LỜI THƯA TRƯỚC.
BẢN ÁN ngày 20/7/1978 lưu hành trên internet hiện
nay có mấy vấn đề sau:
MỘT/- Bị thiếu một đoạn đầu (THỜI KỲ 3)
3/-
Thời kỳ trở lại làm tay sai cho thực dân Pháp xâm lược nước ta lần thứ 2
(1946-1955).
Nên chỉ có 04 thời kỳ chống cách mạng.
(Bản in gốc là 05 thời kỳ).
4/- Thời kỳ làm tay sai cho Đế quốc Mỹ
và Ngụy quyền miền Nam (1956-1975)
Đoạn nầy không dài nhưng có nội dung cần lưu ý:
Giáo Sư Nguyễn Văn Tám, Giáo Sư Lê Văn
Màng và một số tên nữa đều là mật báo viên của cảnh sát Ngụy, tình báo Mỹ hoặc
Ngụy.
(Đoạn nầy chúng tôi gạch dưới để quí vị
tiện bề đối chiếu).
Năm 1978 chỉ có một ông Giáo Sư Thượng
Tám Thanh thế danh Nguyễn Thành Tám. Hiện nay là Đầu Sư Chưởng Quản Hội Thánh
chi phái HĐCQ 1997.
Nhiều người đã có văn bản chất vấn MTTQVN
Tỉnh Tây Ninh rằng:
Ông Nguyễn Văn Tám trong bản án và ông Nguyễn
Thành Tám là một người hay bản án viết sai (vì trong đạo chỉ có một ông GS
Thượng Tám Thanh).
MTTQVN Tỉnh Tây Ninh không ra văn bản trả
lời.
BA/- Bản án
ra đời ngày 20-07-1978 không phải 20-09-1978.
Để nhớ ngày nầy quí vị liên tưởng đến
ngày chia đôi đất nước 20-07-1954 là không quên được nữa.
BỐN/- Chúng ta bùi ngùi thấy được cảnh
khó khăn của Đạo khi Bản Án ra đời. Hội Thánh đã làm theo lời dạy Đức Chí
Tôn:... Ai muốn đóng cửa chùa các con cứ
tuân mạng... Hội Thánh đã tuân mạng để bảo toàn sinh mạng môn đệ Chí Tôn,
lo cho tiền đồ của Đạo và tổ quốc.
Vậy mà lắm kẻ viết rằng Hội Thánh lập Hội
Đồng Chưởng Quản trong Đạo Lịnh 01 là lập chi phái.... chúng tôi sẽ làm rõ kế
đây...
NĂM/- Đàn anh của chúng ta đã sáng suốt
và dũng cảm chống bản án Cao Đài (chống thủ phạm diệt Đạo).
Vậy mà lắm người như ông Lê Ngọc Minh...
không chống lại bản án mà chống lại Đạo Lịnh 01 (chống nạn nhân).
Chúng tôi đã tham khảo với rất nhiều chức
sắc, chức việc và đồng đạo trong và ngoài nước về ảnh hưởng của Bản án với nền
Đạo Cao Đài.
Hầu như tất cả đều nhận định rằng: Muốn ĐĐTKPĐ được
sinh hoạt tôn giáo thì công việc đầu tiên là phải gở bỏ BACĐ. Gở bỏ BACĐ là
bước đầu tiên để ĐĐTKPĐ bước những bước tiếp theo như mở Đại Hội Nhơn Sanh....
và chỉnh trang nền đạo.
Đó là bước đầu tiên chớ không phải duy
nhất. Không đề xuất hủy bỏ BACĐ mà đưa ra những đề xuất giúp đở được tự do tôn
giáo là ảo tưởng và ngu xuẩn.
Người ngoài cuộc họ biết rõ thế nào được
khó khăn của Đạo? Người Đạo còn không biết bắt đầu từ đâu lại khoán trắng cho
người ngoài thật là buồn cười...
SÁU/- KNS có MỘT MỤC TIÊU trong công cuộc tranh đấu cho đạo quyền và đã quyết định mục tiêu: KHÔI PHỤC TỔ CHỨC HỘI THÁNH ANH.
Lý do:
a/- Khi có TỔ CHỨC Hội Thánh Anh người Đạo sẽ có tất cả trong đó có vấn đề Bản án.
b/- Nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay có rất ít sự thành thật nên nếu đem Bản Án Cao Đài ra thảo luận thì chắc chắn là họ sẽ tìm cách CÂU GIỜ rất mất thời gian và người đạo sẽ mắc bẫy họ: SA LẦY trong nươc cờ mà quên BÀN CỜ (Khôi phục Hội Thánh Anh).
SÁU/- KNS có MỘT MỤC TIÊU trong công cuộc tranh đấu cho đạo quyền và đã quyết định mục tiêu: KHÔI PHỤC TỔ CHỨC HỘI THÁNH ANH.
Lý do:
a/- Khi có TỔ CHỨC Hội Thánh Anh người Đạo sẽ có tất cả trong đó có vấn đề Bản án.
b/- Nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay có rất ít sự thành thật nên nếu đem Bản Án Cao Đài ra thảo luận thì chắc chắn là họ sẽ tìm cách CÂU GIỜ rất mất thời gian và người đạo sẽ mắc bẫy họ: SA LẦY trong nươc cờ mà quên BÀN CỜ (Khôi phục Hội Thánh Anh).
Nay kính.
@@@@@
BẢN ÁN 20/7/1978.
CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
TỈNH TÂY NINH
(20-07-1978)
(20-07-1978)
(NGUYÊN VĂN)
BẢN ÁN HOẠT ĐỘNG PHẢN CÁCH MẠNG
CỦA MỘT SỐ TÊN
PHẢN ĐỘNG TRONG
GIỚI CẦM ĐẦU GIÁO
PHÁI CAO ĐÀI
TÂY NINH.
* * *
* * *
Đạo Cao Đài Tây Ninh ngày thành lập đến
nay đã 52 năm. Trên nửa thế kỷ qua, một số tên trong những người cầm đầu giáo
phái này không ngừng lợi dụng xương máu, mồ hôi, nước mắt của tín đồ, mà tuyệt
đại bộ phận là nông dân và nhân dân lao động yêu nước, để làm hậu thuẫn chính
trị phản động cho các đế quốc xâm lược nước ta qua thời kỳ lịch sử của dân tộc.
I. QUÁ TRÌNH CHỐNG CÁCH MẠNG, CHỐNG
NHÂN DÂN LÀM TAY SAI CHO CÁC ĐẾ QUỐC XÂM LƯỢC NƯỚC TA QUA CÁC THỜI KỲ CỦA MỘT SỐ
TÊN PHẢN ĐỘNG TRONG GIỚI LÃNH ĐẠO GIÁO PHÁI CAO ĐÀI TÂY NINH
1/- Thời kỳ thành lập Đạo Cao Đài
(1926-1935).
Sự ra đời của giáo phái Cao Đài có một
quá trình chuẩn bị và đạo diễn của bọn thực dân Pháp, mà trực tiếp chỉ đạo là
những tên tình báo Pháp Bomet, Latapie, thống đốc Nam kỳ LeFol. Ý đồ của Pháp
dùng mê tín thần quyền (thuật chiêu hồn của Ngô Văn Chiêu chủ trương, sau này
gọi là cơ bút) để ru ngủ hướng dẫn khối nông dân yêu nước đi vào con đường thủ
tiêu đấu tranh cách mạng, đồng thời ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa Cộng sản
xâm nhập vào khối nông dân Việt Nam.
Xuất phát từ ý đồ thâm độc ấy, thực dân
Pháp đã cho tập hợp một số tên quan lại, địa chủ phong kiến như: Đốc phủ sứ Ngô
Văn Chiêu, Lê Văn Trung thư ký ngạch Toàn quyền Đông Dương, Cao Hoài Sang, thư
ký Thượng Chánh Sàigòn, Cao Quỳnh Cư, Công chức Sở hoả xa, Phạm Công Tắc, công
chức Sở Thương Chánh Saigon, Trương Hữu Đức, nhân viên Sở Mật Thám Pháp ở
Saigon … đứng ra sáng lập Đạo Cao Đài. Đạo này được chánh thức thành lập ngày
17-10-1926 (tức 23-8 năm Bính Dần) tại Chùa Phật Từ Lâm Gò kén thuộc xã Hiệp
Ninh Tây Ninh.
Tập đoàn cầm đầu Cao Đài có ý định bành
trướng Đạo giáo này thành quốc Đạo, chuẩn bị cơ sở chính trị để nắm Chính quyền
(theo thể chế quân chủ lập hiến). Vì vậy tôn giáo Cao Đài phát triển nhanh
chóng lan rộng ở một số tỉnh, tập hợp được nhiều tín đồ. Thực dân Pháp hốt
hoảng, dùng chánh sách “Chia để trị ” gây mâu thuẫn trong nội bộ giới cầm đầu,
nên Đạo Cao Đài bị phân hoá chia ra nhiều Chi phái. Trong đó, phái Cao Đài Tây
Ninh do Lê Văn Trung, Phạm Công Tắc cầm đầu là phái có ảnh hưởng và tín đồ
nhiều nhất.
Trong một nước thuộc địa, nửa phong kiến,
mọi người dân Việt Nam đều không có một chút quyền tự do dân chủ. Thế nhưng,
tập đoàn cầm đầu tôn giáo Cao Đài nói chung và giáo phái Cao Đài Tây Ninh nói
riêng được công khai thành lập và hoạt động, được nhà cầm quyền Pháp đương thời
công nhận. Điều đó nói lên rõ ràng rằng tập đoàn cầm đầu Cao Đài chỉ là những
người thực sự làm tay sai đứng ra thực hiện một âm mưu có lợi cho thực dân
Pháp. Một bằng chứng rất rõ khi chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, Đức đánh
Pháp, những người cầm đầu giáo phái Cao Đài Tây Ninh đã đưa hàng ngàn thanh
niên Đạo Cao Đài sang Pháp xung vào quân đội Pháp với luận điệu là “để trả ơn
Pháp triều cho phép Đạo Cao Đài thành lập”
2/- Thời kỳ làm tay sai cho Phát xít
Nhật (1936-1945).
Pháp đầu hàng Phát xít Đức trong thời kỳ
đầu của cuộc chiến tranh thế giới thứ 2. Khi quân đội Nhật đổ bộ vào Đông
Dương, những người cầm đầu Đạo Cao Đài Tây Ninh liền trở mặt phản bội Pháp và
ngã theo Phát xít Nhật. Vì vậy, nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương đàn áp, khủng
bố Cao Đài bắt Phạm Công Tắc đày ở Đảo Madagascar và cấm Đạo Cao Đài hoạt động.
Nhưng, dựa vào thế lực Phát xít Nhật,
những người cầm đầu Đạo Cao Đài phái Tây Ninh còn lại, mà đại biểu là Trần
Quang Vinh đã tích cực hoạt động theo ý đồ của phát xít Nhật.
