Trang

Thứ Hai, 10 tháng 3, 2025

5743. Thư số 6. Gởi giáo sư Janet Hoskins Đại Học Nam California.

 

Hoa Kỳ ngày 27-02-2025.
Thư số 6.
Dương Xuân Lương.

Kính bà Janet Hoskin, Giáo sư trường Đại Học Nam California.

Trong Thư số 6 có mục đích minh bạch hai vấn đề.

Thứ nhứt: Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ độc lập với Pháp Môn Chiếu Minh Tam Thanh.


Thứ hai: Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ không phải Ngoại giáo công truyền theo ý nghĩa liên quan hay sánh đôi với Nội giáo tâm truyền của Pháp Môn Chiếu Minh Tam Thanh. Cho nên Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ cũng không phải là Phái Phổ Độ theo ý nghĩa liên quan hay sánh đôi với Phái vô vi của Pháp Môn Chiếu Minh Tam Thanh. Vấn đề thứ hai như hệ quả của vấn đề thứ nhứt.

Xin thành thật cảm ơn Giáo sư đã gởi bài viết bằng Tiếng Việt: Con Người và Khả Năng Sáng Tạo Thần Học của Phạm Công Tắc để Tôi hiểu chính xác các vấn đề trong bài viết. Các trích đoạn từ bài viết:

Trích 1: trang 05, Liên Kết với Những Vị Lãnh Đạo Khác: Phái Vô Vi – Phái Phổ Độ (hết trích.)

Trích 2: trang 6, Theo những lời chỉ dẫn họ nhận được ở đàn cơ với ông Chiêu, những nhà theo thuyết duy linh Sài Gòn đã lập một bàn thờ tương tự tại nhà ông Trung, và vào đêm giao thừa Tết 1926, họ nhận được thông điệp chính thức của Ngọc Đế, mở ra Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (hết trích).

Trích 3: trang 6, Vì ông Chiêu nhận được tín hiệu đầu tiên, và ông vẫn còn được xem là “tín đồ đầu tiên” của Cao Đài, nhưng chẳng bao lâu sau ông rút lui mọi nỗ lực để lập thành phong trào của số đông. Trong một đàn cơ, ông được mời làm Giáo Tông, nhưng ông từ chối khi thấy rằng không phải là lời mời này, mà là những cám dỗ trần tục khác làm ông không lấy việc tự đắm mình vào tìm kiếm tâm linh là quan trọng nhất. Thay vì vậy, ông về hưu ở Cần Thơ, nơi ông dạy các tín đồ khác về môn phái mà sau này được biết đến là “phái vô vi” (cũng được gọi là nội giáo tâm truyền) (hết trích).

Trích 4: trang 6, Phái phổ độ của Đạo Cao Đài (hay ngoại giáo công truyền) đi theo hướng hoàn toàn trái ngược: các đàn Tuần hành được tổ chức để tuyển hàng ngàn thành viên mới, lập quy định dễ 

HẾT TRANG 01

dàng hơn cho hầu hết các tín đồ (ăn chay mười ngày trong tháng), và bắt đầu nhập đạo tập trung vào việc cấp cứu tế cho hàng triệu người trước đe dọa ngày tận thế cho thế giới hiện tại (hết trích).

Mục đích bài viết nầy là làm rõ hai vấn đề nêu trên nên phải căn cứ vào tài liệu và xử lý thông tin từ tài liệu. Quan sát các đầu sách liên quan đến Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ nói tắt là Đạo Cao Đài lập năm 1926 tại Chùa Gò Kén Tôi nhận thấy có hai diện. Thứ nhất: nguồn do Hội Thánh Cao Đài ban hành; Thứ hai: nguồn không do Hội Thánh Cao Đài ban hành.

