ĐÍNH KÈM ẢNH CHỤP THÔNG TRI 01/1979 & ĐẠO LỊNH 01/1979.
|
ĐẠI
ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ |
VI
BẰNG
Tóm
lược cuộc họp 54/96.
Hội Thánh Em ĐĐTKPĐ mở phiên họp vào thứ Sáu ngày
28/6/Tân Sửu (DL: 6/8/2021), lúc 19h30. Họp qua gotomeeting.
- Đề tài: THẢO LUẬN PHÁP
LÝ ĐẠO-LỊNH 01/1979.
I/- Thành phần dự họp.
1/- Chủ tọa: CTS Lương Thị Nở (Phó Ban Chấp Hành)
2/- Người điều hành. ĐH Nguyễn Thị
Chợ.
3/- Thư ký. Nguyễn Hồng Phượng (PTS)
4/- Thành viên dự họp.
CTS Lương Thị Nở (Phó ban chấp hành)
CTS Nguyễn Hữu Khanh (Trưởng ban kiểm soát
luật)
CTS Trần Quốc Tiến (Phó ban kiểm soát luật)
PTS Thái Tăng Di Hạnh (Phụ tá ngoại vụ)
CTS Nguyễn Thành Phương, PTS Lê Văn Một, PTS Nguyễn Ngọc
Bích, PTS Lương Văn Dương,
Đạo Hữu nam nữ: Dương Xuân Lương (John Tung)
Trương Văn Mai, Nguyễn Thị Chợ (Út cam) Võ Lệ Dung (Mery Dung)
5/- Kinh nhập hội. ĐH Nguyễn Thị Chợ.
II/- NỘI DUNG:
Hội Thánh Em Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ tách ra làm
02 phần: Tính pháp lý và nội dung để tiện việc làm sáng tỏ khi thảo luận
1/- Xét về mặt pháp lý của
Đạo Lịnh 01/1979.
1.1/ Mở đầu Đạo Lịnh 01/1979 có bảy căn cứ: 4
căn cứ vào pháp luật đạo 02 của quyền đời và một nguyện vọng.
4 căn cứ vào pháp luật đạo:
Tân Luật, Pháp Chánh Truyền.
Thánh giáo tại Cung Đạo do Đức Lý Giáo Tông
ban quyền Đầu Sư chánh vị cho Ngài Thượng Sáng Thành (1964) và Ngài Ngọc Nhượn
Thanh (1973). Hai vị đương quyền lãnh đạo Hội Thánh Cửu Trùng Đài.
Thánh giáo đêm mùng 1 tháng 3 Bính Thìn
(31/3/1976) Ðức Hộ Pháp chấp nhận Vị Thời Quân Bảo Ðạo Hồ Tấn Khoa quyền Chưởng
Quản Hiệp Thiên Đài.
Như vậy tại căn cứ thứ hai và thứ ba đã đủ quyền
của Hội Thánh hữu hình Hiệp Thiên và Cửu Trùng (các vị được cơ bút phong cho phẩm
tước và nhiệm vụ tại Cung Đạo và hành đạo đúng với trách nhiệm được giao).
Chiếu theo Thông Tri 01/HT/TT ngày 16 tháng Giêng
Kỷ Mùi, (12/02/1979).
Có 02 của quyền đời: Nghị quyết 297 & quyết
nghị ngày 13-12-1978.
1.1.1/- Tại sao căn cứ vào Nghị quyết 297 ngày
11-11-1977 của của Hội Đồng Chánh Phủ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam?
Ngài Hồ Bảo Đạo viết trong Văn Tịch Pháp Nhơn
Luân Chi Đạo:
Ngày 11-11-1977 Hội Đồng
Chánh Phủ Việt Nam ra bản Nghị Quyết số 297 về chánh sách đối với tôn giáo, có
qui định nơi khoản 3 phần b như sau:
“Việc phong chức bổ nhiệm
những người hoạt động tôn giáo (kể cả những người do tín đồ bầu cử) phải được
chánh quyền chấp nhận trước tùy theo phạm vi hoạt động tôn giáo của những người
nầy trong một xã, huyện, tỉnh hoặc thành phố chấp thuận phạm vi hoạt động tôn
giáo bao gồm nhiều tỉnh thì phải do Thủ Tướng quyết định”.