Thời gian ấy, trong khi nhân dân ta nghe
theo lời kêu gọi của Đảng đứng lên chống phát xít Nhật xâm lược nước ta, thì
những người cầm đầu Đạo Cao Đài Tây Ninh lại bí mật liên lạc với Sở Hiến binh
Nhật, mười hai vị Chức Sắc cao cấp do Trần Quang Vinh cầm đầu, đại diện cho
toàn Đạo, ký giấy nhận làm tay sai cho phát xít Nhật ngày 1-12-1942 do những
tên tình báo Nhật : Kimura, Mochizuki, Masusita trực tiếp điều khiển.
Họ đã dùng chiêu bài “dựa Nhựt đánh Tây”
để lừa gạt, đưa hàng ngàn thanh niên Cao Đài ra làm tay sai cho quân đội Nhật,
dưới sự điều khiển của Bộ tham mưu quân đội nhật do sĩ quan Nhật huấn luyện
quân sự, tình báo tại hãng tài Nitinan. Những nơi có Cao Đài Tây Ninh thì đại
bộ phận Chức Sắc trong hệ thống Hành chánh chính trị Đạo là những tên tình báo,
tai mắt của quân đội phát xít Nhật và chúng đã nắm tình hình phục vụ và phối
hợp đắc lực với Nhật trong cuộc đảo chánh Pháp ở Đông Dương ngày 9-3-1945. Dựa
vào thế lực quân đội Nhật, tập đoàn cầm đầu giáo phái Cao Đài Tây Ninh phát
triển mạnh mẽ tín đồ và mở rộng địa bàn hoạt động trên nhiều tỉnh ở Nam Bộ và
Trung Bộ. Họ tiếp tục lợi dụng khối tín đồ Cao Đài làm tay sai cho Nhật và làm
hậu thuẫn chính trị cho Đảng Việt Nam quốc gia độc lập và chính phủ bù nhìn
Trần Trọng Kim tay sai của Nhật chuẩn bị để đưa Cường Để ở Nhật về làm vua.
3/- Thời kỳ trở lại làm tay sai cho thực
dân Pháp xâm lược nước ta lần thứ 2 (1946-1955). (Net thiếu đoạn nầy).
Nhựt đầu hàng Đồng minh, Mặt trận Việt Minh cướp chánh quyền, Cách mạng
tháng 8 thành công và tiếp sau đó, Pháp dựa vào quân đội Anh, Ấn trở lại xâm
lược nước ta, cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Bộ nổ ra, tập đoàn lãnh đạo
giáo phái Cao Đài Tây Ninh rất hoang mang giao động, bề ngoài tỏ ra hiệp tác
với Việt Minh, nhưng thật sự bên trong họ vẫn giữ nguyên quân đội Cao Đài. Bộ
tham mưu chính trị và quân đội của họ vẫn nằm lại trong vùng Pháp chiếm đóng ở
Sài Gòn, bí mật liên hệ với quân đội Pháp.
Ngày 9-6-1956, Trần Quang Vinh, đại diện quân đội và tôn-giáo Cao Đài
bí mật ký giấy nhận việc làm tay sai cho quân đội Pháp, chống lại cuộc kháng
chiến của nhân dân Nam Bộ. Ngày 21-8-1956, thực dân Pháp đưa Phạm Công Tắc từ
đảo Madagascar về Saigon và Phạm Công Tắc cũng ký tên vào giấy nhận làm tay sai
cho đế quốc Pháp mà Trần Quang Vinh đã ký với Pháp ngày 9-6-1946. Ngày
30-8-1946 Phạm Công Tắc được Pháp hộ tống về Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh làm lễ
ra mặt công khai làm tay sai đắc lực cho Pháp và kéo bộ phận lực lượng võ trang
của Đạo Cao Đài ở ngoài rừng do Nguyễn Văn Thành chỉ huy chánh thức thành lập
quân đội Cao Đài do chính Phạm Công Tắc làm Tổng Tư lệnh tối cao (Thượng Tôn
Quản Thế) về Tòa Thánh và triển khai đóng đồn bót, càn quét gom Tín đồ lập các
Châu Vi Đạo thực hiện kế hoạch chống cách mạng, chống cuộc kháng chiến của nhân
dân ta.
Tập đoàn cầm đầu giáo phái Cao Đài Tây Ninh và quân đội Cao Đài trong
khoảng thời gian từ năm 1946 đến 1955 đã phản bội tổ quốc trắng trợn. Họ lại
đưa ra luận điệu lừa gạt Tín đồ là “Theo Pháp lấy súng Pháp để đánh lại Pháp”,
nhưng thực tế chúng đã giết hại, cướp phá tánh mạng và tài sản của nhân dân yêu
nước chống Pháp ở những vùng mà chúng chiếm đóng rất dã man tàn bạo. Cũng trong
thời gian nầy, được đế quốc Pháp cho tiền cho súng, họ phát triển quân đội trên
30.000 tên, mở rộng các châu vi đạo phát triển Tín đồ, hoàn chỉnh và mở rộng
thêm hệ thống hành chánh đạo, mở ra các cơ sở hoạt động kinh tế, xã hội, giáo
dục để bọn cầm đầu thông qua đó bóc lột, lừa mị Tín đồ và nhân dân. (Net thiếu
đến đây)
Cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam
đánh Pháp giành được nhiều thắng lợi lớn, bộ mặt làm tay sai cho Pháp của bọn
cầm đầu giáo phái Cao Đài và quân đội Cao Đài đã bị lật mặt nạ, nên năm 1950,
chúng cho ra đời một tổ chức chánh trị phản động “Việt Nam phục Quốc Hội ” và
năm 1951 Phạm Công Tắc cho tên Trình Minh Thế và một số tướng tá Cao Đài kéo
một bộ phận quân đội Cao Đài ra rừng lập “Mặt Trận Quốc Gia liên minh ” (gọi là
Cao Đài liên minh) với khẩu hiệu giả dối là “chống Pháp”, thực chất là nhằm lấn
chiếm vùng giải phóng của ta. Thủ đoạn xảo trá, ma giáo này nhằm để xoa dịu
lòng phẩn nộ của quần chúng tín đồ, lừa gạt và tiếp tục lợi dụng quần chúng tín
đồ làm tay sai cho đế quốc Pháp.
