NAM MÔ
CAO ĐÀI TIÊN ÔNG
ĐẠI BỒ TÁT MA HA
TÁT.
LỜI THƯA TRƯỚC.
“Thủ phạm,
đồng phạm & nạn nhân.
Trình chánh rằng ĐL 01/1979 là bài thi”.
Kính thưa quí
chức sắc, chức việc và đồng đạo.
Trong Thánh Thư
viết tại Nam Vang ngày 06-05-Đinh Dậu (03-06-1957) Đức Hộ Pháp có dạy rằng:
“Bần Đạo xin thành khẩn cầu nguyện Đức CHÍ TÔN
của chúng ta để cho nhơn loại sang năm mới sẽ thoát qua giấc triền miên, hướng
thẳng vào ánh hào quang chói lọi và chân lý của Thượng Đế đặng lựa chọn lấy con
đường hạnh phúc.
Cuộc đấu tranh để sinh tồn sẽ đưa đến binh đao, gây
nên khổ não, tàn phế và chết chóc. Trái lại, sự hỗ tương để sinh tồn bằng
cách thương yêu trong tình huynh đệ, đoàn kết trong hoà bình tương nhượng nhau.
“Các em sẽ còn
gặp cộng sản nhưng các em đừng sợ vì lúc đó họ sẽ thay đổi hẳn chính sách. Ngày
cộng sản chiếm được miền Nam Việt Nam nói riêng và khối Quốc Tế cộng sản nói
chung là thời cực thịnh của cộng sản …
Từ 1957 đến 1975 là 18 năm để tiên tri thành hiện
thực.
Ngày 30-04-1975
đảng cộng sản thắng trận. Việt Nam chấm dứt cuộc chiến tranh nồi da xáo thịt
giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam. Đất nước sống trong sự cai trị của chế độ
cộng sản.
Ngày 20-9-1977
Việt Nam được kết nạp vào Liên Hiệp Quốc.
Ngày 01-10- Đinh
Tỵ (11-11-1977) Hội Đồng Chánh Phủ Việt Nam ra nghị quyết 297 về một số chánh
sách đối với tôn giáo.
Qui định khoản
3 phần 6: Việc phong chức, bổ nhiệm
những người chuyên hoạt động tôn giáo (kể cả những người do tín đồ bầu cử) phải
được chánh quyền chấp thuận trước. Tuỳ theo phạm vi hoạt động Tôn giáo của
những người nầy trong một Xã, Huyện, Tỉnh hoặc Thành Phố mà Uỷ Ban Nhân
Dân Xã Huyện Tỉnh hoặc Thành Phố chấp thuận. Nếu phạm vi hoạt động tôn giáo bao
gồm nhiều Tỉnh thì phải do Thủ Tướng Chánh Phủ quyết định.
Ngày 23-12- Đinh
Tỵ (31-01-1978). Ngài Hồ Bảo Đạo (1899-1987) và Ngọc Đầu Sư (Ngọc Nhượn Thanh)
trình trong phúc sự chung niên nhận định về khoản phong chức bổ nhiệm rằng:
Cái khó của Đạo Cao Đài về bản nghị quyết nầy là ở
chổ Cầu Phong, Cầu Thăng cho Chức Sắc phải do cơ bút quyền Thiêng Liêng quyết
định mà nay lại phải do chánh quyền chấp thuận trước như vậy thì Đạo Cao Đài
mất hết ý nghĩa Thiêng Liêng của nó mà trở thành một tổ chức của phàm trần.
Vì lẽ đó trong bản phúc sự chung niên kỳ đó, đệ tử
có trình rằng bản Nghị quyết số 297 của Hội Đồng Chánh Phủ là một sợi dây xích
thằng trói buộc Đạo Cao Đài một cách chặc chẽ, không phương cựa quậy và từ đó
đến nay đệ tử và Ngọc Đầu Sư Cửu Trùng Đài đồng ý ngưng các cuộc cầu phong và
cầu thăng để giử giá trị thiêng liêng cao quí của phẩm tước Chức Sắc Thiên
Phong không chịu đặt Đạo Cao Đài do Thượng Đế lập thành dưới quyền của phàm
tục.
Có lẽ gì đó mà qua đầu năm Mậu Ngũ (tức năm 1978)
chánh quyền Cộng Sản Tây Ninh phát động chiến dịch để lên án Đức Hộ Pháp và các
vị lãnh Đạo tối cao của Đạo Cao Đài Tây Ninh...
