NAM MÔ
CAO ĐÀI TIÊN ÔNG
ĐẠI BỒ TÁT MA HA
TÁT.
NHẬN ĐỊNH VỀ THƯ
ÔNG BÙI VĂN CÔN.
“Ngụy biện và che dấu lập trường ba không của
Hội Thánh”.
Kính thưa quí
chức sắc, chức việc và đồng đạo.
Kính quí hiền
nhân quân tử đang đấu tranh cho bác ái, công bằng.
Trên trang web caodai.net.vn của
chi phái Hội Đồng Chưởng Quản lập năm 1997 có đăng thư của ông Bùi Văn Côn ngày
16/6 Giáp Ngọ
(dl.12/7/2014) gởi quí vị Đại Đạo Thanh Niên Hội hải ngoại tại đường link
Tôi xin có mấy nhận xét về cách
ứng xử và nội dung bài viết sau:
Cách ứng xử:
Hoan nghinh ông Bùi Văn Côn đã
đăng bài lên net và không rút xuống. Bởi vì vào tháng 8-2013 Báo Xa Lộ Pháp
Luật đăng loạt bài bôi bẩn Đức Hộ Pháp và ĐĐTKPĐ; ông Đầu Sư Thượng Tám Thanh
(thế danh Nguyễn Thành Tám) Chưởng Quản Hội Thánh (là thượng cấp của ông Côn, Chưởng
Quản hai Đài) có bài phản ứng và đăng trên trang web caodai.net.vn của quí vị
được mấy hôm thì bài bị rút xuống.
Tóm lại đối thoại là một cách ứng
xử văn minh. Ông Bùi Văn Côn đã ra khỏi thông lệ: ăn xôi chùa nên ngậm miệng của chi phái nầy nên cần được tán dương
và mong rằng ông sẽ trả lời thư nầy trên net.
Về nội dung.
Do có nhiều nội dung cần làm rõ
nên Tôi xin nêu từng vấn đề một.
NHẬN ĐỊNH MỘT.
“Mạo danh Hội Thánh ĐĐTKPĐ”
Ông Bùi Văn Côn cầu phong với Hội
Thánh ĐĐTKPĐ, đắc phong Lễ Sanh phái Thái (Thái Côn Thanh). Hiện là Phối Sư của
chi phái 1997.
Là người có học thức nên ông Phối
Sư Côn vận dụng pháp luật đạo là Đạo Nghị Định thứ tám để qui kết người không
tùng chi phái 1997 đã chiếm Tòa Thánh Tây Ninh là chi phái (thật là chảnh..
cười).
Hầu hết nhân sự chi phái đều ít
khi bàn đến pháp luật (thống kê từ sách các chi phái viết do nhà xuất bản Tôn
Giáo in). Họ biết nói đến pháp luật là bị kẹt nên thường nói lý. Họ tự biết nên
chẳng dám khoe bùa trước cửa Lỗ Ban hay đánh trống trước cửa nhà sấm.
Ông Phối Sư Côn là nhân sự chi
phái 1997 mà vận dụng pháp luật ĐĐTKPĐ là điều hiếm thấy. Chúng tôi sẽ chỉ ra
canh bài tráo của chi phái 1997 (cũng là của ông Phối Sư Côn) về 02 phương
diện: nhân sự và tổ chức nơi thập mục sở thị.
I/- Hội Đồng Chưởng Quản lập chi
phái năm 1997. (Về tổ chức).
Đạo
Nghị Định thứ 8 ngày 25-08-1934 định rõ:
Ðiều thứ nhứt: - Những Chi Phái nào do bởi Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ
Ðộ làm gốc lập thành mà không do nơi mạng lịnh Hội Thánh, thì cả chúng sanh
chẳng đặng nhìn nhận là của Chí Tôn và phải định quyết là Bàng Môn Tả Ðạo.
Theo qui định
trên nếu chi phái nào không có mạng lịnh Hội Thánh đều là bàng môn tả đạo.
Chi phái 1997 không trình được mạng lịnh
Hội Thánh nên là bàng môn tả đạo.
(Lưu ý rằng HĐCQ không phải là Hội Thánh)
Đạo Lịnh 01/1979 viết:
Hội
Thánh ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ lập một Cơ
quan hành Ðạo duy nhứt tại Tòa Thánh là: Hội Đồng Chưởng Quản CỦA
Hội Thánh Đại Đại Tam Kỳ Phổ Độ. (Chữ CỦA thể hiện Hội Thánh là chủ và HĐCQ
là cấp dưới Hội Thánh).