Pháp bại trận, buộc phải ký kết hiệp định
Gèneve với Chánh phủ ta lập lại hoà bình ở Đông Dương tháng 7 năm 1954, Mỹ đưa
Ngô Đình Diệm vào lập Chánh phủ bù nhìn, Cao Đài giữ 4 ghế Bộ Trưởng trong Nội
Các Diệm. Mỹ đã trực tiếp nhúng tay vào Việt Nam tìm cách hất cẳng Pháp. Mâu
thuẫn Pháp Mỹ căng thẳng, thể hiện cụ thể ở miền Nam là mâu thuẫn giữa tập đoàn
tay sai thân Pháp và tập đoàn Diệm thân Mỹ. Tập đoàn tay sai thân Pháp được
Pháp giựt dây, Phạm Công Tắc đứng ra lập “Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc
Gia” tập hợp quân đội Cao Đài, Bình Xuyên, Hoà Hảo chống lại Diệm, do Tắc làm
Chủ tịch Mặt Trận ấy với ý đồ đưa Bảo Đại về nước lập lại một chánh phủ bù nhìn
thân Pháp ở miền Nam Nguyễn Thành Phương, Văn Thành Cao … là những tướng tá Cao
Đài mà Mỹ và Ngô Đình Diệm mua chuộc được, cho kéo quân về Toà Thánh Tây Ninh
đánh lại bọn thân Pháp trong Cao Đài. Vì vậy, bọn thân Pháp thất bại, tan rã,
nên cuối năm 1955 Phạm Công Tắc và một số tay chân thân Pháp trong Cao Đài Tây
Ninh được Pháp, Mỹ dàn xếp cho đi êm lên cư trú tại Phnom Penh (Camphuchia).
Tại đây, dựa vào thuyết hoà hoãn “Chung Sống Hoà Bình Trung Lập ” của thế giới
lúc bấy giờ đưa ra tại Hội nghị Quốc tế Băng Đung (Indonesia) của các nước mới
giành độc lập, Phạm Công Tắc đưa ra giải pháp Hoà Bình Chung sống trung lập ở Việt
Nam, theo kế hoạch của De Gaulle.
4/- Thời kỳ làm tay sai cho Đế quốc Mỹ
và Ngụy quyền miền Nam (1956-1975) .
Sau một thời gian cấu xé lẫn nhau giữa 2
phe thân Pháp và thân Mỹ trong tập đoàn cầm đầu giáo phái Cao Đài Tây Ninh, phe
thân Mỹ thắng thế, đưa quân đội Cao Đài liên minh nhập vào quân đội quốc gia
của Diệm để làm tay sai cho Mỹ. Về mặt chính trị Đạo, Mỹ Diệm đưa Cao Hoài Sang
về Toà Thánh cùng những Chức Sắc cao cấp khác như Lê Thiện Phước, Phạm Tấn Đãi,
Cao Đức Trọng, Nguyễn Trung Hậu, Nguyễn Văn Mạnh, Phạm Văn Tươi, Trương Hữu
Đức, Trương Văn Tràng, lèo lái Cao Đài theo con đường làm tay sai cho Mỹ, làm
hậu thuẫn chính trị cho các chính phủ bù nhìn thân Mỹ ở miền Nam: Ngô Đình
Diệm, Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu.
Trong thời kỳ này, bọn tình báo Mỹ (CIA),
mật vụ Diệm, đặc Uỷ Trung ương tình báo, cảnh sát Ngụy và các Đảng phái phản
động tìm mọi cách lôi kéo người của Đạo, hoặc cài nhân viên của chúng vào hàng
ngũ Chức Sắc Cao Đài qua con đường Ban Thế Đạo, để chi phối hoàn toàn giáo phái
Cao Đài Tây Ninh làm hậu thuẫn cho chánh sách xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ.
Dưới đây là một số thí dụ:
- Trịnh Minh Thế, Nguyễn Thành Phương,
Văn Thành Cao và một số tướng tá khác của quân đội Cao Đài đã công khai gia
nhập vào quân đội Diệm.
- Hai tên Lễ Sanh Giang Thành Phước và
Bùi Văn Côn, giáo viên trường Đức Trí là tình báo viên của cục an ninh quân đội
Ngụy.
- Phạm Duy Nhung, Sĩ Tải và Trương Văn Quảng,
Đại Tá Cao Đài làm tay sai cho tên trùm mật vụ thời Diệm Trần Kim Tuyến và Cao
Xuân Vỹ.
- Hai giáo sư Nguyễn Văn Sâm, Từ Hiến
Ngọc làm tay sai cho Đặc uỷ Trung ương tình báo Ngụy và quan hệ với Đại sứ Đài
Loan ở Saigon.