Ngày 19-8- Mậu
Ngọ (20-9-1978) Mặt Trận Tổ Quốc Tỉnh Tây Ninh ban hành “Bản án Hoạt Động
Phản Cách Mạng Của Một Số Tên Phản Động Trong Giới Cầm Đầu Giáo Phái Cao Đài
Tây Ninh” và triễn khai rộng rãi….
Ngày 13-12-1978 Hội Đồng Nhân Dân Tỉnh Tây
Ninh kỳ 6 khoá 1 ra quyết nghị do ông Đặng Văn Thượng ký; nơi điều thứ 3
và 5 như sau:
Ðiều 3: Giải tán và nghiêm cấm hoạt động hệ thống tổ chức
hành chánh đạo từ trên đến cơ sở, xoá bỏ và nghiêm cấm cơ bút.
Chánh
quyền sẽ quản lý toàn bộ các cơ sở vật chất mà Ðạo đang quản lý kinh doanh
không thuộc chức năng tôn giáo để phục vụ cho lợi ích xã hội.
Ðồng
thời căn cứ vào tính chất tu hành, chánh quyền sẽ qui định cụ thể số cơ sở để
lại Ðạo quản lý và số người trong từng cơ sở để chuyên lo về mặt tín ngưỡng.
Ðiều 5: Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh Tây Ninh chịu trách
nhiệm tổ chức chỉ đạo, thực hiện thắng lợi Nghị quyết này, và báo cáo kết quả
lên cấp trên, và Hội Ðồng Nhân Dân Tỉnh trong kỳ họp tới.
Ngài Hồ Bảo Đạo
nhận xét:
Nếu thi hành
nghiêm chỉnh bản quyết nghị nầy thì Hội Thánh Cao Đài kể như không còn nữa, nhưng nếu đột ngột giải tán một lần cả hệ thống tổ
chức hành chánh Đạo thì ắt có sự giao động không nhỏ trong nội bộ của Đạo. Nên Ủy Ban Nhân Dân và Mặt Trận Tổ Quốc
tỉnh Tây Ninh khéo léo kéo dài việc thi hành bằng cách gài cho Hội Thánh ra bản
Thông Tri số 1 đề ngày 12-2-1979 và Đạo lịnh số 1 ngày 1-3-1979 để rồi
Hội Thánh bị bắt chẹt vi phạm cách nầy hay cách khác cho rằng Hội Thánh bằng
mặt mà không bằng lòng, mà mỗi khi bị bắt chẹt như vậy dù nặng nhẹ khổ nhục vẫn
gánh chịu không dám tỏ ra vẻ bực bội hay bất bình.
Ngày 12-02- 1979
Hội Thánh ra Thông tri số 01.
Ngày 01-03-1979
Hội Thánh ra Đạo Lịnh 01.
Trong áp lực
khủng khiếp của chính quyền từ Bản Án Cao Đài và Quyết nghị ngày 13-12-1978 Hội
Thánh đã phải ký ĐL 01/1979.
ĐL 01/1979 có 09
điều: Điều 01: Giải thể hành chánh đạo 05 cấp. Điều 02: Lập cơ chế hành chánh
đạo 02 cấp. Điều ba: Thăng thưởng, tuyển chọn, bổ nhiệm & hình phạt. Điều
04: Đại Hội Hội Thánh (04 năm một lần). Điều 05: Nhắc lại việc ngưng cơ bút
(khóa con đường dùng cơ bút để hại đạo). Điều 06: qui định việc hành đạo ở Tòa
Thánh và Địa phương. Điều 07: Đạo lịnh sẽ được bổ sung theo ý nhơn sanh. Điều
08: Các Đạo Lịnh trước đây trái với Đạo Lịnh 01 bị bãi bỏ (ĐL 01 không phạm vào
các giá trị trên ĐL). Điều 09: ban hành và thi hành.
Nội dung chính của ĐL 01/1979 là giải
thể hành chánh đạo 05 cấp chuyển đổi sang hành chánh còn 02 cấp.
(Nhưng nhiều
người không đọc đến điều thứ hai: thiết
lập hành chánh đạo 02 cấp nên hiểu rằng giải thể Hội Thánh. Đó là nhận
thức rất sai. Tai hại hơn nữa là đem cái sai đó ra truyền bá, gieo rắc ý nghĩ
Hội Thánh vi phạm Pháp Chánh Truyền mà không chỉ ra được vi phạm tại điều khoản
nào).
