Ba nguyên tắc đó là Nhân Bản, Dân Tộc và Khai Phóng, sau này là Nhân Bản, Dân Tộc và Khoa Học trong khi trong Đề Cương Văn Hóa của Đảng Cộng Sản Việt Nam thì là Dân Tộc, Đại Chúng và Khoa Học.
Sự liên tục Lịch sử trong nền Giáo dục của
miền
Nam thời trước năm 1975
Một trong những đặc tính căn bản của sinh hoạt ở Miền Nam thời trước năm 1975 nói chung và văn hóa miền Nam nói riêng là sự liên tục lịch sử. Nói như vậy không phải là trong thời gian này miền đất mà những người Quốc Gia còn giữ được không phải là không trải qua nhiều xáo trộn. Chiến tranh dưới hình thức này hay hình thức khác luôn luôn tồn tại và có những thời điểm người ta nói tới các chế độ độc tài hay quân phiệt và luôn cả cách mạng.
https://daihocsuphamsaigon.org/index.php/bien-kh-o/20-phamcaoduong/951-sulientuclsgd
Nhưng ngoại trừ những gì liên hệ tới
chế độ, quân sự hay an ninh quốc gia, sinh hoạt của người dân vẫn luôn luôn được
tôn trọng. Sự liên tục lịch sử do đó đã có những nguyên do để tồn tại, tồn tại
trong sinh hoạt hành chánh, tồn tại trong sinh hoạt tư pháp, trong văn chương
và nghệ thuật và tồn tại đương nhiên trong sinh hoạt giáo dục. Trong bài này
tôi chỉ nói tới tới giáo dục và giáo dục công lập. Đây không phải là một bài khảo
cứu mà chỉ là một bài nhận định và những nhận định được nêu lên chỉ là căn bản,
sơ khởi, đồng thời không đầy đủ. Một sự nghiên cứu kỹ càng, có phương pháp hơn
và đầy đủ hơn là một điều cần thiết.
Giáo
dục là của những người làm giáo dục
Giáo
dục công lập ở Viẽt Nam đã có từ lâu đời và tùy theo nhận định của các sử gia,
tới một mức độ nào đó định chế này đã tồn tại trên dưới mười thế kỷ. Mục đích của
nó là để đào tạo nhân tài cho các chế độ, nói riêng, và cho đất nước, nói
chung. Các vua chúa Việt Nam thời nào cũng vậy, cũng coi trọng việc học. Có điều
coi trọng thì coi trọng, các vua Việt Nam, nói riêng và các triều đình Việt
Nam, nói chung, chỉ vạch ra nhữn g đường nét chung và những mục tiêu chung, kèm
theo là tổ chức các kỳ thi để tuyển chọn ngưới tài mà không trực tiếp can dự
vào sinh hoạt giảng dạy của các trường, hầu hết là các trường tư ở rải rác khắp
trong nước. Sinh hoạt này hoàn toàn do các thày ở các trường tự do đảm trách.
Giáo dục là của những người làm giáo dục, và cho đến khi người Pháp sang, nó là
của giới trí thức đương thời, đúng hơn là của các nhà Nho với tất cả những học
thuyết, nhửng nguyên tắc căn bản của giới này. Sang thời Pháp, do nhu cầu bảo vệ
và phát triển văn minh và văn hóa của họ, người Pháp lập ra một nền giáo dục mới,
nhưng việc điều hành, việc soạn thảo chương trình vẫn được giao cho các
nhà giáo được huấn luyện chuyên môn hay ít ra là lựa chọn nghề dạy học với tinh
thần quí trọng kiến thức và yêu mến nghề dạy học dù chỉ là tạm thời về phía người
Pháp cũng như về phía người Việt.