- Sau đảo chính Diệm, cuối năm 1963,
những tên tướng Cao Đài chạy lên Phnom Penh như Nguyễn Tấn Mạnh, Trương Lương
Thiện, Lê Văn Tất và gồm 70 tên sĩ quan khác đã trở về miền Nam tham gia Ngụy
quyền miền Nam chống lại cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Lê Văn Tất được Mỹ
tin dùng đưa làm Tỉnh trưởng Tây Ninh. Trong lúc này, Đế quốc Pháp có ý định
nắm lại Cao Đài chắc hơn, nên dự kiến bỏ ra năm chục triệu đồng cho nhóm tướng
tá và Chức Sắc thân Pháp tái vũ trang quân đội Cao Đài và mở rộng cơ sở kinh tế
của Hội Thánh.
- Năm 1965, có đạo diễn của CIA, tập đoàn
lãnh đạo Cao Đài Tây Ninh lúc bấy giờ cho ra đời Ban Thế Đạo dưới hình thức một
thánh giáo của Phạm Công Tắc đêm mồng 9 tháng 2 Quý Tỵ, để tạo ra một cửa mở
hợp pháp cho bọn tình báo, cảnh sát, nguỵ quân, nguỵ quyền, tư sản, trí thức
phản động qua con đường này chui vào Đạo. Từ đó đến cuối năm 1974 đã có 1194
tên xin vào Ban Thế Đạo. Điển hình có Nguyễn Văn Nhã, cựu tỉnh
trưởng Tây Ninh, Hậu Nghĩa vào từ cấp vị Hiền tài đã vượt 4 cấp lên làm Thượng
Chánh Phối Sư, tên thiếu tá C S đặc biệt Phạm Tấn Ngưu là Hiền Tài, hiện tại
Lâm Hoàng Minh là tình báo viên Đặc ủy trung ương tình báo...vv...
Lê Văn Thông Thư Ký Tông Đồ Hộ Pháp
(bí số ZY80), Trần Thanh Danh, Võ Văn Giàu, Ngũ Hồng Hòa, Võ Văn Cầu (bí số
X63), Giáo Sư Nguyễn Văn Tám, Giáo Sư Lê Văn Màng và một số tên nữa đều là mật
báo viên của cảnh sát Ngụy, tình báo Mỹ hoặc Ngụy. (BẢN TRÊN NET THIẾU ĐOẠN GẠCH DƯỚI)
- Mỹ Ngụy thất bại xuống thang chiến
tranh sau tổng tấn công Mậu Thân của ta, thực hiện chiến lược Việt Nam hoá
chiến tranh, Mỹ Ngụy càng quan tâm nắm chắc phái Cao Đài Tây Ninh hơn nữa. Bọn
CIA thông qua cơ quan viện trợ văn hoá Á Châu (là một tổ chức ngoại vi của CIA
– ASIA – Foundation) hoặc vận động một số chánh phủ chư hầu Mỹ viện trợ tài
chánh hàng trăm triệu đồng và nguyên vật liệu cho tập đoàn lãnh đạo Cao Đài Tây
Ninh xây dựng viện Đại Học Cao Đài, bệnh viện, cơ quan phát thanh, nhà in,
đường sá, chợ búa, vòng thành xung quanh nội ô Toà Thánh, chỉ riêng viện Đại
Học qua Bộ giáo dục Ngụy quyền. Chúng cấp cho 39 triệu đồng để xây cất. Cũng
thông qua số tiền viện trợ này, một số Chức Sắc cao cấp đã ăn cắp, cắt xén bớt
để kinh doanh làm giàu riêng cho gia đình (hầu hết đều có cơ sở kinh tế kinh
doanh riêng). Đồng thời Mỹ Ngụy đưa tướng Cao Đài Nguyễn Văn Thành về Toà Thánh
để nắm cơ quan Thanh tra Chính trị Đạo, nắm các tổ chức võ trang trá hình của
Đạo (cơ Thánh vệ, cơ Bảo Thể), phát triển lưới tình báo. Liên gia phòng bảo
trong hệ thống Hành chánh Đạo, đặc biệt là xung quanh Châu Thành Thánh Địa để
khống chế kìm kẹp tín đồ và nắm tình hình báo cáo cho địch thực hiện kế hoạch
bình định của Mỵ Ngụy, hình thành những cái “rọ” chứa thanh niên trốn quân dịch
ở các cơ sở Cao Đài và bố trí cho Mỹ Ngụy hốt gọn từng đợt đưa vào bổ sung quân
đội Ngụy
- Trong thời kỳ Việt Nam hoá chiến tranh,
những người lãnh đạo Cao Đài Tây Ninh đã cùng Linh Mục Nguyễn Văn Vàng (Thiên
chúa), Thích Tâm Châu (Phật giáo) và một số tên phản động trong một số tôn giáo
khác để tích cực hoạt động lập “Mặt Trận Liên Tôn Chống Cộng”.
- Trong quá trình lâu dài làm tay sai cho
các đế quốc, những người lãnh đạo Cao Đài Tây Ninh đã dựa vào thế lực đế quốc
chiếm đất, nhận hiến của tín đồ bao chiếm khai hoang ở tỉnh Tây Ninh và trong
28 tỉnh cũ là hàng ngàn Ha. Riêng ở Tây Ninh Hội Thánh đã chiếm làm chủ gần 3
ngàn ha, họ đã lập sở ruộng, sở cao su, vườn cây ăn trái và xây cất dinh thự
nhà cửa cho tôn giáo. Ngoài ra, những người lãnh đạo giáo phái này còn lập ra
một số xí nghiệp cơ khí tiểu công nghệ và thủ công nghiệp để kinh doanh bóc lột
nhân công của người công quả hoặc hiến thân. Đại bộ phận các cơ sở này đều nằm
trong huyện Phú Khương Tây Ninh.