...Hội Đồng Chưởng Quản hành Ðạo theo nguyên tắc Dân chủ tập trung, cá
nhân phụ trách, chấp hành nghiêm
chỉnh và đứng đắn Pháp Chánh Truyền, Tân Luật, Giáo pháp Chơn truyền của Ðạo và các biểu quyết của Hội
Thánh về mặt Ðạo, lập các Ðạo Lịnh, Thông Tri, Huấn Lịnh, chỉ đạo chư Chức sắc
Nam Nữ làm nhiệm vụ giáo hóa và phổ độ nhơn sanh trên đường Ðạo và
đường Ðời.
Chúng
tôi sẽ trình ra chứng cứ HĐCQ phạm vào Giáo pháp chơn truyền và Pháp Chánh
Truyền.
1/-
Vi phạm Giáo pháp chơn truyền.
Theo giáo pháp chơn truyền thì
danh xưng của tôn giáo là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Ngày 02-11-Bính Dần (06-12-1926) Thầy dạy:
Ta
vì lòng đại-từ đại-bi vẫn lấy đức háo sanh mà dựng nên mối Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ; tôn chỉ để vớt những kẻ hữu phần vào
nơi địa-vị cao thượng, để tránh khỏi số mạng luân hồi và nâng những kẻ tánh đức
bước vào cõi nhàn, cao hơn phẩm hèn khó ở nơi trần thế nầy.
(Thánh Ngôn Hiệp
Tuyển Q1 trang 69 bản in 1973).
Ngày 03-01-1927 Thầy dạy:
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, chiếu theo luật Thiên-Đình hội Tam-giáo, mở rộng
mối Đạo Trời, ấy cốt để dìu-dắt nhơn-sanh bước lên con đường cực-lạc, tránh
khỏi đọa luân-hồi và dụng Thánh-tâm mà dẫn dân-sanh, làm cho hoàn-toàn trách
nhậm nặng-nề của đứng làm người, về bực nhơn-phẩm ở cõi trần-ai khốn-đốn nầy.
(Thánh Ngôn Hiệp
Tuyển Q2 trang 18 bản in 1963).
Danh hiệu Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ (06
chữ) dùng từ năm 1926. Trong chương trình hiến pháp ngày 28-08-1928 đã xác định
bản quyền đại tự 06 chữ trên. Châu Tri 15 ngày 18-03-1931 nhắc lại. Điều thứ
nhất trong hiến chương 1965 cũng xác định danh hiệu 06 chữ nầy. Giáo pháp chơn
truyền là như vậy.
1.1/-
So sánh danh hiệu hiến chương 1965 và hiến chương 1997.
a/-
HIẾN CHƯƠNG 1965.
“Có tư cách Trung Ương”.
Chương I: Danh hiệu – Huy hiệu – Đạo kỳ.
Điều thứ 1. -
Danh hiệu là: Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ,
gọi tắt là (Đạo Cao Đài).
Điều thứ 2.- Hội Thánh Cao Đài đặt địa điểm Trung Ương tại Tòa Thánh Tây Ninh.
Chương XII: Thống nhất.
Điều thứ 27. - Hiến
Chương nầy sẽ là Luật căn bản thống nhứt đối với tất cả Chi Phái Cao Đài nào
ngày sau chấp nhận và ký tên.
Lập tại TÒA THÁNH TRUNG ƯƠNG
Ngày 19 tháng 12 Giáp Thìn. (21-01-1965 dl.)
Lập tại TÒA THÁNH TRUNG ƯƠNG
Ngày 19 tháng 12 Giáp Thìn. (21-01-1965 dl.)
@@@
b/- HIẾN
CHƯƠNG 1997.
“Không có tư
cách Trung Ương – có tư cách chi phái”.
Chương I : Danh hiệu – Huy hiệu – Đạo Kỳ - Trụ
sở.
Điều 1: Danh hiệu Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Cao Đài Tây Ninh,
gọi tắt là Đạo Cao Đài Tây Ninh.
Hiến Chương nầy
gồm: Lời Nói Đầu, 09 Chương và 36
Điều, được Đại Hội Đại biểu Cao Đài Tây Ninh họp tại Tòa Thánh Tây Ninh ngày
5-4-1997 biểu quyết nhất trí thông qua.
Hội Thánh Đại Đạo Tam
Kỳ Phổ Độ Cao Đài Tây Ninh
Hội Đồng Chưởng Quản.
*/- Đối chiều điều 01 của hai hiến chương:
+ Hiến chương 1965 danh hiệu đầy
đủ 06 chữ, gọi tắt có 03 chữ.