Về niềm tin: Tôi căn cứ vào kinh sách (thể pháp) của Hội Thánh Cao Đài ban hành làm gốc. Về tín lực, những kinh sách của Hội Thánh Cao Đài có sự kiểm duyệt nghĩa là có sự cẩn trọng, có nơi chịu trách nhiệm lâu dài. Về hậu quả, Đức Chí Tôn lập ra Hội Thánh Cao Đài là lập ra Thánh Thể của Đức Chí Tôn tại thế và đã công bố trước xã hội; như vậy có 3 tầng chịu trách nhiệm: người viết, Hội Thánh Cao Đài và Thượng Đế. Nói cho đến cùng nếu Hội Thánh Cao Đài làm sai có Đức Thượng Đế chịu trách nhiệm bồi thường. Điều nầy cũng giống như người đi mua bảo hiểm mà gặp công ty bảo hiểm tốt, nếu không may xảy ra tai nạn thì công ty bảo hiểm đó đủ sức chịu trách nhiệm. (Xem thêm chú thích số 1)

Với Tôi, những kinh sách không do Hội Thánh Cao Đài kiểm duyệt chỉ có giá trị tham khảo, nếu nó phù hợp với nội dung của Hội Thánh Cao Đài ban hành thì dùng để bổ sung. Các nội dung trái với kinh sách Hội Thánh Cao Đài thì Tôi không tin, lý do chính là không có sự cẩn trọng (vì không có ai kiểm duyệt), và chỉ có người viết chịu trách nhiệm (một tầng trách nhiệm). Tin vào kinh sách không do Hội Thánh Cao Đài ban hành cũng giống như mua bảo hiểm mà công ty bảo hiểm đó không có khả năng đền bù khi có tai nạn.

Thượng Đế dạy: Một câu thất đức thiên niên đọa … nghĩa là nói hay viết một câu thất đức bị đọa một ngàn năm. Người viết phải chịu trách nhiệm về bài viết của mình. Do vậy Tôi đặt niềm tin vào kinh sách do Hội Thánh Cao Đài ban hành; Tôi không mạo hiểm để tin vào những văn bút khác (nếu nó trái với kinh sách do Hội Thánh Cao Đài ban hành).

Về pháp lý: Cá nhân hay bất cứ tổ chức nào cũng có quyền tự do tìm hiểu biên soạn in ấn và phát hành sách về Đạo Cao Đài. Nhưng bất cứ kinh sách nào không có con dấu kiểm duyệt của Hội Thánh Cao Đài mà viết danh hiệu Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ trên bìa sách thì đó là hành vi mạo danh. Hành vi mạo danh đó vi phạm vào Chương Trình Hiến Pháp tại điều 22 và 24 của Hội Thánh Cao Đài mà Tôi đã trình bày với Giáo sư trong Thư số 5, mục 4.2. Việc mạo danh đó giống như một cá nhân hay tổ chức nào đó 

HẾT TRANG 2

không phải là Giáo Sư Janet Hoskin nhưng viết sách và phát hành với danh nghĩa là Giáo Sư Janet Hoskins trên bìa sách.

1/- Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ nói tắt là Đạo Cao Đài.

 

Thượng Đế dùng cơ bút lập ra Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ nói tắt là Đạo Cao Đài lập năm 1926, tại Chùa Gò Kén, Tây Ninh. Hội Thánh Cao Đài đặt địa điểm Trung ương tại Tòa Thánh Tây Ninh.

Nguyên lý: Vạn thù qui nhứt bn, và Đạo đi từ hữu hình đến vô vi. Nghĩa là từ rất nhiều hình thức khác nhau trở về cái gốc (là Thượng Đế); Đạo đi từ hữu hình là thể pháp sau đó đến vô vi là bí pháp. Đạo Cao Đài đưa nhân loại vào trường học của Thượng Đế.

Pháp Chánh Truyền Chú Giải viết: Đạo Cao Đài có thể pháp (ngoại dung) và bí pháp (nội dung). Đức Chí Tôn dạy khai Thể pháp trước bí pháp sau (Đức Hộ Pháp dạy các vị Phạm Môn ngày 30-5-Quý Tỵ, “10-7-1953”).

Cơ bút: Do Hiệp Thiên Đài phụ trách, Thượng Đế chọn 16 đồng tử phò cơ là 16 Tướng Soái để truyền đạo. Thượng Đế chỉ giáng cơ qua 16 đồng tử. Mỗi lần cầu Đại Ngọc Cơ phải có hai đồng tử. Các Thánh Thất Cao Đài tuyệt đối không được cầu cơ.