(Xem Biên bản Hội nghị Nhân Sinh năm
1974).
5/- Thời kỳ 30-4-1975 đến nay.
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng,
đại bộ phận tướng tá Cao Đài cũ và những người cầm đầu giáo phái Cao Đài ở
Trung ương và địa phương đều còn ở lại miền Nam.
Mặc dù, chổ dựa chủ yếu của tập đoàn lãnh
đạo Cao Đài trong 50 năm là các đế quốc và tay sai bị sụp đổ hoàn toàn, nhưng
với bản chất giai cấp bóc lột và phản động của những người cầm đầu và bọn tướng
tá Cao Đài cũng như bọn Ngụy quân, Ngụy quyền các cấp gốc là Cao Đài đã gây
nhiều tội ác chống tín đồ, chống nhân dân, chống cộng sản đã có những hoạt động
chống lại cách mạng, ngay sau khi cách mạng vừa giành thắng lợi hoàn toàn.
Chúng đẩy mạnh chiến tranh tâm lý gieo rắc hoang mang và gây chia rẽ trong quần
chúng như: áo đen (Việt Cộng) làm áo trắng (ám chỉ Cao Đài) hưởng, cách mạng
chỉ giữ chánh quyền 100 ngày giao lại Đạo; Nhật sẽ nhảy vào thay, Bảo Đại, Bảo
Long sẽ phục quốc, … Bọn Nguyễn Tấn Mạnh, Lê Văn Tất, Trương Lương Thiện và số
tướng tá, chức sắc phản động khác tích cực hoạt động phục hồi lực lượng vũ
trang Cao Đài, lập chiến khu, hình thành các tổ chức chính trị phản động. Bảo
Long phục quốc, Bảo Sanh dân tộc, Dân quân phục quốc, Biệt Đoàn Kháng chiến Tây
Ninh để tập họp lực lượng phản động trong các vùng tôn giáo Cao Đài.
Đã bị quần chúng tín đồ vạch mặt, chánh
quyền kiên quyết trấn áp các phần tử phản động trong Đạo. Nhưng, những tên tình
báo tay sai của các đế quốc nằm trong giáo phái Cao Đài Tây Ninh vẫn tiếp tục
lén lút hoạt động phản cách mạng. Tên Hiền tài Phạm Ngọc Trảng, Hữu Phan Quân
Lê Văn Thoại (Trung Tá Cao Đài), Võ Văn Nhơn (rễ Trần Quang Vinh), Đinh Văn
Phẩm Đại Uý Cao Đài và nhiều Chức Sắc từ cao cấp đến cơ sở, nhiều sĩ quan Cao
Đài đã đứng ra dựng lại cái thây ma mà Phạm Công Tắc đã lập ra đã chết từ lâu
“Mặt Trận Thống Nhứt Toàn Lực Quốc Gia” hoặc lập ra “Mặt Trận Nhân Dân Cứu Quốc”,
“Hội Đồng Hoà Giải”, Lễ sanh Đinh Văn Kịp có ý định dựng ra tổ chức “Thanh Niên
Chính Nghĩa Đoàn” thay cho tổ chức Đại Đạo Thanh Niên Hội đã bị giải tán. Các
tổ chức phản động này dựa vào các vùng Cao Đài trong tỉnh Tây Ninh và ở các
tỉnh miền Nam, dựa vào những sĩ quan và binh sĩ cũ của quân đội Cao Đài, dựa
vào Chức sắc Chức việc chống cộng và dựa vào số con em của Chức sắc, Chức việc
đã từng ở trong guồng máy ngụy quân, ngụy quyền, để tập hợp lực lượng chính trị
phản động và tổ chức phát triển lực lượng vũ trang phản động đưa ra rừng (Bảo
quốc quân), cày trong dân (dân vận quân) cày trong nội bộ cách mạng (địch vận quân).
Chúng lập một khu võ trang trong rừng, đẩy mạnh hoạt động rãi truyền đơn, giết
hại cán bộ cách mạng, cướp vũ khí, ăn cướp vũ trang. Đặc biệt, chúng chủ trương
ám sát anh Trương Ngọc Anh, phẩm vị Thừa sử là một Chức Sắc Cao Đài yêu nước,
đã tham gia làm đại biểu Quốc Hội thống nhứt khoá IV của nước Cộng Hoà Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam.
Trong Chức Sắc Cao Đài, thì bọn phản động
truyền miệng hoặc sao chép tay bài thơ Chùa Hương Tích xuyên tạc chữi cách mạng
gây hoang mang lợi dụng chiến tranh biên giới Việt Nam – Campuchia xảy ra, lấy
chiến tranh hù doạ quần chúng để kết nạp tín đồ, phục hồi cúng nước liên gia,
cột tín đồ gắn chặc với Hội Thánh, giữ tín đồ ở lại xung quanh Toà Thánh chống
chánh sách, phân bổ lại lao động và xây dựng lại vùng Kinh tế mới của nhà nước.