+ Hiến chương
1997 danh hiệu đầy đủ 10 chữ, gọi tắt có 05 chữ.
*/- Tư cách
Trung Ương.
HC 1965 có tư
cách Trung Ương (trong Hiến Chương và cuối Hiến Chương). HC 1997 của HĐCQ không có tư cách Trung Ương
(chữ trung ương không xuất hiện lần nào), các vị đã chấp nhận là chi phái.
Hiến Chương 1997
không có mạng lịnh Hội Thánh và không có tư cách trung ương nên là chứng cứ để
kết luận: HĐCQ là một chi phái.
1.2/-
Chứng cứ từ chính quyền và báo chí.
a/- Chứng cứ một: của chính quyền.
Kế hoạch 01 ngày 27-5-1996 của Tỉnh Tây Ninh do Bí thư
Nguyễn Văn Rốp ký có đoạn: .....Bước 2 : Thực hiện cụ thể.
Ban chỉ đạo tham mưu với thường vụ Tỉnh ủy để thống
nhất với Ban Dân Vận Trung ương, Ban Tôn giáo của Chính Phủ về nội dung của
Hiến Chương, việc này làm xong trong tháng 6-1996. Việc góp ý Hiến Chương nhằm
đạt các yêu cầu sau:
• Xác định
tôn giáo Cao Đài Tây Ninh là một chi phái.
b/- Chứng cứ 02: Cũng của chính quyền.
Biên bản phiên
họp ngày 03-7-1997 tại Hội Trường UBND huyện Hòa Thành (bản PDF trên net).
Ông Nguyễn Văn
Thống chủ tịch MTTQ VN huyện Hòa Thành: …HĐCQ
cần lập hiến chương và xin pháp nhân…Đạo
chỉ gọi là phái Cao Đài Tây Ninh, xem như các phái đạo khác (tr 14,
dòng 9-11).
c/- Từ Báo xa lộ pháp luật.
Số 36 ra ngày
17/8/2013 trang 16 cột bốn dòng 26 viết:
...Hiện nay, Cao Đài Tây Ninh
được nhà nước công nhận là một trong chín chi phái Cao Đài hoạt động hợp pháp ở
Việt Nam.
Ông Phối Sư Côn và chi phái 1997 có
trong tay mấy trang web, giao thiệp được với chính quyền các cấp và tiền bạc
thừa mứa; nếu các vị không phải là chi phái vậy thì phản bác và yêu cầu tờ báo
nầy đính chính xem nào. Các vị không bao giờ dám hó hé vì nó đúng với sự thật
mà báo nầy lỡ tay viết ra. Nên nhớ rằng Tổng Biên Tập tờ báo là do chính phủ bổ
nhiệm nên nó có tính cách của chính phủ trong đó.
Tóm lại: Chi phái 1997 không có mạng lịnh của Hội Thánh nên là bàng môn tả
đạo.
2/- Vi phạm Pháp Chánh Truyền (về phong thưởng nhân
sự).
Chi phái 1997
biện minh ràng các vị cầu phong và cầu thăng theo Tân Luật và Đạo Luật Mậu Dần
(1938). Điều đó là chính xác. OK.
Từ sự chính xác
đó dẫn đến kết quả: phàm phong, phàm thăng (vì sai với Pháp Chánh Truyền). Xin dẫn chứng cụ thể:
a). Diễn văn tại Đại Hội Nhơn Sanh năm Đinh Sữu
(1937).
Đức Hộ Pháp có
dạy rõ: Ấy vậy Luật Hội Thánh là phàm
luật; còn Thánh luật duy có Pháp Chánh Truyền mà thôi.
Chi phái 1997 đã
xác định cầu phong, cầu thăng theo Tân Luật và Đạo Luật Mậu Dần (1938) của Hội
Thánh. Mà Tân Luật và Đạo Luật Mậu Dần là phàm luật. Vậy phong thưởng theo phàm
luật là phàm phong. Đó là một tam đoạn luận nên kết quả chắc chắn. (HẾT CHỐI!!!
cả cười).
a.1/- Tân Luật điều thứ 8:
Đầu Sư muốn
lên Chưởng Pháp thì nhờ ba vị công cử nhau.
Phối Sư muốn
lên Đầu Sư thì nhờ 36 vị công cử lên.
Giáo Sư muốn
lên Phối Sư thì nhờ 72 vị công cử nhau.
Giáo Hữu muốn
lên Giáo Sư thì nhờ 3.000 vị xúm nhau công cử.