Cái khó của Đạo Cao Đài
về bản nghị quyết nầy là ở chổ Cầu Phong, Cầu Thăng cho Chức Sắc phải do cơ bút
quyền Thiêng Liêng quyết định mà nay lại phải do chánh quyền chấp thuận trước
như vậy thì Đạo Cao Đài mất hết ý nghĩa Thiêng Liêng của nó mà trở thành một tổ
chức của phàm trần.
Vì lẽ đó trong bản phúc
sự chung niên kỳ đó, đệ tử có trình rằng bản Nghị quyết số 297 của Hội Đồng
Chánh Phủ là một sợi dây xích thằng trói buộc Đạo Cao Đài một cách chặc chẽ,
không phương cựa quậy và từ đó đến nay đệ tử và Ngọc Đầu Sư Cửu Trùng Đài đồng ý
ngưng các cuộc cầu phong và cầu thăng để giử giá trị thiêng liêng cao quí của
phẩm tước Chức Sắc Thiên Phong không chịu đặt Đạo Cao Đài do Thượng Đế lập
thành dưới quyền của phàm tục.
Có lẽ gì đó mà qua đầu năm Mậu Ngũ (tức năm 1978) chánh
quyền Cộng Sản Tây Ninh phát động chiến dịch để lên án Đức Hộ Pháp và các vị
lãnh Đạo tối cao của Đạo Cao Đài Tây Ninh…
1.1.2/- Tại sao căn
cứ vào Quyết nghị ngày 13-12-1978 của Hội Đồng Nhân Dân tỉnh Tây Ninh?
Ngày 13-12-1978 Hội Đồng Nhân Dân Tỉnh Tây
Ninh kỳ 6 khoá 1 nơi điều thứ 3 và 5 như sau:
Ðiều 3: Giải tán và nghiêm cấm hoạt động hệ thống tổ
chức hành chánh đạo từ trên đến cơ sở, xoá bỏ và nghiêm cấm cơ bút.
Chánh quyền sẽ quản lý toàn bộ các cơ sở vật chất mà Ðạo đang quản lý kinh
doanh không thuộc chức năng tôn giáo để phục vụ cho lợi ích xã hội.
Ðồng thời căn cứ vào tính chất tu hành, chánh quyền sẽ qui định cụ thể số
cơ sở để lại Ðạo quản lý và số người trong từng cơ sở để chuyên lo về mặt tín
ngưỡng.
Ðiều 5: Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh Tây Ninh chịu trách nhiệm
tổ chức chỉ đạo, thực hiện thắng lợi quyết nghị này, và báo cáo kết quả lên cấp
trên, và Hội Ðồng Nhân Dân Tỉnh trong kỳ họp tới.
(Báo Tây Ninh bộ mới số 47 ngày 23-12-1978 có đăng quyết nghị).
Link:
https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2018/02/2534-quyet-nghi-13-12-1978-thi-hanh-ban.html#more)
VTPNLCĐ viết:
Nếu thi hành nghiêm chỉnh bản quyết nghị nầy
thì Hội Thánh Cao Đài kể như không còn nữa, nhưng nếu đột ngột giải tán một lần
cả hệ thống tổ chức hành chánh Đạo thì ắc có sự giao động không nhỏ trong nội
bộ của Đạo nên Ủy Ban Nhân Dân và Mặt Trận Tổ Quốc tỉnh Tây Ninh khéo léo kéo
dài việc thi hành bằng cách gài cho Hội Thánh ra bản thông tri số 01 đề ngày
12-2-1979 và Đạo lịnh số 01 ngày 1-3-1979 để rồi Hội Thánh bị bắt chẹt vi phạm
cách nầy hay cách khác cho rằng Hội Thánh bằng mặt mà không bằng lòng,...