Nhiệm kỳ của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là 700.000 năm. 

1.1/- Vọng Thiên Cầu Đạo. Theo Đạo Sử của Bà Hương Hiếu quyển 1, trang 34, bản in Hoa Kỳ 1995.

Ngày 16-12-1925 (01-11-Ất Sửu) ba vị Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang đã VỌNG THIÊN CẦU ĐẠO.

Ba vị mỗi người cầm 09 cây nhang quỳ ngoài đường mà cầu: Vọng bái Cao Ðài Thượng Ðế, ban ơn đủ phúc lành cho ba tôi cải tà qui chánh.

Đạo sử viết: Ngày Vọng Thiên Cầu Ðạo là sắp vô đề mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ. Các Ðấng dìu dắt ba ông lần lần, nghĩa là ba ông mới nhập trường Ðạo.

HẾT TRANG 3

1.2/- Các sự kiện quan trọng sau Lễ Vọng Thiên Cầu Đạo.

Ngày 03-01-1926 (19-11-Ất Sửu) Ngọc Hoàng Thượng Đế dạy về Thủ cơ - Chấp bút.

Ngày 11-1-1926 (27-11-Ất Sửu), ông Lê Văn Trung nhập môn cầu Ðạo.

Sau ngày 28-01-1926 (15-12-Ất Sửu) Ngài Chiêu đến cộng tác với Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.

Ngày 13-2-1926 (01-01-Bính Dần) Thượng Đế dạy mở Cơ phổ hóa hay Cơ bút phổ độ (Cơ phổ độ) (1). Nhiều người hiểu lầm rằng Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là Cơ phổ độ hay Phái Phổ Độ.

Ngày 20-2-1926 (09-01-Bính Dần) Thượng Đế dạy: Cái NHÁNH các con là NHÁNH chính mình Thầy làm chủ, sau các con sẽ hiểu.

Ngày 26-4-1926 (15-3-Bính Dần), có cuộc Thiên phong đầu tiên, Ngài Chiêu tới thấy đông người thì ra về, không dự đàn cơ. Từ đó đường ai nấy đi. Thời gian Ngài Chiêu hợp tác chưa đầy ba tháng.

Ngày 29-9-1926 (23-8-Bính Dần), Tờ Khai Đạo với Chánh phủ Pháp, không có Ngài Chiêu.

Ngày 18-11-1926 (14-10-Bính Dần), Lễ Khai Đạo tại Gò Kén, không có Ngài Chiêu.

1.3/- Hội Thánh Cao Đài và Ngài Ngô Văn Chiêu.

Hội Thánh Cao Đài kiểm duyệt và cho phát hành Đạo Sử của Bà Hương Hiếu, nên đó là quan điểm là trách nhiệm của Hội Thánh Cao Đài. Theo Đạo Sử Ngài Chiêu không nhận trách nhiệm Giáo Tông là không nghe lời dạy của Thượng Đế, đó là lỗi của Ngài Chiêu đối với Thượng Đế, người khác không được dị nghị. Giới cấm thứ 5, Bất vọng ngữ: … cấm bày lỗi người, … nhạo báng, chê bai …. Do người Đạo Cao Đài ít khi nhắc đến lỗi người khác (ông Chiêu), nên nhiều người như Đồng Tân, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý 171B Cống Quỳnh SaiGon … đã tung ra ra những điều rất sai là cột chặt Ngài Chiêu vào Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.

Sau khi cột chặt thì phân ra: Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là Phái Phổ Độ, là Ngoại giáo công truyền, là Cao Đài Tôn Giáo, là cái xác; Pháp Môn Chiếu Minh Tam Thanh là Phái Vô Vi là Nội giáo tâm truyền, là Cao Đài Đại Đạo là cái hồn của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.

HẾT TRANG 4

Tôi rất kính trọng Ngài Chiêu và Tôi rất hiểu Ngài Chiêu đã bị người sau lợi dụng. Nhưng đây là việc công lý, sự thật cần làm rõ nên buộc lòng phải trích văn đầy đủ để Giáo sư hiểu sự thật: Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ độc lập với Ngài Chiêu. Sau đây là những trích văn từ Đạo Sử của Bà Hương Hiếu, bản in năm 1995, Hoa Kỳ.