Lễ Sanh muốn
lên Giáo Hữu thì nhờ cả Lễ Sanh xúm nhau công cử.
Ngôi Giáo
Tông thì hai phẩm Chưởng Pháp và Đầu Sư tranh đặng, song phải chịu toàn tín đồ
công cử mới đặng.
Kỳ dư Thầy
giáng cơ ban thưởng mới ra khỏi luật lệ ấy mà thôi.
Luật
lệ lập Hội Thánh này vì chiếu theo Thánh Ngôn mà đem ra.
Tân luật ban
hành ngày 01-06-1927. Thời điểm đó Thầy chưa dạy về 03 Hội Lập Quyền Vạn Linh
nên Tân Luật không đề cập đến.
a.2/- Đạo Luật Mậu Dần (1938).
Ngày 23 Décembre 1931 Thầy giáng
cơ tại Thảo Xá Hiền Cung dạy đầy đủ về 03 Hội Lập Quyền Vạn Linh. (TNHT Q2
trang 83. Bản 1963)
Sau Đại Hội năm
Đinh Sửu (1937) Hội Thánh soạn Đạo Luật Mậu Dần (1938); qui định thăng thưởng
chức sắc Cửu Trùng Đài phải qua 03 Hội Lập Quyền Vạn Linh nhưng vẫn sót câu: nên trước khi thọ sắc phải do nơi Đức
Giáo Tông cùng Thầy mới đặng.
(trong PCT CG).
Đao luật Mậu Dần
(1938) Điều thứ nhứt khoản II mục 01 ghi rõ: ...đệ ra quyền vạn linh công nhận. Chi phái 1997 đánh tráo
Quyền VẠN LINH CÔNG NHẬN thành Quyền CHÍ LINH CÔNG NHẬN và ăn gian luôn khoản
THỌ SẮC từ cơ bút của thiêng liêng.
Nhưng luật phải tùng pháp, luật phải theo pháp.
Chức sắc thiên
phong phải qua 03 giai đoạn:
./- Quyền Vạn
linh là 03 Hội Lập Quyền công nhận.
./- Quyền Chí
Linh là quyền Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp lại chấp thuận (sau khi 03 Hội công
nhận).
./- Thọ sắc của
Thiêng Liêng bằng cơ bút tại cung Đạo (nên mới gọi Thiên phong).
Kinh Thiên Đạo
và Thế Đạo bài Kinh Xuất Hội câu 03,04 dạy:
Vạn Linh đã hiệp
Chí Linh,
Hội xong cậy sức
công bình Thiêng Liêng
Đã thể hiện 03
giai đoạn: Vạn Linh, Chí Linh và Thiêng Liêng.
Ông Phối Sư Côn
hẳn biết năm 1974 các vị cầu phong Lễ Sanh đã qua 03 Hội Lập Quyền nhưng chưa
THỌ SẮC nơi Thiêng Liêng nên chưa có Thánh danh (chưa có phái). Luật: Công nhận; Pháp: Thọ sắc.
Đức Hộ Pháp cầm
quyền Giáo chủ Đạo Cao Đài mà Ngài chỉ phong thưởng đến phẩm Lễ Sanh và để tạm
nơi phái Ngọc chờ Đức Lý Giáo Tông chấm phái. Từ phẩm Giáo hữu trở lên Ngài
không biết đến.
Chi phái 1997
đem mấy trái banh vàng xanh đỏ vào cung Đạo thay cho cơ bút mà cũng dám xưng
rằng thiên phong thì đó là ván bài tráo. Chi phái 1997 hô hào rằng: Lạy mấy
trái banh vàng xanh đỏ để thọ sắc cũng như thọ sắc với thiêng liêng (nên xưng
thiên phong) là phường ngụy tín.
Tóm lại: Pháp
Chánh Truyền qui định: nên trước khi
thọ sắc phải do nơi Đức Giáo Tông cùng Thầy mới đặng.
Pháp Chánh
Truyền là thánh luật. Tân Luật và Đạo Luật là phàm luật. Cầu phong, cầu thăng
theo Tân Luật và Đạo Luật Mậu Dần (1938) là theo phàm luật; là phàm phong.
b). Huấn Lịnh 638 dạy về phàm phong:
Chức Sắc Thiên Phong cho đồng thể cùng Thần, Thánh,
Tiên, Phật mới đáng là hình thể của Người. Nếu
để phàm phong thì quả nhiên nhơn loại đã lăng mạ danh thể của Người, ấy là tội
Thiên Điều chẳng dể dung thứ.
c). Cũng trong diễn văn trên Đức Hộ Pháp dạy:
Ấy vậy ngoài ra quyền Chí Tôn thì chẳng ai có quyền
hành nào phong thưởng Thiên Phong Chức Sắc của Hội Thánh. Duy có Đức Lý Giáo
Tông và Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn là hai Đấng đã có lịnh Chí Tôn cho
được quyền phong thưởng thì phẩm tước ấy
mới nên giá trị.