Năm
1979 chiến tranh
biên giới Trung-Việt .
Ngày 04-06-1980 chính quyền ban
hành quyết định 124 tịch thu rất nhiều tài sản tôn giáo....
-/ Một nguyện vọng là của nhân dân
và toàn đạo.
1.2/ Bên dưới Đạo Lịnh 01
có 11 ấn ký.
Cấp có quyền lập Đạo Lịnh (có quyền thay mặt
cho Hội Thánh Cao Đài, có ba ấn ký). Cấp bên dưới có bổn phận vâng lịnh để thi
hành và ban hành (tám ấn ký). Như về pháp lý đạo đã đủ thành phần chức sắc hữu
trách cả hai đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng.
(Một số trang web và sách cá nhân viết rằng
Ngài Q Thượng Chánh Phối Sư Thượng Trọng Thanh đã bị giết chết tại Đầu Sư Đường
vào ban đêm trước khi ký Đạo Lịnh 01/1979 là sai hoàn toan. Sự thật là Ngài Thượng
Trọng Thanh là Hội viên của Hội Đồng Chưởng Quản Ngài hành đạo đến 13-9-1982 mới
mãn phần. Một sự thật rõ ràng như vậy mà họ vẫn tạo ra tin giả để nói xấu Hội
Thánh Cao Đài)
(Link: https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2014/12/118-uc-tin-ky-su-2-ky-17.html#more)
2/- Những vấn đề cần làm
rõ.
2.1/- Tại sao trong bảy căn cứ nêu trên không có bản án ngày 20/7/1978,
do Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Tây Ninh ban hành?
Bởi vì MTTQ không phải là chính quyền, đó là cơ
quan ngoại vi của đảng cộng sản Việt Nam cho nên không có pháp lý dối với tôn
giáo. Hội Thánh Cao Đài hiểu rõ tính pháp lý của MTTQ nên không nhìn nhận tính
pháp lý của bản án. Đã không nhìn nhận pháp lý của bản án thì không cần xét đến
nội dung. Hội Thánh Cao Đài phân biệt đâu là của đảng, đâu là của chính quyền.
(Link: https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2014/08/ban-cao-ai-ay-u.html#more)
2.2/- Thông Tri 01/1979 được nhắc đến trong căn cứ thứ 4. Vậy cách lập Thông Tri
khác với cách lập Đạo Lịnh như thế nào?
Về pháp lý: Thông Tri do cấp dưới thành lập và dâng lên cấp trên xem
xét phê chuẩn rồi trả lại cho cấp dưới theo thủ tục. Thông Tri 01/1979 có sáu
ấn ký lập ra, cấp phê chuẩn ba ấn ký, cấp ban hành có hai ấn ký.
Đạo Lịnh là do cấp trên lập và chuyển xuống cấp
dưới để ban hành và thi hành. Đạo lịnh 01/1979 có các ấn ký sau:
Về nội dung: Tại trang ba, dòng thứ 11 của Thông Tri 01/1979 viết:
Hội Thánh duy nhất này sẽ thành lập một tổ chức hành đạo gọi là “HỘI ĐỒNG
CHƯỞNG QUẢN HỘI THÁNH ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ”, câu văn này lập lờ hàm nghĩa Hội
Đồng Chưởng Quản trên Hội Thánh Cao Đài.
Do vậy Đạo Lịnh 01/1979 tại điều hai viết rõ:
“HỘI ĐỒNG CHƯỞNG QUẢN CỦA HỘI THÁNH ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ
ĐỘ”. Hội Thánh thêm chữ CỦA làm câu văn rất sáng tỏ từ Hội
Thánh lập ra Hội Đồng Chưởng Quản, Hội Đồng Chưởng Quản phải dưới quyền Hội
Thánh.
3/- Ngài Hồ Bảo Đạo có đủ
quyền lập Đạo Lịnh 01/1979.