1.3.1/- Quyển 1, trang 94:

Ông Phủ Ngô Minh Chiêu: (1) 1 áo Giáo Tông có thêu chữ bùa Bát Quái và 1 cái mão Giáo Tông.

(1) Ông Ngô Minh Chiêu đáng lẽ phải đắc phong Giáo Tông chánh vị, nhưng tiếc thay ngày lập Ðàn Thiên Phong ông Chiêu đến thấy đông người ông sợ bỏ ra về, vì vậy mà ông không được phong Giáo Tông, và về sau mất hẳn phẩm (hết trích).

1.3.2/- Quyển 1, trang 104. (tháng 4-1926)

Trung, Cư, Tắc ba con lập tức lên Chiêu biểu nó phải sắm sửa liền một bộ Thiên phục màu trắng. Trên đầu chẳng phải bịt khăn mà đội mão trắng có chữ Càn thêu bằng chữ vàng. Dặn nó mua thứ hàng thiệt tốt, mão cũng vậy, áo cũng vậy.

Hiếu lại phải nhọc công nữa, Thầy giao phần may sắm cho con. Con liệu cho kịp, Rằm phải có nghe con (hết trích).

1.3.3/- Quyển 1, trang 107. (22-4-1926)

Hiếu dâng mão Giáo Tông may xong rồi cho Thầy xem.

Trúng, mà ai đội con phòng lật đật (Ðức Chí Tôn biết trước là ông Chiêu không lãnh chức Giáo Tông, nên mới có câu nầy) (hết trích).

1.3.4/- Quyển 1, trang 109 (24-4-1926)

Chiêu đã có công tu, lại là Môn Ðệ yêu dấu của Thầy, nên Thầy muốn ban chức Giáo Tông cho nó, song vì lòng ám muội phạm đến oai linh Thầy mà ra lòng bất đức chẳng còn xứng đáng mà dìu dắt các con, nên Thầy cất phần thưởng nó, Thầy nhứt định để chức ấy lại mà đợi người xứng đáng, hay là Thầy đến chính mình Thầy đặng dạy dỗ các con….

Chiêu đã hữu căn hữu kiếp; Thầy đã dùng huyền diệu mà thâu phục độ rỗi nó trước các con, biết bao phen Thầy gom các Môn Ðệ lại, Thầy sở cậy nó ấp yêu dùm cho Thầy dường như gà mẹ ấp con, song nó chẳng vâng mạng lịnh Thầy, lại đành lòng cắn mổ xô đuổi dường ấy, thì làm sao cho xứng đáng cái trách nhậm rất lớn của Thầy toan phú thác cho nó. 

HẾT TRANG 5

Các con đừng trông mong rỗi cho nó, nghe và tuân mạng lịnh Thầy (hết trích).

1.3.5/- Quyển 1, trang 111. (25-4-1926)

Cư hỏi Thầy: Các Môn Ðệ đều đến bàn Ngũ Lôi và Vi Hộ Pháp mà thề và đến lạy Nhị vị Ðầu Sư, còn Anh Chiêu thì thế nào?

Thầy sẽ đợi lòng sám hối của nó, vì đã lo sợ cầu khẩn Thầy mấy bữa rày. Nó cũng phải lạy như các Môn Ðệ khác vậy (hết trích).

1.3.6/- Quyển 1, trang 112 (đêm 25 rạng 26-4-1926)

Ta nhận lời trước, còn điều sau phải tuân. Chư Môn đệ đồng quì lạy Thầy "xin thứ tội cho Ông Chiêu".

Chiêu thiếu đức thiếu tài.

Trung, con sợ ai?

Ta không vị ai.

Ta biết hơn ngươi.

Ta há không biết thương sao?

Ấy cũng vì thiếu đức.

Nó đã biết Ta. (hết trích).

….

 1.3.7/- Quyển 1, trang 112 (26-4-1926).

CAO-ĐÀI.

Chiêu, ngươi chẳng kiên lịnh Ta, ai kiên? Ta chờ ngươi.