Ngoài hai Đấng ấy ra dầu cho một vị Đại Giác Kim
Tiên hay là Cái Thiên Cổ Phật mà không thừa mạng lịnh của Chí Tôn và không
quyền hành nơi cửa Đạo nghĩa là không lãnh mạng lịnh trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ
nầy thì không đặng quyền phép phong tước
cho ai tất cả.
Ngày nay bọn Tã Đạo Bàn Môn phong thưởng chẳng do
Thiên mạng đều là cơ quan tà giáo mà thôi.
Nói tóm lại:
Phong thưởng vào hàng chức sắc phải qua cơ bút.
Chi phái 1997 đã
vận dụng Tân Luật và Đạo Luật Mậu Dần (1938) để biện minh cho việc phong thưởng
không qua cơ bút. Nhưng thiên la địa võng đã bày ra nên triệt giáo phải vướng
vào Pháp Chánh Truyền.
Chi phái 1997 phong thưởng không qua cơ
bút là tà giáo.
@@@
***:
TÂN LUẬT CÒN THIẾU SÓT.
Ngày 4 tháng 6
năm Mậu-Thìn (1928) Đức Tiêu Sơn Đạo Sĩ dạy:
Hiệp-Thiên-Đài có Đức Chí-Tôn là chủ quản. Quyền
thưởng-phạt nơi Ngài mà thôi. Tân-Luật
lập còn thiếu sót nhiều, bởi Chức-Sắc Hiệp-Thiên-Đài chẳng để mắt
đến,... (TNHT
Q2 trang 56 bản in 1963).
Riêng câu: Tân-Luật
lập còn thiếu sót nhiều,... Chúng tôi mạo muội nghĩ rằng một trong
những thiếu sót đó là qui định thăng thưởng thiếu khoản phải qua cơ bút.
@@@
3/- Chi phái Trung Hưng Bữu Tòa tranh dành cơ ngơi ĐĐTKPĐ.
Chi phái 1997
chiếm dụng danh hiệu và cơ ngơi ĐĐTKPĐ thì chi phái Trung Hưng Bữu Tòa chiếm
Thánh Thất Từ Vân. Nói có sách, mách có chứng xin trình bày chứng cứ như sau:
Phái đạo Từ Vân
(100 Thích Quảng Đức Gia Định) đã hưởng ứng 09 điều kiện qui nhứt các chi phái
(1969) của Hội Thánh ĐĐTKPĐ nên đồng lòng mở hội và quyết định ký tên qui về
Toà Thánh Tây Ninh. [Biên bản số 07 ngày 27-09- Tân Hợi (14-11-1971) và số 11
đề ngày 02-11-Tân Hợi (19-12-1971)].
Ngày 22-04-Nhâm
Tý (03-5-1972), Hội Thánh Cao Đài đã kết hợp với Tộc Đạo Tân Bình Châu Đạo Gia
Định tổ chức lễ tiếp nhận phái Đạo Từ Vân qui về. Và bổ nhiệm chức sắc đến hành
đạo.
Sau ngày
30-04-1975 nhà nước lấy một phần Thánh Thất làm hợp tác xã. Đạo Trưởng Bạch Hổ
là đồng tử Trung Hưng Bữu Tòa có bà con với các vị hậu duệ Từ Vân Tự mới tới
lui để hiệp với Cô Đầu Tộc đòi cơ ngơi lại. Sau nhiều năm tranh đấu chính quyền
mới trả lại.
Khi chính quyền
trả lại Chi phái nầy ra tay chiếm luôn Thánh Thất (ngay khi Cô Đầu Tộc bị bệnh
nhưng còn ở tại Thánh Thất). Chi phái nầy có pháp nhân thì xây Thánh Thất có cả
Nghinh Phong Đài. (ngon a!!!)