Đặc
tính kể trên đã liên tục được tôn trọng trong suốt thời gian miền Nam tồn tại
và luôn cả trước đó, từ thời Chính Phủ Quốc Gia của Cựu Hoàng Bảo Đại. Chức vụ
bộ trưởng hay tổng trưởng giáo dục có thể là do các chính trị gia hay những người
thuộc các ngành khác đảm nhiệm, nhưng trong việc lựa chọn nhân sự điều hành
trong bộ, ngoại trừ các chức vụ có tính cách chính trị như đổng lý văn phòng,
bí thư tức thư ký riêng của bộ trưởng... tất cả các chức vụ chỉ huy khác trong
bộ, từ thứ trưởng, tổng thư ký, tổng giám đốc, giám đốc cho tới các hiệu trưởng
các trường và đương nhiên là các giáo sư, giáo viên đều là những nhà giáo
chuyên nghiệp. Lý do rất đơn giản: họ là những người biết việc, rành công việc
và có kinh nghiệm, chưa kể tới sự yêu nghề. Chính trị đối với họ chỉ là nhất thời,
tương lai của cả một dân tộc hay ít ra là của những thế hệ tới mới là quan trọng.
Trong phạm vi lập pháp, rõ hơn là ở quốc hội, các chức vụ đứng đầu các ban hay
tiểu ban, dù là thượng viện hay hạ viện đều do các nghị sĩ hay dân biểu gốc nhà
giáo phụ trách. Ngọại trừ ở những vùng mất an ninh, những gì thuộc phạm vi
chính trị nhất thời đã ngưng lại trước ngưỡng cửa của học đường.
Tôn
chỉ và mục đích nhằm hướng tới quốc gia, dân tộc và con người, dựa trên những
truyền thống cũ
Nói
tới ba nguyên tắc căn bản, đồng thời cũng là tôn chỉ và mục đích tối hậu của nền
giáo dục của miền Nam trước năm 1975, có người tỏ ý không thích. Lý do có lẽ,
tôi chỉ đoán như vậy, là vì ba nguyên tắc này phần nào đã được người Cộng Sản
nêu lên trong Đề Cương Văn Hóa 1943 của họ. Ba nguyên tắc đó là Nhân Bản, Dân Tộc
và Khai Phóng, sau này là Nhân Bản, Dân Tộc và Khoa Học trong khi trong Đề
Cương Văn Hóa của Đảng Cộng Sản Việt Nam thì là Dân Tộc, Đại Chúng và Khoa Học..
Ở đây người viết không đi sâu vào khía cạnh này vì dù không thích hay không đồng
ý, ba nguyên tắc này vẫn đã trở thành căn bản của nền giáo dục của miền Nam.
Chúng đã giúp cho nền giáo dục này giữ được những truyền thống cơ bản của dân tộc
và phát triển một cách vững vàng từng bước một để theo kịp với đà tiến triển của
cả nhân loại mà không chạy theo những gì của thời thượng để trở thành lai căng,
mất gốc, đồng thời cũng không bị gán cho là bảo thủ, lỗi thời.. Tính cách liên
tục lịch sử của nền giáo dục của miền Nam sở dĩ có được phần nào là dựa trên những
nguyên tắc này, đặc biệt là nguyên tắc Dân Tộc. Nó cho phép người ta đề cao và
bảo tồn những truyền thống dân tộc trong học đường, dù đó là những truyền thống
thuần túy Việt Nam hay những truyền thống của Khổng giáo, một học thuyết coi
giáo dục là công tác cơ bản của con người. Đôi câu đối được khắc trên cổng
chính của một trong những trường trung học lớn nhất của miền Nam là trường
Petrus Trương Vĩnh Ký sau đây là một trường hợp điển hình:
Khổng Mạnh cương cường tu khắc cốt
Âu Tây khoa học yếu minh tâm
Sự
liên tục trong phạm vi nhân sự
Nhân
sự ở đây không ai khác hơn là các nhà giáo, căn bản là các nhà giáo chuyên nghiệp.