Chiêu, ngươi chẳng thừa lịnh Ta, ai thừa lịnh? Ta đã nói người làm đầu Tam Giáo, đã bao phen Ta lập Ðạo sẵn cho, ngươi chê há.

Ta đã sở định, ngươi dám cải.

Chuyên quyền từ đấy bỏ tuồng xưa,
Nghe nịnh, nghe khen thói cũng chừa.
Sám hối Ta cho tu ít tháng,
Tài hay tài múa chớ đua lừa
(hết bài).

HẾT TRANG 6

1.3.8/- Quyển 2, trang 41. (26-11-1926)

Thơ nó dâng sớ cầu... Cười...

Thầy cũng thương đó chút. Thầy đã nói cái lòng thương Thầy hơn biếm trách, nên Thầy chẳng hề biếm trách các con, ngặt trước quyền của Thần, Thánh, Tiên, Phật, biết sao cứu rỗi cho đặng.

Thầy lại phải làm thinh cho khỏi mất lẽ công bình.

Thơ nó tưởng Thầy giận mà nài xin tha thứ, Thầy thì đặng còn Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật mới nài sao; nhứt là Thái Bạch Kim Tinh rất khó, Chiêu cũng vì vậy mà mất ngôi.

Các con chớ dễ ngươi phạm thượng nghe à (hết trích).

1.3.9/- Quyển 2, trang 178 (16 Janvier 1927)

Thượng Trung Nhựt, nhưng mấy miếng Thiên Nhãn Hiền Hữu cũng nên thâu nạp cho đẹp lòng Thầy... Cười....

Chiêu khẩn vái thường ngày ăn năn sám hối, lo tận tâm cùng chư Hiền Hữu hành Ðạo.

Thầy xin Lão tha, song tha sao cho tiện, nếu chẳng giữ nghiêm, Ðạo phải loạn.

Lão chẳng tha, nhưng mà Thiên Nhãn chư Hiền Hữu thâu dụng đặng cho thuận theo Thánh ý, lại cũng chỉ rõ cho đời hiểu rằng chư Hiền Hữu đã mang hàm oan buổi trước vậy (hết trích).

1.4/- Đối chiếu Pháp lý của tôn giáo và nhận xét của Giáo sư.

Hội Thánh Cao Đài đã kiểm duyệt 09 trích văn trên đây, đó là chứng cứ rằng Ngài Ngô Văn Chiêu không nghe theo lời dạy của Thượng Đế nên tách ra khỏi Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ. Do vậy bất cứ ai cột chặt Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ vào Ngài Chiêu là họ đã làm điều sai.

Những người lý luận rằng Pháp Môn Chiếu Minh Tam Thanh là Nội giáo tâm truyền (vô vi); còn Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là Ngoại giáo công truyền (hữu hình) lại càng sai nặng nề hơn nữa, đó là sự hoang tưởng của họ mà thôi.

Thượng Đế dùng cơ bút lập ra Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ nói tắt là Đạo Cao Đài vào năm 1926. Đạo Cao Đài là một tôn giáo pháp quyền với đầy đủ ý nghĩa như đã trình bày với giáo sư trong các thư trước đây, đặc biệt là Thư số 5. Đạo Cao Đài có thể pháp và bí pháp nên độc lập với Pháp Môn Chiếu Minh Tam Thanh.

HẾT TRANG 7

Giáo sư viết về Ngài Chiêu tại trang 6: Ông chưa bao giờ viết lại bất cứ học thuyết hay giáo lý nào(hết trích).

Trang 6 Giáo sư viết: Phái phổ độ của Đạo Cao Đài (hay ngoại giáo công truyền) đi theo hướng hoàn toàn trái ngược(hết trích).

Giáo sư đã nhận xét hai tổ chức có hai hướng đi hoàn toàn trái ngược nhau. Tôi cung cấp các chứng cứ có giá trị pháp lý về việc Ngài Ngô Văn Chiêu không có trách nhiệm gì trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ. Kết hợp nhận xét của Giáo sư và chứng cứ từ Hội Thánh Cao Đài đủ để kết luận: Đó là hai tổ chức độc lập nhau.