Trong đợt truy quét nhóm MTTLTNQG của Phạm Ngọc Trảng (tháng 12-1976) và đợt
truy quét bắt bọn tàn dư Đinh Văn Phẩm, Đinh Văn Kịp ở Giáo Tông Đường (2/1978)
khám xét các Thánh thất, dinh thự ở nội ô Toà Thánh của giáo phái Cao Đài Tây
Ninh đều có tài liệu hiện hành chống cách mạng, lén lút lưu hành trong các chức
sắc, chức việc và những cơ sở này đều là nơi chứa chấp, bao che, nuôi dưỡng bọn
phản động vũ trang ngoài rừng, bọn tay sai của Mỹ Ngụy ở các Tỉnh có nhiều tội
ác sau giải phóng trốn trình diện, trốn cải tạo, chạy về Toà Thánh Tây Ninh để
ẩn náu và được những người cầm đầu Hội Thánh phong phẩm vị và giao việc Đạo để
làm bình phong nguỵ trang các cơ sở nhà in, cơ quan phát thanh Cao Đài, máy chữ
của Toà Thánh đều được bọn phản động dùng để in ấn tài liệu truyền đơn phản
động chống cách mạng.
Trong số người bị ta nghiêm trị trong các
tổ chức phản động nói trên, đã có hàng trăm tên là Chức Sắc đương chức của Giáo
phái Cao Đài Tây Ninh.
II. KẾT LUẬN
Nhìn lại quá trình lịch sử của giáo phái
Cao Đài Tây Ninh nhận thấy rằng:
1/. Giáo phái Cao Đài Tây Ninh là một tổ
chức chánh trị dưới hình thức tôn giáo của một nhóm người quan lại, địa chủ
phong kiến đứng ra sáng lập, có tham vọng chánh trị, tham vọng cầm quyền nhưng
họ tập hợp và lợi dụng được một khối tín đồ khá lớn mà đại bộ phận là nông dân
và nhân dân lao động có tinh thần yêu nước bằng các thủ đoạn giáo lý thần
quyền. Phương pháp cơ bản để thực hiện tham vọng của họ là dùng “Thuật chiêu
hồn ” tức là “cơ bút ”. Thông qua hình thức đó, để họ nói lên những ý đồ, âm
mưu và hành động của họ mà gọi là “Thánh giáo ”, “Thánh lịnh ”, “Thánh ngôn”
của Trời, Tiên, Phật, hoặc Giáo Tông, giáo chủ dạy bảo. Họ lấy các lời cơ bút
ấy hướng dẫn tư tưởng và hành động cho tín đồ nhằm để lừa mị, và lợi dụng lòng yêu
nước của tín đồ mê tín thần quyền và che đậy giả tâm của những người lãnh đạo.
Vì có tham vọng chánh trị, tham vọng cầm
quyền, nên những người cầm đầu tổ chức Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh và hệ thống
của nó là Bộ máy nhà nước và hệ thống Hành chánh của nhà nước trá hình, để khi
nắm được chánh quyền thì biến nó trở thành hệ thống nhà nước. Thể hiện ý đồ này
khá trung thực trong ý kiến của Lại Viện về vấn đề phân bố tín đồ các địa
phương, mẫu Sớ Cầu Đạo giống như thẻ căn cước và trong cuốn lịch sử Đạo Cao Đài
thời kỳ phục quốc 1941-1946, Trần Quang Vinh viết khá thành thực “Đạo Cao Đài
là một tôn giáo có tánh cách chánh trị … mỗi tín đồ Cao Đài là một Đảng viên
của Đảng Việt Nam Phục quốc Đồng Minh Hội ” …
Tham vọng lớn, nhưng thực lực không mạnh,
đường lối cơ hội cải lương phản động luôn luôn dựa vào đế quốc, phản lại lợi
ích và nguyện vọng của tín đồ, của nhân dân, của dân tộc, nên tham vọng của họ
trong từng thời kỳ luôn luôn bị thất bại thảm hại.
2/. Lịch sử giáo phái Cao Đài Tây Ninh do
những người cầm đầu dẫn dắt trong nửa thế kỷ qua, là một quá trình liên tục lợi
dụng khối quần chúng tín đồ và những người cầm đầu nối tiếp nhau làm tay sai
cho các đế quốc xâm lược nước ta, đã làm hoen ố thanh danh Đạo. Tư tưởng chỉ
đạo của nhóm cầm đầu tôn giáo này là hệ tư tưởng phản động. Vì vậy, họ không
bao giờ có tinh thần độc lập dân tộc, chống Đế quốc thực sự. Trừ một số cá nhân
Chức Sắc yêu nước chân chính và đại bộ phận khối quần chúng tín đồ yêu nước đi
theo cách mạng, còn một số không ít chức sắc phản động cầm đầu không bao giờ
chân thành đoàn kết với cách mạng kháng chiến chống đế quốc, mặc dù cách mạng
đã nhiều lần kêu gọi trước sau như một chủ trương đoàn kết lương giáo chống đế
quốc giải phóng dân tộc (năm 1945, 1952, 1955, 1956 và …)
Họ đã lợi dụng giáo lý Thần Quyền, Thánh
Lịnh làm tay sai cho Pháp phá hoại phong trào nông dân (1926-1938) làm hậu
thuẫn chính trị và xây dựng lực lượng võ trang công khai nối giáo cho quân đội
phát xít Nhật chiếm đóng Đông Dương và cho quân đội Pháp xâm lược lại nước nước
ta lần thứ hai. Và sau này, họ tiếp tục làm hậu thuẫn chính trị cho Mỹ Ngụy
thực hiện các chánh sách xâm lược và thống trị miền Nam nước ta gần 20 năm.