Ngài Hồ Bảo Đạo là truyền nhân của Ngài Ca Bảo
Đạo. Ngài đảm trách phần hữu hình, còn phần thiêng liêng Ngài Ca Bảo Đạo vẫn bảo
thủ. Đây là sự khác biệt giữa phẩm Thời Quân Hiệp Thiên Đài và các phẩm cao cấp
bên Cửu Trùng Đài (Chức sắc Cửu Trùng Đài khi bỏ xác phàm không thể chọn truyền
nhân như các vị Thời Quân. Ba phẩm Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh khi bỏ xác
phàm vẫn còn trách nhiệm phần thiêng liêng). Trong đạo phục của Ngài Hồ Bảo Đạo
có dây sắc lịnh. Chiếu theo Pháp Chánh Truyền Chú Giải có dạy rõ quyền năng dây
sắc lịnh:
(Bản vi tính: PHÁP CHÁNH TRUYỀN: "Thầy
khuyên các con lấy tánh vô tư mà hành đạo, Thầy cho các con biết trước rằng: Hễ
trọng quyền thì ắt có trọng phạt".
CHÚ GIẢI: Vì lời khuyên của Thầy mà Đức
Lý Giáo Tông xin buộc cả Chức Sắc Hiệp Thiên Đài phải Minh Thệ giữa Hội Thánh
rằng: Lấy dạ vô tư mà hành Đạo, lại muốn tỏ ra rằng: Chức Sắc Hiệp Thiên Đài
thật trọng quyền, Ngài mới ban dây sắc lịnh, buộc cả Tín Đồ và cả Chức Sắc
Thiên Phong, hễ mỗi Chức Sắc Hiệp Thiên Đài mang dây sắc lịnh vào mình mà hành
chánh nơi nào, thì phải tuân mạng, dầu lỗi quấy cũng phải chìu theo, chỉ để cho
Hội Thánh có quyền định tội, lại buộc cả Chức Sắc nào đã thọ quyền của Hiệp
Thiên Đài cũng phải minh thệ, y như vậy mới đặng hành chanh)
4/- Vấn đề Bàn Trị Sự Nam
Nữ.
Đạo Lịnh 01/1979 đã giải thể Bàn Trị Sự Nam Nữ
(tại điều 1), nhưng ngày nay người Đạo Cao Đài công cử Bàn Trị Sự Nam Nữ, vậy có phạm vào Đạo
Lịnh 01/1979 hay không?
Đạo Lịnh 01/1979 lập ra Hội Đồng Chưởng Quản CỦA
Hội Thánh Cao Đài. Như vậy là Hội Thánh vẫn còn nên chưa thể áp dụng Thánh Lịnh
257 của Đức Hộ Pháp.
Sau đó tà quyền kết hợp với những phần tử bất
trung với đạo, cốt luôn Hội Thánh Cao Đài và lập ra chi phái 1997. Khi Hội Thánh
Cao Đài đã bị cốt và chức sắc không còn thì người đạo phải hành đạo theo Thánh
Lịnh 257 để khôi phục lại nền đạo.
Thánh Lịnh 257 do Đức Hộ Pháp cầm quyền Chưởng
Quản Nhị Hữu Hình Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng lập ra nên Đạo Lịnh 01/1979 không
ảnh hưởng đến Thánh Lịnh 257. Chỉ có Đức Hộ Pháp (hay Đấng cao trọng hơn Đức Hộ
Pháp) về cơ tại Cung Đạo Tòa Thánh Tây Ninh có lịnh thay đổi về Thánh Lịnh 257
thì mới có hiệu lực. Hiện giờ Hội Thánh đã ngưng cơ bút tại Cung Đạo nên không
một quyền năng nào có quyền thay đổi một chữ nào, một câu nào hay nội dung của
Thánh Lịnh 257.