Một điều rất rõ ràng là Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ có nhiệm kỳ 700.000 năm và Pháp Môn Chiếu Minh có nhiệm kỳ 1.500 năm; hai tổ chức có nhiệm kỳ khác nhau cho nên mọi sự gán ghép vào nhau để tạo ra tổ chức nầy là Ngoại giáo công truyền tổ chức kia là Nội giáo tâm truyền là hoàn toàn vô lý. Nhiệm kỳ của Pháp Môn 1.500 năm rất ngắn so với 700.000 năm, vậy sau khi Pháp Môn hết nhiệm kỳ thì Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ nhảy cò cò một chân cho đến hết nhiệm kỳ hay sao? Tóm lại cột tổ chức có nhiệm kỳ 700.000 năm với tổ chức có nhiệm kỳ 1.500 năm vào nhau là sai.

Trên thực tế chính Pháp Môn Chiếu Minh Tam Thanh cũng có Ngoại giáo công truyền và Nội giáo tâm truyền, đó là nguồn từ Sách Lịch Sử Quan Phủ Ngô Văn Chiêu như dẫn chứng dưới đây.

2/- Ngài Chiêu học đạo với Cao Tiên.

Danh hiệu được nhà nước Việt Nam hiện nay công nhận có 14 chữ: Pháp môn Cao đài Đại đạo Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi do ông Ngô Minh Chiêu sáng lập ở Cần Thơ vào những năm 1924-1926.

2.1/- Sách Lịch Sử Quan Phủ Ngô Văn Chiêu do Pháp Môn Chiếu Minh Tam Thanh phát hành nên có đầy đủ pháp lý với Pháp Môn.

2.1.1/- Nhiệm kỳ của Pháp Môn: 1.500 năm.

Xin mời Giáo sư xem Thư của Ngài Chiêu viết trong Sách Lịch Sử Quan Phủ Ngô Văn Chiêu, trang 114 và 115; (2: ảnh 1 và 2).

Ngài Chiêu viết: Đạo của Cao Tiên đây hiệu là Thiên Hoàng (1) kể từ năm 1924 (2) gọi là năm thứ nhứt về cơ Đại-Đạo đếm tới 500 năm, từ năm trăm lẻ một tới 1.000 năm sau là Địa Hoàng, rồi năm 1001 tới 1500 sau nữa là Nhơn Hoàng (3) 

HẾT TRANG 8

... Thiên hoàng từ 1924 đến 2424 = 500 năm

Địa Hoàng 2424 đến 2924 = 500 năm

Nhơn Hoàng 2924 đến 3424 = 500 năm

Tổng cộng: 1.500 năm.

Đừng cho ai coi biết làm chi, vì có ai tin họ còn nhạo báng thêm nữa. Cái sự nhọc họ cho là dị đoan, còn cự vui vẻ dễ làm thì họ cho là phải.... (hết trích).

2.1.2/- Pháp Môn Chiếu Minh Tam Thanh có hai phần: Ngoại giáo công truyền và Nội giáo tâm truyền.

Trang 138 (ảnh 3) viết: Chương Ba, Phần Giáo Lý. …

3/- NGOẠI GIÁO CÔNG TRUYỀN.

4/- NỘI GIÁO TÂM TRUYỀN.

Trang 140 (ảnh 4) viết: Cũng như các tôn giáo thửa xưa, trong giáo pháp của Ngài có hai khoa:

/- Khoa CÔNG TRUYỀN TIỆM GIÁO. …..

/- Khoa TÂM TRUYỀN ĐỐN GIÁO: ….

3/- NGOẠI GIÁO CÔNG TRUYỀN. ….. 

  Trang 148 (ảnh 5)

4/- NỘI GIÁO TÂM TRUYỀN….

2.1.3/- Pháp Môn đi từ hữu hình đến vô vi.

Trang 140 (ảnh 4) viết:

Còn một đặc tính nữa, rất quan trọng, là khác hơn xưa, giáo pháp của Ngài bắt đầu từ chỗ hữu-hình mà đi lần lần đến chỗ Vô-Vi trừu tượng: là như thế tín đồ thấu lý diệu ẩn trong phần hữu hình, khỏi lâm vào nẽo sắc tướng, thinh âm…

2.1.4/- Trang 62 viết:

Cách hơn một tháng sau, Cơ Phổ Độ lại công bố một bài Thánh Ngôn trục xuất Ngài (đàn 25-6-Bính Dần).

