh tôn giáo cho dù một phẩm Chức việc cũng phải có sự lựa chọn của nhơn sanh. 

HẾT TRANG 4

Khi nhơn sanh chọn thì căn cứ vào đạo đức của cá nhân làm gốc, không khi nào nhơn sanh công cử một người thất đức cầm quyền hành chánh tôn giáo. Khi nhơn sanh chọn đạo đức làm gốc thì đó là căn bản để cộng đồng tôn giáo giữ gìn sự trong sạch, giữ gìn đạo đức, giữ gìn pháp luật đạo.

Nhơn sự muốn lập công quả bên Phước Thiện cũng phải có sự chứng thật của hành chánh đạo về hạnh kiểm, đạo đức. Tôn giáo dụng đạo đức làm căn bản nên nhân sự tôn giáo tự ý thức và gìn giữ.

Mỗi Thánh Thất phải có trường học, trường học ở đâu cũng dùng tên chung là ĐẠO-ĐỨC HỌC-ĐƯỜNG. Theo đó đạo đức không phải là một môn học mà là căn bản của các môn học, căn bản của học đường. Chỉ có một ngoại lệ duy nhứt là trường Lê Văn Trung do chính Đức Hộ Pháp cầm quyền Chí Tôn tại thế đặt tên (1946).

Trong Đại Hội Nhơn Sanh năm 1937 Đức Hộ Pháp tuyên bố: … Quyền hành chánh trị của Chí Tôn chuyên chú về mặt tâm đức làm chuẩn thằng chớ chẳng phải dụng cường quyền áp bức. Nếu người nào phải tay cầm quyền tinh thần ấy tức là có đủ tâm đức mới được. Nếu Hội Thánh đưa quyền cho một người vô giá trị thì người ấy sẽ chết tại nơi quyền đó mà thôi; bởi nó là quyền về tinh thần chớ chẳng phải vật chất. Người nào đã được quyền Vạn Linh công cử thì họ càng sợ sệt và càng khéo giữ hơn nữa. Từ đây chẳng còn ai cầu may mà đặng. Như có dở thì cả đời phải chịu ngồi một chỗ, còn đủ tài đủ đức thì Chúng Sanh mới nâng lên cao, nếu thất Đạo Chúng Sanh xô xuống … (hết trích).

Tóm lại: … một trong những sáng kiến quan trọng của Cao Đài phổ độ là tính chủ động trong đó, việc dẫn đầu những ý tưởng mới về quyền công dân và sự trong sạch cá nhân của nó đã hợp nhất … nói ngắn gọn là do cách lập pháp của Đức Chí Tôn mà có. Phần trình bày trên chỉ là lời giới thiệu về kho chí bửu Thượng Đế ban cho nhân loại.

2/- Trang 03 Giáo sư viết: Mục đích của tôi không phải là giải quyết những cuộc tranh luận này, mà là để đặt chúng vào trong mối quan hệ với lý thuyết nhân loại học và chủ nghĩa hậu thuộc địa về dân tộc chủ nghĩa, kháng chiến chống thực dân, và những vị lãnh đạo đang hoạt động cả trên lĩnh vực tâm linh và trần tục

Xin cảm ơn Giáo sư đã đặt Đạo Cao Đài vào trong mối quan hệ với lý thuyết nhân loại học nhưng phần kèm theo chủ nghĩa hậu thuộc địa về dân tộc chủ nghĩa, kháng chiến chống thực dân, theo tôi là chưa thỏa đáng. Bởi vì Giáo sư đã ghi nhận Đạo Cao Đài có những những ý tưởng mới về quyền công dân. Tôi xin thưa rõ rằng điều đó không phải do chủ nghĩa thực dân ban cho, mà do Thượng Đế ban cho. Cao Đài cũng còn những điều mới khác để góp phần xây dựng hòa bình cho nhân loại.

HẾT TRANG 5

Thượng Đế dạy cách thực hiện ý tưởng mới về quyền công dân là thực thi NHƠN NGHĨA để phụng sự nhơn sanh trong nhiệm kỳ 700.000 (bảy trăm ngàn) năm của Đạo Cao Đài; không phải dạy để chống thực dân Pháp. Ý tưởng mới về quyền công dân và cách thực thi nằm trong chương trình xây dựng hòa bình cho nhân loại, xây dựng trật tự mới hay đánh đổ cường quyền (Đạo là việc công lý, công lý đánh đổ cường quyền thì Đạo mới phải Đạo.)