(Đạo Lịnh 01/1979, Điều thư tám: Ðao Lịnh nầy có hiệu lực từ ngày ký tên ban hành, các
Ðạo Lịnh trước đây khác với tinh thần nội dung Ðạo Lịnh nầy đều không còn hiệu
lực. Thánh Lịnh 257 do Đức Hộ Pháp lập nên vẫn còn giá trị.)
Chi phái 1997 nói rằng Thánh Lịnh 257 chỉ có
giá trị lịch sử vào năm 1957 là mưu xúi người Đạo Cao Đài 1926 bỏ binh khí khi
chiến đấu với tà quyền và tự hủy hoại nền chánh giáo. Ấy là mưu ăn trượt của quỷ
vương.
Tóm lại: người Đạo Cao Đài 1926 đang hành đạo
trong thời kỳ Hội Thánh bị cốt (Hội Thánh không cầm quyền hành chánh tôn giáo)
nên có đủ quyền công cử Bàn Trị Sự Nam Nữ, công cử nhân sự cầm quyền hành chánh
tôn giáo để khôi phục lại nền đạo theo Thánh Lịnh 257.
5/- Danh xưng Hội Đồng Chưởng
Quản (1979) bị lợi dụng bởi Hội Đồng Quản Lý
(1983), Hội Đồng Chưởng Quản (1989) và chi phái 1997.
Xin xem chi tiết phụ lục 01.
III/- KẾT THÚC.lúc 21g30’
Đọc kinh xuất hội CTS Lương Thị Nở
Lập vi bằng Thư ký HTE ĐĐTKPĐ PTS Nguyễn Hồng Phượng |
Chủ tọa Phó TBCH HTE ĐĐTKPĐ CTS Lương Thị Nở |
PHỤ LỤC 01.
PHỤ
LỤC 1.
Ghi
lại mốc thời gian và sơ lược tính pháp lý vê 04 sự kiện quan trọng: Hội Đồng Chưởng
Quản CỦA Hội Thánh Cao Đài (xài con dấu có trong đạo, lập năm 1979) à Hội Đồng Quản Lý Hội
Thánh Cao Đài (lập năm 1983) à Hội Đồng Chưởng
Quản của Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Tây Ninh (xài con dấu HỘI ĐỒNG CHƯỞNG QUẢN do công
an cấp, lập năm 1989)à Chi phái
1997 (tiếp tục xài con dấu HỘI ĐỒNG CHƯỞNG QUẢN do công an cấp). Qua đó thấy được
chiêu trò của tà quyền (tung ra nghi lễ 91 & 96, Lễ khánh thành cổng Chánh
Môn) và chú ý đến việc dùng binh khí trong tôn giáo: Pháp luật đạo là binh khí
diệt tà quyền.
Do
sự thiếu thông tin nên nhiều người không rõ các âm mưu, các chiêu trò của tà
quyền diệt đạo trong từng giai đoạn, rồi qui kết do Đạo Lịnh 01 đã tạo ra Hội Đồng
Chưởng Quản (1979), từ đó nên đạo chinh nghiêng.
Trong
khi cái gốc của sự việc là do những phần tử bất trung với đạo, sẳn sàng bán đạo,
phản đạo theo ý muốn của tà quyền. Khởi đi từ ông Chánh Phối Sư Thái Hiểu Thanh
một Hội viên của Hội Đồng Chưởng Quản mà lại ký tên hủy bỏ lễ vía Đức Nguyệt Tâm
Chơn Nhơn vào năm 1983, (cũng chính Ông Thái Hiểu Thanh đã ký tên rút phẩm của
Ngài Hồ Bảo Đạo) sau đó lập ra Hội Đồng Quản Lý Hội Thánh (1983) rồi đến ông Phối
Sư Thượng Thơ Thanh nối tiếp ông Hiểu trong Hội Đồng Quản Lý.