Tôi muốn nói tới các nhà giáo tốt nghiệp từ các trường sư phạm, những người
ngay từ thuở thiếu thời đã chọn nghề dạy học làm lý tưởng cho mình và chỉ sống
bằng nghề dạy học, vui với nghề dạy học hãnh diện với vai trò làm thày, làm cô
của mình, dù đó là sư phạm tiểu học hay sư phạm trung học. Tất cả các vị này vẫn
còn nguyên vẹn khi đất nước bị qua phân và đã ở các trường trong Nam khi các
trường này được mở cửa trở lại sau một thời gian chiến tranh bị tạm đóng cửa.
Sau khi đất nước bị chia cắt và qua cuộc di cư của non một triệu người từ miền
Bắc vô Nam, họ lại được tăng cường thêm bởi một số đông các đồng nghiệp của họ
từ miền Bắc vô cùng với các trường được gọi là Bắc Viêt di chuyển. Tất cả đã
cùng nhau hướng dẫn và điều hành các học đường miền Nam trong thời kỳ chuyển tiếp
từ Pháp thuộc sang độc lập, đồng thời cũng là những giảng viên cơ bản trong các
trường huấn luyện giáo chức thuộc thế hệ mới.Từ phong thái đến cách giảng dạy,
từ cách vào lớp tới cách viết bảng và xóa bảng, các vị này đã để toát ra một sự
chừng mực của những nhà sư phạm nhà nghề, khác hẳn với các đồng nghiệp của họ từ
ngoại quốc về chỉ lo dạy các môn học chuyên môn. Học đường do đó đã tránh được
nạn chánh trị hóa, tránh được nạn cán bộ chánh trị xâm nhập. Nhiều vị vào những
lúc tình thế vô cùng tế nhị đã giữ được thế vô tư và độ lập của học đường. Cũng
cần phải nói thêm là trong thời gian này nhiều vị xuất thân là cử, tú, kép, mền,
luôn cả tiến sĩ của thời trước, những người tinh thâm Nho học, vẫn còn có mặt ở
các học đường, đặc biệt là các đại học văn khoa ở Saigon và Huế.
Hệ
thống tổ chức, tổ chức thi cử và chương trình học vẫn giữ được những nét chính
của chương trình Pháp và chương trình Hoàng Xuân Hãn
Đây
là một trong những đặc tính căn bản của nền giáo dục của miền Nam trong suốt thời
kỳ nền giáo dục này tồn tại. Những gì người Pháp thiết lập không những không bị
hủy bỏ, coi như tàn tích của chế độ thực dân, đế quốc mà còn được thận trọng giữ
gìn, song song với việc bảo tồn truyền thống văn hóa cổ truyền và đạo đức của
dân tộc. Người Việt ở miền Nam trong tinh thần cởi mở và tự do đã biết phân định những
gì là kìm kẹp và những gì là hay đẹp mà một chế độ chính trị đem lại thay vì cứ
nhắm mắt đập bỏ để sau này hối tiếc. Các nhà làm giáo dục ở miền Nam đã tỏ ra
vô cùng thận trọng trong mọi quyết định. Những gì gọi là cách mạng vội vã, nhất
thời dường như không được chấp nhận. Họ chủ trương cải tổ để thích ứng với hoàn
cảnh mới và cải tổ từ từ, kể cả khi thế lực và ảnh hưởng của người Mỹ, từ đó áp
lực của họ, đã trở nên rất mạnh qua những chương trình viện trợ của họ. Hệ thống
giáo dục do người Pháp từ tiểu học cho đến đại học đã tồn tại dưới hình thức Việt
hóa bắt đầu từ thới chính phủ Trần Trọng Kim với chương trình Hoàng Xuân Hãn, vị
bộ trưởng giáo dục đương thời. Nó cho phép người ta, từ thày đến trò dễ dàng
chuyển sang một nền giáo dục mới của một quốc gia độc lập không hề có chuyện trục
trặc. Ngay từ cuối niên học 1944-1945 người ta đã tổ chức đươc những kỳ thi ở bậc
tiểu học bằng tiếng Việt mà không hề có chuyện than phiền, khiếu nại. Điều nên
nhớ là chính phủ Trần Trong Kim chỉ tồn tại có vẻn vẹn bốn tháng trời hay hơn một
trăm ngày với những phương tiện giao thông và liên lạc hết sức nghèo nàn. Sau
này khi gửi sinh viên ra ngoại quốc du học, miền Nam đã không gặp phải những
khó khăn trong việc đối chiếu bằng cấp và khả năng của các đương sự, không phải
chỉ riêng cho những ai muốn sang du học bên Pháp mà luôn cả cho những ai muốn
sang các quốc gia khác, kể cả Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Úc, Nhật... vì đó là một hệ
thống giống như các hệ thống khác thuộc thế giới tây phương, một hệ thống gần với
hệ thống chung của quốc tế.