Về mặt xã hội, Thượng Đế lập Đạo Cao Đài là để dạy cho nhân loại cách thức xây dựng nền hòa bình cho nhân loại. Thượng Đế dạy cách làm cho DÂN MẠNH, muốn dân mạnh Thượng Đế dạy giải quyết 3 vấn nạn: đức tin, vật chất và tự chủ.

Hành Chánh Đạo để giải quyến vấn nạn về đức tin, là cơ quan để thi hành các luật lịnh của đạo. Giúp cho người Đạo giữ vững đức tin và thực hành lời dạy của Thượng Đế; không bị thao túng tâm lý, thao túng đức tin, dụng hòa bình, đạo đức để thực thi NHƠN NGHĨA.

Phước Thiện để giải quyết vấn nạn về cơm áo gạo tiền, là cơ quan bảo tồn sanh chúng, được tổ chức từ trung ương đến địa phương. Phước Thiện lập ra cơ sở tiểu thủ công nghiệp, sở lương điền, công nghệ cho đến những công ty, xí nghiệp, ngân hàng … tạo môi trường sống cho người đạo, giúp người Đạo vào đó làm ăn, nương tựa nhau, tự chủ về vật chất để sống theo văn hóa Cao-Đài. Phước Thiện tạo ra kinh tế, tài chánh giúp cho Hội Thánh Cao-Đài tự chủ về tài chánh. Hội Thánh Cao-Đài không phải đi ăn xin nơi người đạo hay đời mới đủ quyền tự chủ để thực thi pháp luật đạo, thực thi những phương án xây dựng xã hội.

Chánh Trị Đạo để giải quyết vấn nạn về quyền tự chủ. Tiền nhân đã dạy Ý DÂN LÀ Ý TRỜI, nhưng không có cơ chế, tổ chức để dân thể hiện ý của dân; Thượng Đế dạy Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh là cơ chế, là tổ chức để thực hiện tầm nhìn đó.

Hành Chánh ví như thể xác có lục phủ ngũ tạng, Phước Thiện là nguồn máu để nuôi thể xác và Chánh Trị Đạo ví như bộ não để quyết định công việc phải làm.

Đạo Cao-Đài nâng đỡ người bình dân ít học thành người có hiểu biết, người nghèo khó được an cư lạc nghiệp, tự chủ trong cuộc sống. Đạo hữu sản hóa người đạo, người dân về vật chất lẫn tinh thần, làm cho người dân mạnh mẽ để xây dựng xã hội hòa bình, dân chủ, tự do. Chủ nghĩa Cao-Đài phát xuất từ Thượng Đế, không chống lại bất cứ chủ nghĩa nào. Đạo Cao-Đài là một tổ chức xã hội dân sự từ Trung ương cho đến địa phương, mỗi cấp hành chánh tôn-giáo, mỗi Bàn Trị Sự là một tổ chức xã hội dân sự để người đạo tự lo cho nhau.

HẾT TRANG 6

Giải quyết cả ba vấn nạn trên bằng cách thực thi NHƠN NGHĨA. Cho nên Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ như một phát minh để xây dựng hòa bình cho nhân loại. Nghĩa là Đạo Cao Đài mở ra một trang sử mới về nhiều phương diện mà đưa vào chủ nghĩa hậu thuộc địa về dân tộc chủ nghĩa, kháng chiến chống thực dân, là chưa nhận diện được chân tướng của Đạo Cao Đài.

Đức Chúa Jesu dạy rằng: Không ai vá miếng vải mới vào áo cũ vì mảnh vá sẽ chằng rách áo cũ, làm cho chỗ rách càng tệ hơn. Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ; nếu làm vậy, bầu sẽ nứt, rượu chảy ra, và bầu bị hỏng. Nhưng người ta đổ rượu mới vào bầu da mới để cả hai được bảo toàn.” (hết trích ý)

Nhiệm kỳ của Đạo Cao Đài kéo dài trong 700.000 năm nên nó gắn liền với tương lai nhân loại. Do vậy Tôi đề nghị Giáo sư định hướng đoạn kèm theo là góp phần xây dựng tương lai nhân loại.