Nếu HĐCQ có tư
cách thừa kế Hội Thánh ĐĐTKPĐ thì sao lại để cho chi phái chiếm đoạt cơ ngơi mà
lặng thinh như vậy? (sic)
Đây là chứng cứ
cho thấy HĐCQ là kẻ chiếm đoạt danh hiệu và cơ ngơi của ĐĐTKPĐ nên hoàn toàn
không dám lên tiếng. Làm sao HĐCQ dám mở miệng khi chính các vị cũng là kẻ
cướp. Ăn cướp lớn và ăn cướp nhỏ hè nhau chiếm dụng cơ ngơi ĐĐTKPĐ đã rành
rành ra đấy.
Với quyền hành và
phương tiện trong tay Ông Phối Sư Côn thử lên tiếng xem Chi phái Trung Hưng Bửu
Tòa sẽ trả lời như thế nào?
II/-
Che dấu sự thật.
1/-
Che dấu lập trường ba không của Hội Thánh ĐĐKPĐ.
Ông Phối Sư Côn viết: Tất nhiên là
phải tuân tòng phép nước, dù đó là quốc gia nào, hoặc thể chế nào đi nữa, thì
mới có thể tồn tại và phát triển được. Đó là qui luật muôn đời ! Chỉ có kẻ bất trí mới không biết mà thôi.
Câu viết trên đã thể hiện HĐCQ
chấp nhận là một chi phái theo ý chính quyền muốn (ngang hàng với các chi phái
khác). Cho nên xã hội gọi đây là chi phái quốc doanh. Ông Phối Sư Côn có trí (theo kiểu ăn cướp lớn)
nên chỉ nêu có một điểm: không chống
chánh quyền mà dấu mất 02 điểm rất còn lại trong lập trường ba không của
Hội Thánh.
Lập trường ba không là: Không chống chánh quyền. Không theo
chánh quyền. Không tham gia chánh quyền.
Cái Bi, Trí, Dũng của Đạo thể
hiện qua lập trường ba không. Chính vì thực thi lập trường ba không mà Đức Hộ
Pháp cam chịu lưu đày sang Phi Châu năm 1941 và lưu vong sang Campuchia năm
1956. Cũng vì lập trường ba không nên chính phủ ban hành nghị quyết 297 thì Ngài
Hồ Bảo Đạo hiệp với Ngài Ngọc Đầu Sư đã xin với thiêng liêng ngưng cơ bút cầu
phong cầu thăng để bảo toàn giá trị thiên phong, bảo toàn pháp luật đạo.
Ông Phối Sư Côn qui kết người
khác:... đã
cố tình trích dẫn tài liệu theo kiểu chắp vá ngụy tạo hỏa mù.... chúng tôi
không quan tâm mà chỉ quan tâm đến lẽ thật của ĐĐTKPĐ. Cho nên thẳng thắn chỉ
ra rằng câu viết của ông Phối Sư Côn đúng
với chính ông Côn 100%.
2/-
Luật công cử của Hội Thánh khác với chi phái.
Ông Phối Sư Côn viện dẫn Luật
Công Cử mà chi phái thực hiện... nhưng với những kẻ lừa đảo kinh văn, kinh doanh
tôn giáo thì văn bản và hành động có một khoản cách rất lớn không sao vượt qua
được.
Nội Luật Hội Nhơn Sanh điều 13
qui định:
...Cả Lễ Sanh Chức Việc và Phái Viên không đắc
cử Nghị viên Hội Nhơn Sanh được thông thả đến Toà Thánh nhập hội nhưng được dự
thính mà thôi, nơi Hội có sắp đặc chổ ngồi cho chư vị được dự thính.
Thành phần dự thính nầy góp phần
giám sát năng lực hội viên và chất lượng cuộc hội. Hội Thánh đã thực thi nghiêm
chỉnh điều nầy.
Chi phái 1997 mở hội thì hoàn
toàn không có nơi cho người đạo dự thính. Chi phái ngăn đường đón ngõ, rào kín
bốn bên, ai tới gần rào thì trật tự áo dài, áo ngắn đưa dùi cui tới hăm dọa
liền. Đám tang đi từ Báo Ân Từ đến Đền Thánh cũng phải đi vòng bên lộ Cao
Thượng Phẩm.
3/-
Lời dạy của Giáo Chủ.
a/- Thánh thư 257 ngày 11-01-Đinh Dậu (10-02-1957).
... Vậy thì dù cho cội Đạo bị cốt từ trên tới gốc đi nữa thì nó vẫn nẫy
chồi, biến thành năm bảy cây khác. Đó
đã chỉ rõ rằng Hội Thánh của Đạo Cao Đài chẳng hề bị tuyệt.
Ấy
vậy chiếu theo khuôn luật trên: Hễ quyền trên của ai đã bị
quỉ quyền truất phế thì dưới phải tiếp tục cầm quyền Thiêng liêng của
Đạo.