Sau
đó ông Thơ còn cam tâm làm Hội Trưởng của Hội Đồng Chưởng Quản do Ủy Ban Nhân Dân
tỉnh Tây Ninh lập thành (1989) và cấp con dấu cho HĐCQ. Một con dấu không do nơi
Pháp Chánh Truyền, không có trong đạo lại dùng để ra lịnh cho nền đạo. Đây là
những bước chuyển để chi phái 1997 ra đời ngày 9-5-1997. Chức sắc phụ trách pháp
luật, nghi lễ của đạo phản đối, góp ý về nội dung của các chiêu trò của ông Hội
Trưởng Hồ Ngọc Thơ tung ra, nhưng không nêu tính pháp lý về con dấu Hội Đồng Chưởng
Quản do công an cấp có giá trị gì trong tôn giáo? Bỏ qua tính pháp lý con dấu mà
chú trọng đến nội dung về nghi lễ… là đã bỏ binh khí của đạo.
Khi
ông Thơ nhận làm Hội Trưởng Hội Đồng Chưởng Quản do Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Tây
Ninh lập ra (1989), họ tung chiêu lập ra nghi lễ 1991 để thu hút sự chú ý của
chức sắc và tín đồ tranh cải về nghi lễ ban hành ngày 29-5-1991 mà không chú ý đến
tính pháp lý HĐCQ (1989) và họ đã thành công.
Sang
năm 1996 cũng chính ông Hội Trưởng Hồ Ngọc Thơ cho ông Giáo Sư Ngọc Tấn Thanh tung
ra nghi lễ 1996. Nhiệm vụ của nghi lễ 1996 là tung hỏa mù để nhiều người chú ý
vào đó, không quan tâm đến việc chi phái 1997 ra đời.
Chi
phái 1997 ra chiêu khánh thành cổng Chánh Môn để thu hút đồng đạo về dự lễ rước
pháp nhân ký ngày 9-5-1997.
Tóm
lại có 3 chiêu trò:
Chiêu
trò nghi lễ 1991: tung hỏa mù che lấp việc Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Tây Ninh lập ra
Hội Đồng Chưởng Quản của ông Hồ Ngọc Thơ.
Chiêu
trò nghi lễ 1996: thu hút chú ý để chi phái 1997 ra đời.
Chiêu
trò Lễ Khánh Thành Cổng Chánh Môn để rước pháp nhân chi phái 1997.
Cả
ba chiêu trò ấy đều thành công như tà quyền đã tính toán. Sự thành công của tà
quyền là do nơi người đạo quên sử dụng binh khí mà Đức Lý Giáo Tông đã dạy: Pháp
luật đạo là binh khí diệt tà quyền.
1/-
Hội Đồng Chưởng Quản CỦA Hội Thánh (1979-1983).
Danh sách
thành phần Hội Ðồng Chưởng Quản đã được Hội Thánh thông qua ngày mùng 4 tháng
giêng Kỷ Mùi (31/01/1979):
1/-
Chưởng Quản: Bảo Ðạo HỒ TẤN KHOA
2/- Phó
Chưởng Quản: Ðầu Sư NGỌC NHƯỢN THANH
3/- Từ
Hàn: Giáo Sư THÁI PHÁT THANH
4/- Phó
Từ Hàn: Cải Trạng LÊ MINH KHUYÊN
5/- Hội
Viên: Qu. Thái Chánh Phối Sư THÁI HIẾU THANH
6/- Hội
Viên: Q. Thượng Chánh Phối Sư THƯỢNG TRỌNG THANH.
7/- Hội
Viên: Qu. Nữ Chánh Phối Sư LÊ HƯƠNG TIẾU.
8/- Hội
Viên: Qu. tiếp Lễ Nhạc Quân VÕ THANH TƯƠI.
9/-Hội
Viên: Chơn Nhơn ÐĂNG VĂN CHƯỞNG.
10/-
HộiViên: Nữ Chơn Nhơn NGUYỄN THỊ KHÉO.
- Nay bổ
sung:
11/ -
Hội Viên - Nữ Phối Sư TRẦN HƯƠNG MÂY
12/- Hội Viên - Giáo Sư THƯỢNG TÌNH
THANH.