Thưa Giáo sư.

Tôi rất hiểu và tôn trọng mục đích của Giáo sư. Không ai có thể yêu cầu Giáo sư giải quyết những điều khác biệt, bởi vì đó là câu chuyện của tôn giáo và pháp lý xã hội.

Nhiệm vụ nhà nghiên cứu là ghi nhận đúng sự thật.

Sự thật là năm 1983 là Hội Thánh Cao Đài đã bị xóa bỏ, nên Giáo sư không có dịp tiếp xúc với Hội Thánh Cao Đài. Toàn bộ nhân sự Giáo sư tiếp xúc đều không có thẩm quyền đại diện cho Đạo Cao Đài. Trong số đó Tôi biết chắc rằng có những người không phải Đạo Cao Đài nhưng đã trình bày về Đạo Cao Đài với Giáo sư. Do đó Giáo sư cần ghi nhận những điều có thật, những điều đã xảy ra trong Đạo Cao Đài với những bằng chứng cụ thể. Tôi và hiền muội Victoria cũng chỉ là người theo Đạo Cao Đài trình bày sự thật về Đạo Cao Đài với những văn bản có pháp lý trong Đạo Cao Đài để Giáo sư kiểm chứng mà thôi.

Trong bối cảnh đó nhà nghiên cứu có trách nhiệm ghi nhận sự thật, viết đúng sự thật, không làm cho lẫn lộn sự thật là việc rất quan trọng. Về tổ chức: ghi đúng cái căn cước của tổ chức đó. Về cá nhân: ghi đúng tổ chức tôn giáo của cá nhân đó khi các vị cung cấp tài liệu, thông tin. Nhà nghiên cứu ghi nhận đúng sự thật đó là đã giúp cho xã hội có điều kiện để hiểu đúng. Xã hội không thể yêu cầu nhà nghiên cứu giải quyết mọi việc.

HẾT TRANG 7

Trong nghiên cứu có Chân-Thiện-Mỹ thì cái đầu tiên phải có là sự chân thật. Cũng như khi thực hiện Video về cơ bút Giáo sư nói rõ đây là cơ bút của Pháp Môn Chiếu Minh.

Đây là một số căn cước điển hình.

Căn cước của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ (danh hiệu 6 chữ)

Căn cước của Chi phái 1997 (danh hiệu 10 chữ).

Căn cước của chi phái Ban Chỉnh Đạo (danh hiệu 13 chữ).

Căn cước của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài (12 chữ)

Căn cước của Pháp Môn Chiếu Minh.

Giáo sư có thể tham khảo các căn cước khác tại link:

https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2025/02/5487-can-cuoc-mot-so-chi-phai-cao-ai.html#more

HẾT TRANG 8

3/- Tìm hiểu Đạo Cao Đài qua dân tộc học.

 Giáo sư viết tại trang 02: … tôi sẽ thử đặt Đạo Cao Đài trong ghi chép về dân tộc học của những tôn giáo mới đang đẩy mạnh biểu tượng, chuyện kể, và kỹ nghệ của các nhà nước dân tộc hiện đại … theo Tôi hiểu là hướng đi đúng.

Tại sao đúng hướng?

Bởi vì Thượng Đế hỏi Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, mở đạo thì mở thể pháp (biểu tượng) trước hay bí pháp (nội dung) trước. Đức Hộ Pháp trả lời: Thưa Thầy mở bí pháp (nội dung) trước. Thượng Đế dạy phải mở thể pháp (biểu tượng) trước, rồi sau đó mới khai bí pháp (nội dung). Theo đó Đạo Cao Đài có thể pháp (biểu tượng) và bí pháp (nội dung).

Thể pháp là phần biểu tượng thông qua các hình thức của tôn giáo. Các hình thức đó bao gồm kinh sách, kiến trúc, kiến thiết, màu sắc, tổ chức tôn giáo …

Bí pháp là phần thụ đắc (tìm hiểu và thực hành) của mỗi người từ thể pháp.