...Nói
cho cùng nước: Chức sắc Thiên Phong mà bị bắt đi nữa thì
dưới nầy các Bàn Trị Sự và Tín Đồ cùng công cử người thay thế cho họ.
Công cử đây là công cử người nhận
lãnh trách nhiệm; không phải công cử lãnh phẩm tước (mới phù hợp với Pháp Chánh
Truyền). HĐCQ thi nhau công cử phẩm tước nên thành ra bàng môn tả đạo.
b/- Sắc Lịnh 27 ngày 01-04-Bính Tý
(21-05-1936): ...
Bần Đạo chẳng phải “kiên nghịch”, mà
trái lại thì đương “giục nghịch”, hầu làm cho ra mặt những kẻ giả tâm, đặng rửa
cái Thánh Thể của Thầy cho nên tinh khiết, rồi mới dùng Đạo điểm trang cho ra
xinh lịch, đặng đem Đạo đến khoa trường cho hoàn cầu khảo thí; Đạo đặng ra thiệt
tướng thì có làm vậy mà thôi.
Đức Lý Giáo Tông hằng ra tay giục
loạn. Đức Hộ Pháp chẳng kiên nghịch mà còn giục nghịch. Đức Nguyệt Tâm chơn
Nhơn dạy:
Quỉ vương hỏi nơi nào mà đến,
Cứ tầm chơn đừng đếm giả truyền,
Chắc
do trong đám triều Thiên,
Chí
Linh khó sửa cho tuyền Thánh tâm.
Quỉ vương chắc do trong đám triều thiên... là lớp lãnh
đạo và chức sắc bắt banh của chi phái 1997 đang lù lù hiện ra trước xã hội.
Mở con mắt ra mà xem có phải Hội
Thánh bố trí trước Đền Thánh Tượng ông Ác đang cầm trái banh cười khà đó hay
sao?
NHẬN ĐỊNH HAI.
“Chi phái 1997: Sát nhơn bằng Thông Tri 01/83”.
Thư ông Phối Sư Côn có đoạn: Hội Thánh
hiện nay cũng không đá động gì đến “tổ chức nầy”, vì niềm tin là sự tự nguyện,
không ai trói buộc ai phải tin theo. Ngặt nỗi, “tổ chức tự lập nầy” lại muốn “đảo chánh Hội Thánh hiện tại ở Việt Nam”,
họ đã dùng những từ ngữ “dao to, búa lớn, bất kính tôn trưởng, qui chụp nầy nọ
thật thô thiển” ; đả kích một Hội
Thánh đã hết sức Từ Bi đối với họ ! (Hội Thánh hiện nay tại Tòa Thánh Tây Ninh
chưa một lời nói nặng với số tổ chức và những người tự lập ấy)
Chúng tôi sẽ làm rõ từ mẫu chuyện
văn chương... Có nhân vật tên là AQ mắc bệnh hoang tưởng. AQ đi ra đường bị
đánh y không thể chống đở đành nhủ thầm nó đánh mình như đánh bố nó để tự sướng
và cho là đã chiến thắng. Hay như kẻ kia thấy trái cây chín trên cành cao không
sao hái được đành nhủ rằng: Trái ấy còn xanh và dở lắm rồi bỏ đi.
Hội Thánh chi phái 1997 không có
cách chi để rớ tới đồng đạo ở hãi ngoại nên mượn tiếng từ bi để dối thế. Chi
phái 1997 đã gài Trần Quang Cảnh vào điều trần trước Quốc Hội Mỹ bị đồng đạo
Liên Hiệp Bàn Trị Sự Hội Thánh Em ở Mỹ chỉ mặt quốc doanh nên các dân biểu Mỹ
tẩy chay... Còn với người trong nước không theo HĐCQ và yêu cầu HĐCQ trả danh
hiệu và cơ ngơi cho ĐĐTKPĐ thì sát phạt thẳng tay.
I/-
Thông tri giết người của chi phái 1997.
Thông Tri 01/83-HĐCQ.TT ngày 04-02-
Mậu Tý (11.03.2008):
Trong những ngày qua, có nhóm người tự xưng là “Khối
Nhơn Sanh Cao Đài” gồm phần tử như: Cao Hùng Quốc, Lê Kim Biên ở Kiên Giang,
Nguyễn Quốc Son ở TPHCM, Hứa Phi ở Lâm Đồng, Cao Văn Minh ở Phú Yên, Dương Xuân Lương ở Hoà Thành cùng
một số người khác, chống đối việc hành đạo của HĐCQ, đã phát tán Bản Đề Nghị, Tờ Bố Cáo v.v… nhằm
giục loạn, gây mất đoàn kết nội bộ tôn giáo, cố tình dùng lời lẽ lừa đảo, gạt
gẫm, lôi kéo người đạo nhẹ dạ nghe theo vào đường tội lỗi với Đạo, vi phạm luật
pháp Nhà nước.
