ĐỨC TIN KÝ SỰ.
“Từ 12-7-2014 đến 18-7-2014 "
A/- NHẬN ĐỊNH TỔNG QUÁT.
I/- Tình hình xã hội.
1/- Thế giới.
Hoằng khai Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (ĐĐTKPĐ) năm 1926 Đức Chí Tôn có dạy:
Vốn từ trước Thầy lập ra Ngũ chi Đại-Đạo là:
Nhơn-đạo, Thần-đạo, Thánh-đạo, Tiên-đạo, Phật-đạo.
Tuỳ theo phong hoá cuả nhân loại mà gầy Chánh-Giáo,
là vì khi trước Càn-vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt, thì nhơn-loại duy có hành
đạo nội tư phương mình mà thôi.
Còn nay thì nhơn-loại đã hiệp đồng. Càn-Khôn dĩ tận
thức, thì lại bị phần nhiều đạo ấy mà nhơn-loại nghịch lẫn nhau: nên Thầy mới
nhứt định quy nguyên phục nhứt...
(TNHT
Q 1 trang 18 bản in 1973)
Năm 1939 thế
giới bước vào Đệ Nhị thế chiến đến 1945. Theo số liệu Liên Hiệp Quốc thống kê
được thì cuộc chiến đã tàn sát hơn 100 triệu người. Còn con số không thống kê
được thì không sao kể hết.
Hai quả bom
nguyên tử của Hoa Kỳ dội xuống Nhật Bản đã là nổi ám ảnh khủng khiếp của nhân
loại. Nhưng thảm họa hạt nhân chưa chắc là đã dừng lại ở đó.
Sau thế chiến
thứ hai các cường quốc ra sức chế tạo vũ khí hạt nhân. Sức công phá của vũ khí
hạt nhân mà các cường quốc hạt nhân đang sở hữu đủ sức hủy diệt hàng trăm hành
tinh chúng ta đang sống.
Ai dám bảo đảm
rằng các cường quốc hạt nhân không xài đến?
Trước thảm họa
hạt nhân tiềm tàng như thế người đạo Cao Đài phải làm gì để góp phần ngăn chận
thảm họa hạt nhân?
Xin thưa rằng
người đạo chỉ có một phương cách góp phần ngăn chận hiểm họa hạt nhân là: ĐẠO
ĐỨC.
Đạo đức thể hiện qua hành động.
Hành động thiết
thực của người đạo Cao Đài trong buổi nầy là bảo tồn chánh pháp của ĐĐTKPĐ.
Trong nền chánh giáo của Đức Chí Tôn có công thức, có mô hình, có cơ chế để:
Lập Quyền Dân trong quốc gia. Có công thức để xây dựng thế giới hòa bình, yên
tịnh:
Cầu xin trăm họ bình yên,
Nước giàu dân mạnh thanh nhàn
muôn năm.
Nhiệm vụ chúng
ta trong buổi nầy là giới thiệu BỬU PHÁP NHÂN QUYỀN của ĐĐTKPĐ (Lập Quyền Dân-
Dân Mạnh) đến với chư vị hiền nhân quân tử.
2/- Việt Nam.
Năm 1926 Thượng
Đế giáng trần lập ĐĐTKPĐ tại Đại Nam Việt Quốc thì dân tộc Việt Nam còn trong
vòng nô lệ của thực dân Pháp. Các vị tiền bối của ĐĐTKPĐ phần lớn là người ưu
tư với vận nước. Đức Chí Tôn đã dạy các vị làm cuộc cách mạng Đạo Đức để xây
dựng xã hội bằng phương pháp ôn hòa làm mẫu mực cho nhân loại. Đạo thực thi 05
phương án: gia cư, mưu sinh, giáo huấn, kiến thiết và tôn giáo để xây dựng nên
vùng Châu Thành Thánh Địa trù phú ngay trong thời kỳ đất nước còn nô lệ. Các
quan chức cao cấp của Pháp (Tỉnh Trưởng Tỉnh Tây Ninh; Chánh Thanh Tra Hành
Chánh Nam Kỳ) nhìn công việc của tôn giáo qua lăng kính xã hội học phương Tây đã
phải thốt lên: Đạo Cao Đài lập một quốc gia trong một quốc gia.
Năm 1954 Đức Hộ
Pháp gặp Thủ Tướng Phạm Văn Đồng tại Geneve đã nhắc Thủ Tướng về hiểm họa
phương bắc: ...Đừng có đuổi Pháp cửa
trước rồi rước Tàu cửa sau thì quốc dân sẽ không tha thứ...
Hiệp định Geneve
về Việt Nam được ký ngày 20-07-1954.
Năm 1956 Đức Hộ
Pháp lưu vong sang Nam Vang để công bố cương lĩnh Hòa Bình Chung Sống
(26-03-1956).
Để xây dựng hòa
bình, hạnh phúc và tự do cho toàn dân Cương Lĩnh đề ra:
1/ Kích thích và thúc đẩy cuộc “Thi đua Nhơn Nghĩa”, giữa 2
miền Bắc và Nam để thực hiện hạnh phúc cho nhân dân trong cảnh hòa bình xây
dựng trên nguyên tắc bác ái, công bình và nhơn đạo.