Trong thể pháp có bách khoa xã hội học và bí ẩn siêu hình học. Bách khoa xã hội học là phần đa dạng và kiểm chứng được so với tài nguyên và môi trường hiện tại. Bí ẩn siêu hình học là niềm tin chỉ có thể lý hội hay mặc khải để hiểu và không thể chứng minh trong hiện tại. Bởi vì khoa học, kỹ thuật hiện tại chưa cung cấp điều kiện để soi sáng hay chứng minh.

Nhiều người tìm hiểu, nghiên cứu về Đạo Cao Đài mà chỉ tìm hiểu qua kinh văn mà không kết hợp với kiến trúc, kiến thiết, màu sắc, tổ chức là chưa hiểu đầy đủ về Thể-Pháp nên dẫn đến thiếu sót.

Thí dụ 1: Thông thường cây cầu nối làng A với làng B thì cây cầu đó phải có một đầu ở làng A và đầu còn lại ở làng B.

Theo Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài là trung gian (cầu nối) giữa Cửu Trùng Đài với Bát Quái Đài. Trong kiến trúc của Tòa Thánh Tây Ninh Cửu Trùng Đài lại ở giữa Bát Quái Đài và Hiệp Thiên Đài. Ngay cả khi cúng Chức sắc Hiệp Thiên Đài cũng đứng ở phía sau Chức sắc Hiệp Thiên Đài. Đó là thể pháp tôn giáo và cũng là vấn đề để nhà nghiên cứu ghi nhận sự khác biệt. Còn ý nghĩa của nó như thế nào là các bước tiếp theo.

Thí dụ 2: trong mục 1.1 trên đây Tôi mời Giáo sư tham khảo thêm thể pháp Đại-Đồng-Xã ngay trước Đền Thánh. Đó là mô hình xây dựng một thế giới mới của Đạo Cao Đài, nó không nằm trong kinh văn. 

HẾT TRANG 9

Đó là Thể Pháp qua kiến trúc. Theo sự tìm hiểu của Tôi thì các chi phái Cao Đài cũng không có thể pháp Đại-Đồng-Xã.

https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2018/12/2847-phap-ai-ong-xa.html#more

Thí dụ 3: trong mục 1.2 Tôi mời Giáo sư tham khảo công trình xây dựng vùng Châu Thành Thánh Địa. Đó là bài học của Hội Thánh Cao Đài để lại cho hậu tấn, nó cũng không nằm trong kinh văn. Đó là thể pháp qua kiến thiết.

https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2020/07/3116-tuyen-tap-chon-phap-cao-ai-q1-tt-11.html#more

Phần ghi chép, tìm hiểu … biểu tượng, chuyện kể, và kỹ nghệ của các nhà nước dân tộc hiện đại … theo Giáo sư viết, theo Tôi hiểu đó chính là phần thể pháp của tôn giáo.

Trang 02 Giáo sư viết: tôi tập trung vào đọc các bài thuyết đạo, những bản sao chép và những lời dẫn giải,tìm hiểu Đạo Cao Đài qua các bài thuyết đạo của Đức Hộ Pháp. Theo Tôi hiểu đó là điều đúng. Bởi vì đó là một phần trong thể pháp được Hội Thánh Cao Đài nhìn nhận.

Nhưng cũng nên đặt ra câu hỏi là căn cứ vào nguồn nào mà Đức Hộ Pháp tạo ra các bài thuyết đạo đó?

Xin thưa rằng do nơi Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo … nghĩa là lời dạy của Thượng Đế và các Đấng Thiêng Liêng mà Đức Hộ Pháp tạo ra các bài thuyết đạo đó. Tôi đề nghị Giáo sư xem các bài Đức Hộ Pháp giảng về phần xã hội học như Tôn giáo và Văn minh… Đức Hộ Pháp có thực hiện một số quyền năng đặc biệt của Hộ Pháp nhưng đó không phải là mục đích chính.

Mục đích chính của Đức Hộ Pháp là hướng dẫn cho hậu tấn hiểu được cách thức lập pháp của Thượng Đế dạy để xây dựng xã hội hòa bình, dân chủ, tự do.