Chúng
tôi trích đăng đầy đủ để thấy ông Chánh Phối Sư Thái Hiểu Thanh chỉ là Hội Viên
HĐCQ (1979) nhưng chính ông đã ký tên rút phẩm Thời Quân của Ngài Hồ Bảo Đạo là
sự lộng quyền.
Về
nguyên tắc: Phẩm tước của thiêng liêng ban cho thì chỉ có thiêng liêng mới có
quyền rút phẩm. Hội Đồng Quản Lý (1983) và Hội Đồng Chưởng Quản (1989) và chi
phái 1997 đều không có quyền rút phẩm hay thánh danh bất cứ một chức sắc thiên
phong nào hết.
Tỉnh
Tâm viết quyển tiểu sử Hồ Bảo Đạo lưu hành trên internet cũng không phân biệt được
từ Hội Đồng Chưởng Quản CỦA Hội Thánh chuyển sang Hội Đồng Quản Lý Hội Thánh. Tác
giả góp phần vào việc gây hiểu lầm về Ngài Hồ Bảo Đạo và Hội Đồng Chưởng Quản
(1979) …
(Khi
Ngài Hồ Bảo Đạo sắp lìa trần MTTQ, HĐQL và Ban Cai Quản Thánh Thất Phận Đạo Đệ Tam
đến tư gia Ngài thăm viếng. MTTQ đề nghị Ngài viết đơn để nhà nước phục hồi phẩm
Bảo Đạo tiến hành tang lễ theo phẩm Thời Quân. Ngài trả lời: phần Tôi nhà nước định
sao cũng được, Tôi không muốn làm mất thời giờ nhà nước…
Khi
Ngài bỏ xác phàm (18-12- Bính Dần, DL: 17-1-1987) chính quyền và Hội Đồng Quản
Lý họp với Ban Cai Quản Phận Đạo Đệ Tam tại Ủy Ban Nhân Dân xã Hiệp Tân “ngã tư
Ao Hồ” viết ra chương trình tang lễ để Ban Cai Quản tiến hành tang lễ. Khi thấy
đồng đạo đến kỉnh lễ quá sức tưởng tượng “các ghế dự trù để các mâm tế hết sạch
và phải để dưới đất”; chính quyền và HĐQL muốn rút ngắn nghi lễ và yêu cầu Ban
Cai Quản thi hành. Ban Cai Quản trả lời chương trình tang lễ đã công bố nay quý
vị muốn đổi phải ra chương trình mới để căn cứ vào đó thi hành; cuối cùng họ cũng
không dám ra chương trình mới. Lễ Sanh Thượng Tiếng Thanh Ban Cai Quản Thánh Thất
Đệ Tam cho biết các chi tiết trên)
2/-
Hội Đồng Quản Lý Hội Thánh qua 02 thời kỳ của ông Thái Chánh Phối Sư Thái Hiểu
Thanh và ông Phối Sư Thượng Thơ Thanh.
Hội
Đồng Quản Lý Hội Thánh Cao Đài không phải do Hội Thánh Cao Đài lập ra như HĐCQ năm
1979. Hội Đồng Quản Lý Hội Thánh do ông Thái Chánh Phối Sư Thái Hiểu Thanh và các
vị liên quan lập ra nên không có pháp lý của Hội Thánh trong đó. Các vị nầy thông
đồng với nhà cầm quyền lập ra nên không có giá trị pháp lý trong tôn giáo. Các vị
nầy hoàn toàn không có tư cách pháp lý để lập ra Hội Đồng Quản Lý Hội Thánh nhưng
do sự mê muội nên cam tâm làm theo lịnh của tà quyền.
Các
vị nầy cũng sai mê quyền lực đến mức dám ký lịnh rút phẩm Thời Quân của Ngài Hồ
Bảo Đạo và chính quyền căn cứ vào đó để hoàn tất việc rút phẩm.