Hội Thánh đủ
sáng suốt để nhìn ra ý đồ thâm sâu của chính quyền là muốn tiêu diệt ĐĐTKPĐ. Họ
ra tay từng bước bằng cách “GÀI” cho Hội Thánh thay đổi cơ chế 05 cấp (Hương, Tộc, Châu, Trấn và Trung Ương)
sang 02 cấp (Trung Ương và địa phương “Thánh Thất hay Điện Thờ”). Năm 1957 Đức
Hộ Pháp đã để lời tiên tri tại Nam Vang: Cộng sản sẽ chiếm được miền Nam. Ngài
Hồ Bảo Đạo là người sát cạnh Đức Hộ Pháp thì hẳn nhiên biết tiên tri đó nên
chấp nhận giải bàn cờ thế do chính quyền cộng sản bày ra. Việc xin ngưng cơ bút
thăng thưởng nơi Cung Đạo là nước cờ đột phá bảo tồn kho binh khí của ĐĐTKPĐ.
Những người công
quả xây Đền Thánh đa phần đều biết câu: Khi xây xong Đền Thánh Bần Đạo sẽ rút dàn
trò ra của Tôn Sư.
Đó là câu nói có
nhiều ý nghĩa.
Nghĩa đen trong
xây dựng thì ai cũng hiểu thực tế là phải như vậy.
Nhưng chẳng nhẽ
câu trên chỉ có nghĩa đen?
Trong nghĩa bóng
thì xây xong Tòa Thánh là xây xong Tòa nhà Đạo Pháp của ĐĐTKPĐ. Tòa nhà Đạo
Pháp có 02 phần vật chất và tinh thần. Vật chất là hệ thống giáo lý, giáo luật,
cơ chế 03 Hội Lập Quyền vạn linh....là thể pháp tôn giáo. Tinh thần là sự hiểu
biết, là lòng tin tưởng của tín đồ vào nên chánh giáo như thế nào, đến đâu? Có
đủ hiểu biết về cách lập pháp của ĐĐTKPĐ để tin rằng nó đủ năng lực xây dựng
một thế giới Đại Đồng trong Bác Ái – Công Bằng hay không? Có dám sống hết mình
với sự nghiệp của Đức Chí Tôn hay không?
Rút dàn trò ra
là gì? Là không tấn phong chức sắc nữa. Cho nên 03 Hội Lập Quyền Vạn Linh đã
thông qua danh sách cầu phong Lễ Sanh từ năm 1974 mà Hội Thánh không đưa ra
cung Đạo để cầu quyền thiêng liêng định phái, chấm phong. Quyển Quan Hôn Tang
Lễ Đức Lý Giáo Tông phê chuẩn năm 1976 tại Cung Đạo mà không tấn phong Lễ Sanh
là một bằng chứng cho ý nghĩa rút dàn trò.
Tại sao phải rút
dàn trò? Bởi vì Hội Thánh do Thiên Thượng lập thành đã hoàn thành nhiệm vụ (xây
xong Tòa nhà Đạo Pháp). Giờ đến buổi sử dụng, khai thác tòa nhà nên phải có lớp
người mới, có êkip mới. Đó là tầng lớp nhân sự do Thiên Hạ lập ra để trình dâng
cho Thiên Thượng phê chuẩn tạo thành Hội Thánh (khai thác tòa nhà Đạo Pháp).
Tóm lại: Rút dàn
trò ra là vì nhiệm vụ chống đở của dàn trò đã xong. Tòa nhà đã đủ sức đứng
vững.
Cho nên ngày nay
môn đệ Thầy mới đủ sáng, đủ sức hiệp đồng nhau từ quốc nội đến quốc ngoại hô hè
nhau MỞ CỬA CHÙA.
Thầy dạy: Khai đạo muôn năm trước định giờ...
Vậy thì đất nước
sống trong chế độ cộng sản.... và cơ đạo đi vào bước khảo đảo nầy cũng có bàn
tay của Thầy trong đó. Đọc kinh cúng tứ thời: Làm người rõ thấu lý sâu... Cớ chi không chịu hiểu lẽ đạo, không
suy nghĩ để rõ thấu lý sâu... mà theo cái lý cạn, muốn nổi bật bằng
cách chỉ trích, phê bình Hội Thánh vì đã ký ĐL 01/1979. Có phải là muốn người
đời hiểu các vị giỏi hơn Hội Thánh, gan gốc hơn Hội Thánh...(sic).
Hành xử của
chính quyền sau khi Hội Thánh ký ĐL 01.
Cơ chế 02 cấp có
đặc điểm là nhanh nhạy. Nhưng nếu trung ương bị không chế thì địa phương bị tê
liệt. Chính quyền không cho phép thực hiện ĐL 01/1979. Rõ ràng nhất điều 04 của
ĐL 01/1979 (Không cho tổ chức Đại Hội Hội Thánh).