… Đạo Cao Đài có mục phiêu chánh đáng là chúng ta phải làm cho kỳ được bác ái, công bằng, vị tha, ưu nhơn ái vật, cải thiện dân sinh, làm cho đại đồng thiên hạ. Ta đã hy sinh không biết bao nhiêu xương máu từ thử đến giờ cũng vì muốn đạt cho được cái mục phiêu ấy. Muốn cho Đạo Cao Đài có giá trị nơi mặt thế nầy mà đi chưa đến mục đích ấy tức công trình của ta cấy lúa trên đá.  (08-04-1958, Đức Hộ Pháp)

Xin thưa rằng Giáo sư đọc Lời Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp để tìm hiểu Đạo Cao Đài là đúng, trong quá trình học đạo Tôi xin chia sẻ thêm mà thôi. Xin cảm ơn và chúc mừng Giáo sư đã chọn thể pháp 

HẾT TRANG 10

để tìm hiểu Đạo Cao Đài và có những nhận định rất đáng ngưỡng mộ.

4/- Trang 01 Giáo sư cung cấp thông tin từ nhiều người: Đạo Cao Đài được gọi là “ít được hiểu rõ nhất trong tất cả các phong trào của Việt Nam ở thế kỷ thứ 20” (Popkin 1979: 193, cũng xem ở Wolf 1968, Smith 1971, Taylor 2001, Woodside 2006).

Do vậy Tôi xin đặt câu hỏi tại sao Đạo Cao Đài lại ít được hiểu rõ như vậy?

4.1/- Do tự thân tôn giáo.

Tôi xin nêu ra 3 nguyên nhân.

Xét về nguồn gốc: Thượng Đế dùng cơ bút lập ra Đạo Cao Đài vào năm 1926. Trong khi cơ bút đã xuất hiện từ lâu như một phương tiện để bói toán nhưng Thượng Đế dùng cơ bút như một phương tiện để nhận thức thế giới và xây dựng một trật tự mới, một nền văn minh mới với nhiệm kỳ bảy trăm ngàn năm. Đây là điều ít người nhận biết.

Xét về cách tổ chức: tại thời điểm 1926 khái niệm về xã hội dân sự ở Việt Nam hầu như chưa có. Trong khi đó xét về thể pháp Đạo Cao Đài chính là một tổ chức xã hội dân sự có tổ chức từ thượng tầng đến hạ tầng rất minh bạch và có tam quyền phân lập. Nó quá mới nên các vị không nhận ra. Nó cũng như câu chuyện về con voi trong thư số 3 Tôi thảo luận với Giáo sư về Đạo Nghị Định Thứ Tám.

Xét về mục đích: Do sự khủng bố từ thực dân Pháp nên Hội Thánh Cao Đài không thể nói rõ hết được:

Ngày 29-4-1958, Đức Hộ Pháp viết: Đạo Cao Đài nẩy sinh ra giữa sự thù địch của thiên hạ về công lý và về tín ngưỡng. Qua nói rằng Đạo Cao Đài là một nền Đạo hoàn toàn do tinh thần của nòi giống Việt Nam mà xuất hiện. …

Ta cũng biết như thế, nhưng ta không dám nói rõ. Duy chỉ có mạng lịnh của Đại Từ Phụ biểu là tuyên bố cho toàn thể hoàn cầu đều biết. Nên chúng ta không phương dấu diếm. Chính mình phải tự hiểu lấy mình rằng: Đứng trước một kẻ thù nghịch của mình đủ quyền năng, đủ thế lực mưu hại lại mình mà dám vỗ ngực xưng tên rằng mình là kẻ thù địch của họ... thì họ tìm phương hại lại mình là đúng, còn than thở trách móc mà làm gì.

Dầu rằng mình biết lẽ ấy; nên đã đề xướng ra thuyết: QUI TAM GIÁO, HIỆP NGŨ CHI đặng làm cho dịu bớt tình thế. Nhưng cũng không đủ phương bào chữa. Và cũng vì nơi đó mà chính Qua đủ đức tin chịu nổi khổ hạnh đặng tranh đấu vượt qua các trở lực. 