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng,
đáng lẽ họ thức thời thấy tội lỗi trở lại với dân tộc, tổ quốc, trở về con
đường tu hành thuần tuý. Nhưng do bản chất giai cấp là phản động chống cách
mạng, chống nhân dân, nên một số Chức Sắc và sĩ quan quân đội Cao Đài trong
giáo phái Cao Đài Tây Ninh tiếp tục nuôi mộng rước đế quốc trở lại nước ta. Họ
tiếp tục gieo rắc tư tưởng phản động, đẩy mạnh chiến tranh tâm lý hù doạ gây
hoang mang và bí mật lập ra các nhen nhóm phản động và lực lượng phản động vũ
trang hoạt động phá hoại hòng chờ thời cơ phối hợp với đế quốc và bọn phản động
quốc tế bên ngoài gây bạo loạn phản cách mạng, lật đổ nền chuyên chính vô sản
mà nhân dân ta đã đổ nhiều xương máu mới giành được.
3/. Sự thành lập và bước phát triển ồ ạt
tín đồ, mở rộng địa bàn hoạt động trên nhiều tỉnh ở miền Nam, xây dựng đội ngũ
cán bộ nồng cốt chính trị vũ trang khá đông và hoàn chỉnh hệ thống tổ chức hành
chánh của giáo phái này, đều dựa vào đế quốc, dựa vào các cuộc chiến tranh xâm
lược của đế quốc mà tạo nên. Chính vì vậy, các đế quốc xâm lược nước ta qua các
thời kỳ đều chú ý lợi dụng số cầm đầu tôn giáo này để làm tay sai, làm hậu
thuẫn cho các chánh sách xâm lược của chúng. Chứng minh điều này là sau khi
thất bại tổng tấn công Mậu Thân năm 1968, đế quốc Mỹ phải xuống thang chiến
tranh, thực hiện chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh bọn CIA đánh giá và có kế
hoạch nắm chắc hơn nửa giáo phái Cao Đài Tây Ninh như sau: “Trong các nhóm Cao
Đài thì phái Cao Đài Tây Ninh là một lực lượng lớn nhứt, có tổ chức và có hệ
thống chặt chẽ nhất và có tinh thần triệt để chống cộng nhất”. Từ đó, bọn CIA
đẩy mạnh việc nắm Cao Đài Tây Ninh phục vụ cho Việt Nam hoá chiến tranh và cho
kế hoạch hậu chiến của chúng.
4/. Trong 50 năm qua, tập đoàn cầm đầu
Cao Đài Tây Ninh đã lợi dụng xương máu và tài sản của tín đồ, làm tay sai cho
các đế quốc để đổi lấy những địa vị và quyền lợi ích kỷ cho họ. Vì vậy, để nắm
chắc tôn giáo này, bọn tình báo các đế quốc Pháp, Nhật, nhất là tình báo Mỹ sau
này cũng như các Đảng phái phản động và bọn tình báo, cảnh sát nguỵ quyền, tìm
mọi cách nhả ra những quyền lợi và địa vị để mua chuộc, lôi kéo những chức sắc,
sĩ quan cao cấp bên trên và lôi kéo cả chức sắc sĩ quan bên dưới làm tình báo
cho chúng. Mặt khác, chúng đưa người của chúng cày vào đội lớp chức sắc Cao Đài
để lèo lái tôn giáo này đi theo ý đồ của chúng. Sau giải phóng, bọn này không
ra trình diện cải tạo mà hiện nay vẫn còn mang áo đội mão chức sắc tiếp tục
hoạt động chống phá cách mạng. Mặc dù vừa qua chúng ta đã khám phá nghiêm trị
một số trong các tổ chức phản động, nhưng bọn chúng vẫn còn lại không ít trong
tôn giáo này. Ẩn náu trong các cơ sở, cơ quan của Đạo tìm mọi cách chống phá
cách mạng, tiếp tay cho các đế quốc và bọn phản động quốc tế bên ngoài. Do đó,
phải kiên quyết nghiêm trị bọn phản động, bọn tình báo đế quốc đang lợi dụng
Đạo để bảo vệ Đạo, tạo điều kiện thuận lợi cho Đạo trở lại tu hành thuần tuý.
5/. Điều kiện kinh tế đảm bảo cho Cao Đài
Tây Ninh hoạt động họ dựa vào 4 nguồn: tiền đóng góp của tín đồ (hành hương,
lạc quyên, công quả); bóc lột sức lao động của những người công quả, hiến thân;
kinh doanh các cơ sở kinh tế thu sản phẩm và lợi nhuận; và tiền, hiện vật của
các đế quốc và nguỵ quyền viện trợ đầu tư vào cho Hội Thánh. Nguồn viện trợ của
đế quốc rất quan trọng, nó là cơ sở để có vốn mở rộng kinh doanh kinh tế, xây
cất các dinh thự, đài phát thanh, viện Đại học, bệnh viện, chợ búa. Hằng năm,
thu nhập hàng trăm triệu đồng tiền cũ. Dựa vào các nguồn thu thập, một số chức
sắc cao cấp và trung cấp tham ô, ăn cắp để xây dựng nhà cửa, tạo ra những cơ sở
kinh doanh làm giàu riêng cho mình.
Vì vậy, tài sản, dinh thự, các cơ sở kinh
doanh của Hội Thánh không phải là của riêng ai, mà là tài sản của đế quốc đã
rút chạy để lại, là của nhân dân lao động đóng góp. Nhân dân lao động cần phải
quản lý sử dụng đẩy mạnh sản xuất xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, phải
tước đoạt những phần tài sản của chức sắc do tham ô, ăn cắp, và dựa thế lực đế
quốc tạo ra.
Ngày 20 tháng 7
năm 1978.
MẶT TRẬN TỔ QUÔC
VIỆT NAM
Tỉnh Tây Ninh.