HẾT TRANG 9

Nhưng, đừng nói chi tới Thánh Ngôn các đàn cơ từ 1926 đến nay, chỉ đem mấy bài Thánh Giáo nơi quyển “Lịch Sử” nầy ra mà đối chiếu thì cũng dư thấy rõ câu chuyện “trục xuất” kia hư thiệt thế nào rồi.

Trong sách của Hội Thánh Cao Đài ban hành Tôi không tìm thấy cơ bút ngày 25-6-Bính Dần trên đây nên không biết sự thật thế nào. Nhưng nội dung trên góp phần làm sáng tỏ việc Hội Thánh Cao Đài và Ngài Ngô Văn Chiêu độc lập với nhau sau ngày 26-4-1926.

2.2/- Phàm Tự Đại Thừa Chơn Giáo: sai sự thật.

Tân Luật Điều 12 qui định trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ có 2 bậc Hạ Thừa và Thượng Thừa. Tân luật không có bậc Đại Thừa, nhưng do nội dung của Phàm Tự, Bài Ca Tụng cho nên cần làm rõ.

Ngài Trần Văn Quế lập ra danh hiệu 8 chữ CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ là quyền tự do tôn giáo của Ngài. Các vị có danh hiệu 8 chữ trên đây cầu cơ học đạo cũng là quyền tự do tôn giáo và niềm tin của quý vị. Việc đó không liên quan gì đến Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ, nhưng vần đề nằm tại Phàm Tự, Bài Ca Tụng của Đạo Hữu Trước Lý Minh Đài Trần Văn Quế. Tôi rất kính trọng Ngài Trần văn Quế nhưng đây là việc công lý nên phải nói đúng sự thật.

 Ngài Trần Văn Quế là người có nhiều bằng cấp trong xã hội, dạy tại các Trường Đại Học, cụ là người từng chịu tù tội vì lòng yêu nước. Nhưng khi viết Phàm Tự, Bài Ca Tụng cụ Trần Văn Quế đã viết chi phái Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là sai sự thật, là hạ thấp giá trị nền Đại-Đạo do chính Thượng Đế lập ra.

Ngài Trần Văn Quế thọ phẩm Lễ Sanh của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, sau đó cụ từ bỏ Tòa Thánh Tây Ninh để theo chi phái Minh Chơn Lý, sau đó qua Tiên Thiên … Đến năm 1956, cụ Quế là Chủ Trưởng 

HẾT TRANG 10

Hội Thánh Truyền Giáo Trung Việt, với các phẩm Phối Sư, Chánh Phối Sư, được truy phong Đầu Sư (1980).

Năm 1964 Cụ Trần Văn Quế nhìn nhận Hội Thánh Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là gốc nên vận động các chi phái qui nhứt về Tòa Thánh Tây Ninh. Điều nầy trái ngược với nhận định của chính cụ Quế viết trong Phàm Tự, Bài Ca Tụng năm 1936. Điều đó có nghĩa là cụ đã nhận ra cái sai của cụ viết năm 1936 nên nên sửa sai vào năm 1964.

Đến năm 1965 Ngài Quế được mời làm Tổng Lý Minh Đạo Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý 171B Cống Quỳnh. Năm 1969 Hội Thánh Cao Đài và các chi phái Cao Đài ký Vi Bằng 09 Điều Kiện Qui Nhứt về Tòa Thánh Tây Ninh không có tên Ngài Quế.

Do vậy Đồng Tân là đồng tử của Hội Thánh Truyền Giáo Trung Việt truyền bá cái sai của cụ Trần Văn Quế. Đến khi Hội Thánh Cao Đài bị nhà cầm quyền cộng sản xóa bỏ thì Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý 171B Cống Quỳnh nâng cái sai của cụ Trần Văn Quế lên cao hơn nữa, mục đích là dùng cái sai đó để viết lại lịch sử Đạo Cao Đài. Tại sao họ làm như vậy? Đó là câu hỏi quan trọng, nên sẽ là một đề tài khác.