HẾT TRANG  11

https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2019/11/2950-nguyen-do-nao-co-chi-phai.html#more

4.2/- Do ngoại cảnh.

Theo Tôi nguyên nhân chính là do quan điểm của chính quyền Pháp. Chính quyền Pháp hiểu Đạo Cao Đài như một tổ chức hay phong trào lập ra để chống pháp và cung cấp thông tin ra xã hội. Do vậy các nhà nghiên cứu bị ảnh hưởng quan điểm của chính quyền Pháp nên không hiểu đúng về Đạo Cao Đài.

Thứ hai là những người không có trách nhiệm trong đạo, tự tạo ra văn bút, tự phát hành nhưng lại mạo danh Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ viết trên bìa sách làm cho xã hội hiểu lầm đó là kinh sách của Hội Thánh Cao Đài. Nói rõ ra là những người vi phạm Chương Trình Hiến Pháp của Hội Thánh Cao Đài ban hành năm 1928.

Ðiều thứ 22: -Nghiêm cấm trong Ðạo không ai đặng lấy danh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ và dùng THIÊN ÂN, THIÊN NHÃN mà đề vào bìa Kinh sách, Bố cáo, vân vân... hay là in Thánh Tượng, Kinh sách (bán hoặc phát không) nếu Kinh sách và Thánh Tượng ấy không có trình ban kiểm duyệt xem xét trước và đóng con dấu kiểm duyệt.

Ðiều thứ 24: -Kể từ ngày ban hành "Chương Trình Hiến Pháp" duy có một mình Hội Thánh "Cửu Trùng Ðài" được quyền in Kinh sách, Tượng để hiệu "Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ".

5/- Những điểm mờ.

Khi thảo luận về Đạo Cao Đài Tôi nhận thấy: khi vận dụng một điều luật hay một lời dạy trong Thánh Ngôn làm căn cứ để trả lời thì câu trả lời được rõ ràng và dứt khoát.

Thí dụ như Đạo Nghị Định Thứ Tám xét đến cùng thì là hệ luận của Lời Minh Thệ: … Từ đây biết MỘT Đạo Cao-Đài Ngọc-Đế … đã nhìn nhận Lời Minh Thệ thì Đạo Nghị Định Thứ Tám là đúng.

Hay câu hỏi về Đức Hộ Pháp cầm quyền Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng có căn cứ từ lời dạy của Thượng Đế về Chánh Trị Đạo, nên căn cứ vào đó sẽ trả lời minh bạch.

Nhưng có những vấn đề không thể làm rõ được là do cách đặt vấn đề. Thí dụ như sử gia: Ralph Smith đã có lời mô tả nổi tiếng về ông Tắc với tư cách là nhà lãnh đạo Cao Đài “nổi bật nhất, nhưng không nhất thiết là quan trọng nhất” (1971) (trang 02).

HẾT TRANG 12

Tại sao không thể làm rõ được?

Thứ nhứt: Đức Chí Tôn định phong Ngài Ngô Văn Chiêu làm Giáo Tông (là phẩm cao nhất), nhưng Ngài Chiêu không nhận và lui về tu theo Pháp Môn. Thượng Đế vẫn dạy tiến hành mọi việc chứ đâu phải vì không có Ngài Chiêu mà Thượng Đế không lập Đạo Cao Đài. Vậy Ngài Chiêu quan trọng hay không quan trọng?

Thứ hai: Đức Hộ Pháp dạy trong Thánh lịnh 257: … Theo chơn truyền luật pháp của Đạo thì Thánh Thể Đức Chí Tôn từ Tín Đồ dĩ chí Giáo Tông và Hộ Pháp thì nó chỉ làm một với nhau Trong Thánh Thể của Đức Chí Tôn thì tất cả đều hữu ích, mà hữu ích là quan trọng.

Thứ ba: Trong Nội luật Hội Nhơn Sanh và Hội Hội Thánh qui định đến giờ họp mà Nghị trưởng vắng mặt thì Phó Nghị trưởng lập tức lên thay; cứ theo phép thay thế mà tiến hành, có bao nhiêu người cũng tiến hành và có giá trị đầy đủ.