HĐCQ đã cử chức sắc hữu trách tiếp xúc và giải thích
cho các đương sự hiểu biết về nguyên tác người giử Đạo và luật pháp Đạo; nhưng
họ không cải thiện và tiếp tục lợi dụng tính dân chủ và tự do tôn giáo của Nhà
nước, kích động đồng đạo, thông báo từ nay đến ngày 17.3.2008 (mùng 10-02-Mậu
Tý) sẽ tập trung đông người kéo về Nội Ô Toà Thánh đòi HĐCQ giao cơ sở của đạo
cho họ...
Ông Phối Sư Côn
viết: ...họ
đã dùng những từ ngữ “dao to, búa lớn,... là chẳng thắm vào đâu so với Hội Thánh chi phái 1997 đã viết Thông Tri 01/83
có còng số 8, có nhà tù và súng đạn để giết người đạo theo ĐĐTKPĐ không tùng
phục họ. Nha trão mặc đạo phục đem thông tri nầy đọc nơi Thánh Thất, Điện Thờ
có đáng mặt là người tu không nhĩ?
Cái
từ bi của Chi phái 1997 là gài Dương Xuân Lương PHÁT TÁN Tờ Bố Cáo để công an
xét nhà ngày 14-03-2008 và bắt hụt.
Ngày 28-08-2009
của Công An Huyện Hòa Thành ra lịnh truy nã (số thứ tự 8401). Lý do: (Lợi dụng các quyền tự do dân
chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức công
dân. Link:
(www.canhsat.vn/truyna/tabid/489/ctl/chitiet/mid/1778/.../Default.aspx).
Cái từ bi của chi phái là dùng thông tri
để sát nhân.
II/-
Đơn Khởi Kiện và Giấy triệu tập.
Ngày 10-07-2014
công dân Dương Xuân Lương đã khởi kiện chi phái 1997 về tội VU KHỐNG. Thông Tri số 01/83-HĐCQ.TT viết:
....Dương Xuân Lương ở Hoà Thành cùng một số
người khác, chống đối việc hành đạo của HĐCQ, đã PHÁT TÁN Bản Đề Nghị,
Tờ Bố Cáo v.v… nhằm giục loạn, gây mất đoàn kết nội bộ tôn giáo, cố tình
dùng lời lẽ lừa đảo, gạt gẫm, lôi kéo người đạo nhẹ dạ nghe theo vào đường tội
lỗi với Đạo, vi phạm luật pháp Nhà nước....
TỜ BỐ CÁO là do
anh Nguyễn Quốc Dũng ngụ tại TP Hồ Chí Minh nhờ cô Võ Thị Nguyên đem về Tây
Ninh giao cho Dương Xuân Lương. Cô Nguyên đã khai với công an là Lương không
nhận.
Hội Đồng Chưởng Quản chụp mũ Tôi PHÁT
TÁN Tờ Bố Cáo là sai sự thật. Đã gây thiệt hại đến danh dự và uy tín
của Tôi.
Đính
kèm chứng cứ: 1/- Ảnh chụp Báo Tây Ninh
ngày 18-03-2008. 2/- Ảnh chụp thủ bút cô Võ Thị Nguyên (Tây Ninh). 3/- Ảnh Chụp
thủ bút ông Sĩ Tải Phùng Văn Phan (Tây Ninh). 4/- Ảnh chụp thủ bút ông Chánh
Trị Sự Nguyễn Thành Nghiệp (Cần Giờ).
Ngày 25-07-2014 Tòa Án đã gởi
Giấy Triệu Tập đến nguyên đơn.
Cái từ bi của chi phái 1997 là
dùng Thông Tri để sát nhân vậy.
Thư của ông Phối Sư Côn còn rất
nhiều điều sai trái. Chúng tôi chỉ nêu một vài điều cơ bản để thức tỉnh những
người bị ngộ độc của chi phái 1997 là một chi phái nguy hiểm, hung ác nhất
trong các chi phái.
Nay kính.
Việt Nam ngày
02-07-Giáp Ngọ.
(28-07-2014).
(Ký tên).
Dương Xuân
Lương.