Duy
trì mối liên tục lịch sử cũng cho phép người ta sử dụng được các sách giáo khoa
của người Pháp và những sách giáo khoa về lịch sử và văn chương Việt Nam do
chính người Việt soạn thảo từ thời trước năm 1945 và sau đó là từ năm 1947 đến
năm 1954 ở những vùng đất của người quốc gia. Điển hình là các sách toán và
khoa học bằng tiếng Pháp, do các tác giả Pháp soạn và xuất bản ở bên Pháp nhưng
đã được không những các thày mà luôn cả các trò sử dụng làm tài liệu hay để tự
học. Trong phạm vi Văn chương, những sách của Dương Quảng Hàm, đặc biệt là hai
cuốn Việt Nam Văn Học Sử Yếu và Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển đã được dùng rất lâu
dù cho nhiều sách giáo khoa khác đầy đủ hơn đã được soạn thảo. Cũng vậy, trong
phạm vi sử học với cuốn Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim. Về nội dung, đặc
biệt là trong văn học, người ta cũng thấy nền giáo dục của miền Nam vẫn giữ được
tinh thần tự do, cởi mở. Các tác giả được đem dạy hay trích dẫn đã được lựa chọn
căn cứ vào giá trị của các công trình của họ thay vì gốc gác và sự lựa chọn chế
độ của họ, thay vì họ ở miền Bắc hay ở miền Nam trong thời gian này. Tô Hoài,
Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Nguyễn Tuân... là những trường hợp điển hình.
Trong
phạm vi thi cử, các kỳ thi được thiết lập từ thời Pháp hay có ở bên Pháp vẫn được
duy trì, đặc biệt là hai kỳ thi tú tài. Ở bậc đại học hệ thống tổ chức cũng
tương tự. Ảnh hưởng của người Mỹ chỉ được chấp nhận một cách từ từ với nhiều thận
trọng, mặc dầu người Mỹ đã bỏ ra nhiều tiền bạc và nhân sự qua các chương trình
viện trợ. Hình thức thi trắc nghiệm áp dụng cho các kỳ thi tú tài chỉ được thực
hiện rất trễ về sau này và dư luận đã đón nhận nó với những nhận định khác
nhau. Tiếc rằng chỉ vài năm sau miền Nam đã không còn nữa.
Trong
phạm vi tổ chức thi cử, người ta có thể thấy không riêng gì quan niệm, cách tổ
chức, cách coi thi và chấm thi cũng như cách cho điểm, định kết quả và công bố
kết quả hãy còn chịu ảnh hưởng nhiều của người Pháp mà còn luôn cả những thời
quân chủ trước đó nữa. Quyền uy của các giám khảo, các chánh phó chủ khảo, các
giám thị đã luôn luôn được tôn trọng và nhiều vị chủ khảo đã tỏ ra vô cùng can
đảm giữ thế độc lập cho mình hay biết khôn ngoan né tránh cho mình và cho các đồng
nghiệp của mình khi phải lãnh nhiện vụ ở những vùng xa thủ đô Saigon. Về phía
chính quyền thì từ trung ương đến địa phương hầu như không hề có sự trực tiếp
can thiệp . Báo chí, các cơ quan truyền thông vẫn luôn luôn hiện diện và sẵn
sàng phanh phui mọi chuyện.