Qua đó cho thấy không có căn cứ để xác định ai là người quan trọng nhất trong Đạo Cao Đài. Sử gia Ralp Smith có quyền đặt vấn đề Ai quan trọng nhất trong Đạo Cao Đài. Nhưng Tôi hiểu là sử gia Ralp Smith nêu ra vấn đề không ai có thể trả lời thỏa đáng.

Trang 03: Hay Một nhà sử học về Cao Đài tranh luận rằng ông Tắc “đã muốn làm cố vấn tôn giáo cho Ông Hoàng Bảo Đại ngang tầm như vị trí của Richelieu đối với Vua Louis XIV” (Đỗ Văn Lý 2005). (trang ba).

Ông Đỗ Vạn Lý là một người có nhiều bằng cấp trong xã hội, một nhà chính trị từng làm đại sứ cho chính quyền ông Ngô Đình Diệm, đồng thời cũng là Đạo Trưởng của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý 171B, Cống Quỳnh Sai Gòn. Ông Đỗ Vạn Lý viết Đức Hộ Pháp MUỐN có nghĩa là Đức Hộ Pháp chưa đạt được vị trí Cố vấn của Quốc Trưởng Bảo Đại nên mới MUỐN. Vậy sự thật như thế nào?

Năm 1954 Quân Đội Cao Đài có mấy chục ngàn chiến sĩ, Đức Hộ Pháp là Thượng Tôn Quản Thế. Quốc Trưởng Bảo Đại đã mời Đức Hộ Pháp là Cố vấn Tối cao sang Paris từ 20-5-1954 để giúp ý kiến cho Hội Nghị Geneve về Việt Nam.

Ngày 21-5-1954 (17 giờ 30) Đức Hộ-Pháp mở họp báo tại nhà hàng Hotel George V. Đại-diện báo-chí phỏng-vấn Đức Hộ-Pháp về đường lối chánh-trị. Đức Hộ Pháp đáp rằng "Đức Ngài sang Pháp với danh-nghĩa Cố-Vấn tối-cao của Quốc Trưởng, Đức Ngài sẽ gặp Đức Quốc Trưởng và sẽ thỉnh ý Đức Quốc Trưởng mà thôi.". Câu trả lời trước báo chí là đã công khai trước xã hội.

HẾT TRANG 13

Tháng 6-1954. Quốc Trưởng Bảo Đại phong ông Ngô Đình Diệm làm Thủ Tướng tại lâu đài Thorenc (Cannes). Đức Hộ Pháp có mặt và ghi lại lời thề của ông Ngô Đình Diệm.

. .. Bởi Ngô Đình Diệm có hội tay ba tại Ba Lê (Paris) với Quốc Trưởng Bảo Đại cùng Qua. Người có tuyên thệ trước bàn thờ Tổ Quốc rằng: “Không phản Tổ Quốc chủng tộc Việt Nam, nếu bội ước sẽ chết trước mũi súng thần của dân tộc và linh hồn bị luật thiên điều của Chúa hành phạt”. Do đó Đức Hoàng Đế Bảo Đại giao cho làm Thủ Tướng để thống nhất các khối quân lực trong các đảng phái để tránh nạn xô xác sanh mạng và trừ nạn chia đôi lãnh thổ.... (05-02-1956).

Sự thật là Đức Hộ Pháp đã làm Cố Vấn tối cao cho Quốc Trưởng Bảo Đại rồi; nhưng nhà sử học Đỗ Vạn Lý viết Đức Hộ Pháp MUỐN làm Cố vấn là sai. Giáo sư có thể kiểm chứng lại việc nầy.

Nhưng vấn đề là tiếp theo đó ông Đỗ Vạn Lý viết: như vị trí của Richelieu đối với Vua Louis XIV”; cho nên Tôi không thể so sánh Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc với vị trí của Richelieu đối với Vua Louis XIV để làm rõ được. Điểm mờ nầy do nhà sử học Đỗ Vạn Lý tạo.

Thành thật cảm ơn Giáo sư đã ghi nhận những sáng kiến quan trong của Đạo Cao Đài.

Trân trọng.

Dương Xuân Lương.
Email: hoabinhchungsong220513@yahoo.com

  HẾT TRANG  14