Ông
Giáo Sư Thượng Tám Thanh sau 30-4-1975 có thời gian bị bắt giam (do là chức sắc,
có tên trong bản án ngày 20-7-1978 của MTTQVN tỉnh Tây Ninh viết: Giáo Sư Nguyễn
Văn Tám tại trang 08, dòng 4) được thả ra sau đó cũng bắt đầu tham gia vào Hội Đồng
Quản Lý của ông Hồ Ngọc Thơ (1984). Từ vị trí rất bình thường ông Tám được cất
nhắc lên Từ Hàn của HĐCQ (1989) và thay thế ông Hồ Ngọc Thơ. Về mặt xã hội đời ông
Tám từ thành viên Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam tỉnh Tây Ninh, rồi vào MTTQVN cấp
trung ương và là một viên chức của chính quyền (Dân biểu quốc hội 1997).
3/-
Hội Đồng Chưởng Quản do Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Tây Ninh thành lập ngày 14. 09. 1989.
Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Tây Ninh ra quyết định thành lập HĐCQ để thi
hành luật pháp Việt Nam. Đây là canh bài tráo rất tinh vi. Bởi vì Hội Đồng
Chưởng Quản của Hội Thánh Cao Đài lập ra đã bị chính quyền tỉnh Tây Ninh xóa bỏ
(1983) và lập ra Hội Đồng Quản Lý Hội Thánh Cao Đài (1983), đến
1989 chính quyền lập ra Hội Đồng Chưởng Quản. Nghĩa là cùng một tên gọi nhưng
khác nhau về nguồn gốc để gây lầm lạc.
(Thời gian nầy ông Bí Thư Tỉnh Ủy Trịnh Văn Lâu có cho mời một số
chức sắc Hiệp Thiên và Cửu Trùng họp trong nội ô Tòa Thánh Tây Ninh để chỉnh đốn
việc đạo. Quý vị đang họp thì ông Phối Sư Thượng Thơ Thanh tách ra phối hợp với
chính quyền để lập ra Hội Đồng Chưởng Quản do ông Thơ làm Hội Trưởng (không phải
Chưởng Quản). Thời gian dó còn Thượng Chánh Phối Sư Thượng Nhã Thanh, Quyền Thái
Chánh Phối Sư Thái Thế Thanh là quyền trên của ông Phối Sư Thơ. Hiệp Thiên Đài
còn phẩm Tiếp Dẫn Đạo Nhơn… Điều đó cho thấy ông Thơ đã cam tâm phá hoại cuộc họp
để chấn chỉnh việc đạo của các vị chức sắc Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện)
4/-
Chi phái 1997 ra đời ngày 9-5-1997.
Hầu
hết các chức sắc cao cấp của chi phái 1997 đều có chân trong Mặt Trận Tổ Quốc
Việt Nam các cấp từ trung ương đến địa phương.
Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam là cơ quan ngoại vi của
đảng cộng sản Việt Nam. Ngày 20-7-1978 MTTQVN tỉnh Tây Ninh đã ra bản án, trong
đó viết:
-/ Đạo Cao Đài 1926 do thực dân Pháp lập ra để chống lại
đảng cộng sản lập năm 1930.
-/ Các chức sắc Đại Thiên Phong là tay sai của Pháp, Nhựt,
Mỹ để chống lại cộng sản
-/ Cơ bút của Đạo Cao Đài 1926 là mê tín dị đoan
-/ Hệ tư tưởng Cao Đài là phong kiến và phản động
-/ Hệ thống hành chánh đạo 5 cấp là bộ máy nhà nước trá
hình, chờ cơ hội nắm chính quyền.
-/ Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc là phản bội tổ quốc trắng trợn
Chi phái 1997 không phải là Đạo Cao Đài, chi phái 1997 là đối
nghịch với Đạo Cao Đài, chi phái 1997 lập ra để tiêu diệt Đạo Cao Đài 1926.
ĐÍNH KÈM ẢNH CHỤP THÔNG TRI 01/1979.
ẢNH CHỤP ĐẠO LỊNH 01/1979. BÀI SỐ 73.