Thi hành ĐL
01/1079 một thời gian chính quyền nhận thấy khối đức tin của người đạo hầu như
nguyên vẹn. Bởi lẽ dưới sự điều hành của Ngài Hồ Bảo Đạo và Ngọc Đầu Sư (là
người có đầy đủ năng lực và đạo đức) thì cơ đạo vẫn không bị triệt tiêu. Điều
nầy chứng tỏ cơ chế tuy quan trọng song nhân sự mới là yếu tố quyết định. Nên
chính quyền mới tiến hành việc vô hiệu hóa Ngài Hồ Bảo Đạo bằng cách quản chế
hành chánh.
Ngài Hồ Bảo Đạo
ghi lại:
Tại một cuộc khám xét toàn bộ Nội Ô và Ngoại Ô Tòa
Thánh đưa đến bản quyết định ngày 4-6-1980 số 124/QĐ và số 191 ngày 1-7-1980
của UBND Tỉnh Tây Ninh, quản lý toàn bộ các cơ sở vật chất của Đạo, chỉ còn
chừa lại cho Đạo Ngôi Đền Thánh với Đông Lang và Tây Lang, Báo Ân Từ và Tây
Lang Hộ Pháp Đường, Giáo Tông Đường, Nam Đầu Sư Đường và Nữ Đầu Sư Đường, Khách
Đình và Nhà Thuyền.
Cũng trong dịp nầy chánh quyền qui định hạn chế số
người còn được ở trong Nội Ô Tòa Thánh còn lối 70 người mà thôi và về sau thâu
hẹp còn lối 40 người.
@@@
Có nhiều lần nguyên Thừa Sử Hiệp Thiên Đài Trương
Ngọc Anh, ảnh hưởng quyền Thái Chánh Phối Sư Thái Hiểu Thanh ngỏ ý Ngọc Đầu Sư
Cửu Trùng Đài và đệ tử nên xin nghỉ để người khác thay thế, nhưng hai chúng đệ
tử không thể bỏ phận sự trong lúc nền Đạo gặp buổi khó khăn nên đánh liều tới
đâu hay tới đó.
Qua năm 1981, đệ tử đau ruột thừa phải giải phẩu,
phải nghỉ dưỡng bịnh một thời gian. Đến năm 1982 thì đệ tử lâm bịnh đường tiểu
không thông phải đi Sài Gòn trị bệnh nên có giải đãi phần nào trong công việc.
Đầu năm 1983 Ngọc Đầu Sư Cửu Trùng Đài lâm trọng
bịnh đưa đi bệnh viện Sài Gòn, khi thuyên giảm về thì hình như lãng trí không
làm việc được nữa nên về tư gia an dưỡng.
Phần đệ tử trong lúc đang thọ lịnh nhập an tịnh tinh
khí thần hiệp nhứt hườn hư dâng Bửu Pháp và thọ kiết hình vô tội thì một hôm
được Đức Di Lạc truyền tin đệ tử sắp bị quản thúc.
Đệ tử có phần
ngạc nhiên không hiểu đệ tử làm gì mà bị quản thúc. Ba bữa sau thì UBND Tỉnh Tây Ninh mở phiên họp công
khai hóa vụ án của đệ tử bị kết tội chỉ đạo và lãnh đạo hai tổ chức phản động
phản cách mạng đưa đến.
Hiện nay đệ tử
đang trong vòng bị quản chế 3 năm ở tư gia hằng tháng phải trình diện với quyền
kiểm sát của chánh quyền xã ấp.
Hội Đồng ra
thông tri không nhìn nhận Ngài là Bảo Đạo. Từ đây Ngài mà chỉ là một đạo hữu.
(ct1)
@@@
NHỮNG CÁCH GIẢI ĐỀ THI KHÁC NHAU.
Sau khi ĐL
01/1979 ra đời người đạo chia làm 02 diện:
I/- Thông hiểu và tuân hành ĐL 01/1979.
Nhân sự diện nầy
chia làm 02 thành phần.
1/- Tuân y ĐL
01/1979 để tiếp tục lập công.
2/- Vận dụng
những qui định trong ĐL 01 để chấn chỉnh nền đạo. Điển hình là yêu cầu HĐCQ
thực thi điều số 04 ĐL 01/1979 (Mở Đại Hội Hội Thánh).
II/- Chống lại ĐL 01/1979 với 02 mức độ điển hình:
1/- Kết tội Đạo
Lịnh 01/1979 giải thể Hội Thánh thành lập HĐCQ là lập nên chi phái từ 1979.