3/- Kết luận.

Sự thật là Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ và Pháp Môn Chiếu Minh Tam Thanh là hai tổ chức hoàn toàn độc lập nhau. Giáo sư cũng nhận xét là hai tổ chức có hai hướng đi trái ngược nhau. Do vậy mọi sự phân vai cho hai tổ chức trên đây theo ý nghĩa liên quan nhau hay sánh đôi nhau như Ngoại giáo công truyền, Nội giáo tâm truyền hay Phái Phổ Độ, Phái Vô Vi … đều sai với sự thật, sai với lịch sử Đạo Cao Đài.

Trên thực tế Hội Thánh Cao Đài tại Tòa Thánh Tây Ninh và Ngài Ngô Văn Chiêu ở Cần Thơ cũng chưa từng có bất cứ sự hợp tác nào kể từ ngày 26-4-1926 cho đến khi Ngài Chiêu tạ thế (1932). 

Xin thành thật cảm ơn Giáo sư đã tìm hiểu và giới thiệu Đạo Cao Đài. Kính chúc Giáo sư có nhiều thành công trong việc nghiên cứu về Đạo Cao Đài.

Trân trọng.

Dương Xuân Lương.
Email:
hoabinhchungsong220513@yahoo.com


HẾT TRANG 11

 

Chú thích và ảnh.

(1)/- Cơ bút trong Đạo Cao Đài có nhiều diện: Cơ bút phong thánh, Cơ bút phổ độ hay Cơ phổ hóa, Cơ bút về bí pháp…

Cơ phổ hóa còn gọi Cơ phổ độ hay Cơ bút phổ độ, cũng gọi là Cơ bút truyền đạo mở ra vào ngày 01-01-Bính Dần, có nghĩa là Thượng Đế cho các Tướng Soái (đồng tử) đi các địa phương để thâu nhận tín đồ. Trong một đàn Cơ phổ độ thường có hai phần: thứ nhứt là dạy đạo và thứ hai là thâu nhận môn đệ. Đến ngày 10-10-Bính Dần (14-11-1926) Thượng Đế dạy ngưng Cơ phổ độ để tập trung về lo cho Lễ Khai Đạo ngày 18-11-1926 (14-10-Bính Dần) tại Chùa Gò Kén.

Sau đó Thượng Đế cho Cơ phổ độ tiếp tục, cho đến ngày 01-6-1927 Thượng Đế ra lịnh đến cuối tháng 6-1927 thì ngưng hết Cơ bút truyền đạo. Bởi vì Tân Luật đã ban hành ngày 01-6-1927, phần Đạo Pháp Điều 09, 10, 11 đã qui định về việc nhập môn do quyền hành chánh của Hội Thánh Cao Đài. Thượng Đế lập Hội Thánh là Thánh Thể của Thượng Đế để thay mặt cho Thượng Đế dìu dẫn Tín đồ, nên khi có Hội Thánh thì Thượng Đế giao quyền thâu nhận Tín Đồ lại cho Hội Thánh.

(Trong phần mở đầu về niềm tin Tôi viết Kinh sách của Hội Thánh Cao Đài ban hành có Thượng Đế chịu trách nhiệm là do ý nghĩa như vậy)

Nhiều người hiểu lầm rằng Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là Cơ phổ độ (nên gọi là Phái Phổ Độ), lại cũng có người hiểu lầm rằng Thượng Đế ngưng Cơ bút truyền đạo là ngưng toàn bộ cơ bút nên không chấp nhận các lời dạy của Thượng Đế sau tháng 6-1927. Đó là những người hiểu sai lời dạy của Thượng Đế. Giáo sư có thể kiểm chứng được ý nghĩa của Cơ Phổ Độ.

2/- Ảnh 1 và 2: Nhiệm kỳ của Pháp Môn.

Đây là Thư do Ngài Ngô Văn Chiêu viết.

HẾT TRANG 12 

Ảnh 2:

3/- Ảnh 3, 4, 5: trang 138, 140, 148 Pháp Môn có Ngoại giáo công truyền và Nội giáo tâm truyền.

 

 HẾT TRANG 13

Trang 140.

148.

HẾT.

HẾT TRANG 14