Một
Xã hội tôn trọng sự học và những người có học
Đây
là một trong những đặc tính cơ bản của văn hóa Việt Nam mà xã hội miền Nam nói
chung và nền giáo miền Nam nói riêng thời trước năm 1975 được thừa hưởng. Đặc
tính này đã được biểu lộ không riêng qua tinh thần tôn sư trọng đạo mà còn được
coi như một giá trị và là một giá trị đứng đầu trong mọi giá trị.
Sự
học là một giá trị và giáo dục là một giá trị. Sự học hay giáo dục làm nên con
người chứ không phải là những yếu tố khác, dù đó là quyền uy và tiền bạc. Người
làm công tác giáo dục được tôn trọng và từ đó có được những điều kiện ít ra là
về phương diện tinh thần để thực thi sứ mạng của mình mà những người làm chánh
trị, những nhà chủ trương cách mạng, kể cả những người cấp tiến nhất cũng phải
kiêng nể. Giữa những người cùng làm công tác dạy học cũng vậy, tất cả đã tôn trọng
lẫn nhau và tôn trọng các bậc tôn trưởng, kể cả những người đã khuất. Sự thiết
lập những bàn thờ tiên sư ở các trường trung học Nguyễn Đình Chiểu ở Mỹ Tho và
Phan Thanh Giản ở Cần Thơ phải được kể là tiêu biểu cho tinh thần giáo dục của
miền Nam.
Tạm
thời kết luận
Bài
này được viết vào lúc những tin tức về những tệ hại trong nền giáo dục hiện tại
ở Việt Nam chiếm một phần không nhỏ trong sinh hoạt truyền thông quốc tế cũng
như quốc nội. Ngoài những tin tức, những bài nhận định còn có những hình ảnh của
các kỳ thi đi kèm. Tất cả đã xảy ra hàng ngày và đã chiếm những phần không nhỏ
trong thời lượng phát thanh hay phát hình hay trên các trang báo, đặc biệt là
vào những thời kỳ bãi trường hay khởi đầu của một niên học. Mọi chuyện đã liên
tiếp xảy ra từ nhiều năm trước và người xem, người nghe có thể đoán trước và chời
đợi mỗi khi mùa hè và sau đó là mùa thu đến. Nhiều người còn dùng hai chữ phá sản
để hình dung tương lai của nền giáo dục này và nhiều người tỏ ý nuối tiếc quá
khứ mà họ cho là rất đẹp của nền giáo dục ở miền Nam thời trước năm 1975. Ở
đây, như đã nói trong phần mở đầu, người viết chỉ vắn tắt ghi nhận một số những
dữ kiện căn bản . Một công trình nghiên cứu qui mô hơn và kỹ càng hơn còn cần
phải được thực hiện trước khi người ta có thể khẳng định những nhận xét này.
Tuy
nhiên có một điều người ta phải để ý và thận trọng khi nói tới cách mạng và đặc
biệt khi làm cách mạng. Người ta có thể xóa bỏ một chế độ chính trị bằng cách mạng,
từ đó đoạn tuyệt với quá khứ nhưng người ta không thể theo đà đó mà làm cách mạng
trong những phạm vi sinh hoạt khác trong đó có giáo dục. Nhận định này có thể bị
coi là bảo thủ, nhưng đó là một sự thật và một sự thật bắt đầu bằng kinh nghiệm.
Có điều vì bằng kinh nghiệm nên khi biết được thì đã quá muộn.
Gs
Phạm Cao Dương