2/- Phê phán nạn
nhân.
Diện nầy nhìn
nhận pháp lý ĐL 01/1979 là của Hội Thánh thường kèm theo câu phải cúi đầu tuân
mạng. Liền đó phát ngôn tiếp rằng nhưng không chấp nhận nội dung ĐL 01/ 1979 vì
giải thể Hội Thánh.
@@@
Mặc Tử viết
rằng: Người mù nói trắng nói đen thì nói vanh vách người sáng mắt cũng phải cho
là đúng. Song nếu đem miếng vãi trắng và màu ra cho họ chọn thì họ không sao
chọn được. Cho nên mù hay không mù chính là do sự lựa chọn, do việc làm chứ
không cứ vào lời nói.
Đức Chí Tôn tiên
tri: …Dầu cho ai có quyền phép tiêu diệt càn khôn đi nữa cũng khó ngăn
được Đạo Thầy. Như ai buộc các con đóng cửa chùa thì cứ tuân mạng, đợi chừng
nào các sắc con cái Thầy đến mở cửa sẽ hay…
(Đạo Sử Q 2
T.226 Bản in Hoa Kỳ)
Chính quyền Việt
Nam đã đóng cửa chùa của ĐĐTKPĐ, các sắc con cái Thượng Đế yêu cầu Việt Nam
phải được tự do tôn giáo... Đó chính là các sắc con cái của Thầy đến mở cửa.
Thầy báo trước là chắc chắn mở được.
Chúng tôi tin
rằng tiên tri của Thầy đã và đang được ứng nghiệm...
Ngày phục hồi cơ
đạo đã hiển hiện trước mắt. Ba Hội lập quyền Vạn Linh sẽ có phán quyết về cách
hiểu ĐL 01/1979 thế nào là đúng, là tích cực để làm gương cho hậu tấn. Cho nên
Khối Nhơn Sanh hiểu rằng ĐL 01/1979 là đề thi cho người tín đồ Cao Đài.
Tin tưởng vào
tiền đồ của Đạo, vào nhận thức về ĐL 01/1979 nên Khối Nhơn Sanh tổ chức chuyến
đi hành đạo miền trung từ ngày 16-06-Giáp Ngọ (12-07-2014) đến ngày 22-06-Giáp
Ngọ (18-07-2014).
Nay kính.
Việt Nam ngày
24-06-Giáp Ngọ.
(20-07-2014).
Phái đoàn Đức
Tin.
(Khối Nhơn
Sanh).
@@@
(ct1) Ông Lễ
Sanh Thượng Tiếng Thanh Ban Cai Quản Thánh Thất Phận Đạo Đệ Tam thời gian đó
cho thông tin:
Trước khi Ngài Hồ
Bảo Đạo mất ít lâu Mặt Trận Tổ Quốc Tỉnh, Ban Tôn Giáo Tỉnh, và chính quyền địa
phương có mời Ban Cai Quản cùng đi đến tư gia yêu cầu Ngài viết Tờ đề nghị với
nhà nước phục phẩm Bảo Đạo để khi mất làm theo nghi thức Thời Quân.
Ngài trả lời
rằng: Cảm ơn chính phủ đã nhọc lòng lo lắng, xin quí vị để thời giờ lo cho dân
chúng được ấm êm, hạnh phúc còn phần tôi nhà nước định sao tôi chịu vậy (Ngài
không làm đơn theo yêu cầu nhà nước).
Khi Ngài mãn
phần Mặt Trận Tổ Quốc Tỉnh, Ban Tôn Giáo Tỉnh, chính quyền địa phương, Hội Đồng
Quản Lý có mời Ban Cai Quản đến Ủy Ban Nhân Dân Xã Hiệp Tân để bàn về việc hành
đám thế nào? An táng ở đâu?
Chính quyền và
Hội Đồng bàn rất lâu mới ra chương trình: hành đám theo hàng phẩm Đạo Hữu. An
táng trong phần đất của Thập Nhị Thời Quân. Từ trong nhà ngó ra Tháp Ngài Ca
Bảo Đạo thì phần mộ nằm bên tay trái.
Một Đạo Hữu rất phi thường./.
Xe Như Ý đưa người sứ mạng,
Dâng chữ hòa đến bạn đồng môn.
Chỉ ra Bản án Cao Đài,
Chính danh thủ phạm oan sai ngút trời.
zzz
Đạo lịnh một nạn nhân Bản án,
Cớ chi chi chì chiết nạn nhân.
Để cho thủ phạm cười khà,
Môn sinh thấu rõ, đạo nhà khai thông.
(CÒN TIẾP).