2/ Áp dụng và thực hiện Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Liên
Hiệp Quốc, thực hiện tự do dân chủ trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
3/ Thâu thập tất cả mọi ý kiến, phát huy do tinh thần hiền
triết cổ truyền của chủng tộc đưa lên và giao lại cho Liên Hiệp Quốc hòa giải
để thi hành cho dân chúng nhờ.
4/ Dùng tất cả các biện pháp để thống nhất tinh thần dân tộc
trong việc xây dựng hạnh phúc với điều hay lẽ đẹp trên căn bản hy sinh và phụng
sự.
5/ Hai miền phải thành thật bãi bỏ mọi tuyên truyền ngụy biện
và xuyên tạc lẫn nhau. Phải để cho nhân dân đứng trước sự thật tế mà nhận xét
sự hành động của đôi bên rồi lần lần sẽ đi đền chỗ thống nhất ý kiến.
6/ Sự thực hiện “Chánh Sách Hòa Bình Chung Sống” trên đây sẽ
đặng thi hành dưới sự ủng hộ và kiểm soát thường trực của Liên Hiệp Quốc và các
phần tử Trung Lập trong nước và ngoài nước, hầu ngăn ngừa mọi áp bức nhân dân
do nơi quyền độc tài của địa phương hay do áp lực của ngoại quyền xúi giục.
@@@
Năm 1956 chính
phủ 02 miền đều không thực hiện Hiệp Định Geneve dẫn đến cuộc chiến tranh nồi
da xáo thịt 20 năm (1954-1975).
Ngày 30-04-1975
chủ nghĩa cộng sản thắng trận. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản đất nước lâm
vào 02 cuộc chiến nữa:
1976-1986: Cuộc
chiến tranh ở Campuchia. (10 năm).
1979- 1989: Cuộc
chiến tranh với Tàu Cộng. (10 năm).
Năm 1990 Liên Xô
sụp đổ.
Thành trì xã hội
chủ nghĩa không còn. Các nhà lãnh đạo Việt Nam đã đến Thành Đô để nhận công
thức bốn tốt và 16 chữ vàng của Trung Quốc. Kết quả là tháng 05-2014 dàn khoan
HD 891 của người bạn vàng đã ngang nhiên xâm phạm vào lãnh hải VN.
Ngày nay chính
phủ công khai trước toàn dân rằng: Trung Quốc dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa của
Việt Nam.
Công pháp quốc
tế qui định: Xâm lăng không tạo ra chủ quyền.
Trung Quốc đã
xâm lăng Việt Nam vậy tại sao chính phủ Việt Nam không kiện ra Tòa án quốc tế?
Vì công hàm của
Thủ Tướng Phạm Văn Đồng ký năm 1958 chúc mừng Trung Quốc công bố lãnh hải...
Há miệng mắc
quai. Mang đơn đi kiện chỉ có thua mà thôi.
Như vậy muốn
thắng kiện chỉ có giải pháp duy nhất là thực thi đúng với Hiệp Định Geneve về
Việt Nam. Chính quyền do dân bầu theo Hiệp Định Geneve mới đủ tư cách kiện
Trung Quốc và chắc chắn thắng kiện. Thời hiệu kiện về Hoàng Sa là 50 năm tính
từ 1974 (chỉ còn 10 năm nữa là hết, khi đó Hoàng Sa sẽ mất vĩnh viễn)
Cái giá trị của
Cương Lĩnh Hòa Bình Chung Sống hãy còn nguyên vẹn không hề sứt mẽ, tổn thương
sau 58 năm công bố.
Câu Đạo Đời cùng khổ 60 năm ứng vào đây
chăng?
Giải pháp Hòa
Bình Chung Sống sẽ được thực thi thế nào trên mãnh đất hình chữ S?
3/- Sự tiến triễn khoa học kỷ thuật.
Sự phát triễn
của khoa học kỷ thuật đã đẩy lùi những truyền thuyết liêu trai của xã hội lẫn
tôn giáo vào nấm mồ vô tận. Ngày nay nhân loại
có trong tay một công cụ rất quan trọng là internet.
Qua internet
chúng ta thấy lời Thầy dạy:... Còn nay
thì nhơn-loại đã hiệp đồng. Càn-Khôn dĩ tận thức,... đã hiển hiện trên thế
giới phẳng.
Từ ngày có
internet chúng ta thấy những giá trị nhân văn của nhân loại lớn mạnh như vũ
bão, nhanh như sấm chớp đã làm khủng khiếp những thế lực độc tài. Internet lấy
năng lượng từ công lý và tình thương nên sức mạnh của nó là vô biên, không gì
có thể cản nổi. Chính nhờ có năng lượng từ công lý và tình thương nên hằng loạt
các chế độ độc tài ngã gục dưới làn sóng vô hình của internet. Tất cả chế độ
độc tài trên thế gian nầy đều run sợ trước internet trước khoa học kỷ thuật.
Giờ cáo chung của những thế lực độc tài đã điểm.
Điều nầy đồng
nghĩa với việc ĐĐTKPĐ có một phương tiện cực kỳ hiệu nghiệm để thực hiện công
thức:
Cao Thượng Chí Tôn Đại Đạo Hòa
Bình Dân Chủ Mục.
Đài Tiền Sùng Bái Tam Kỳ Cộng
Hưởng Tự Do Quyền.
Đức Lý Giáo Tông
có để lời tiên tri rằng:... Đạo Cao Đài
không ra khỏi nước mà vẫn thực hiện nhiệm vụ của nó được... khi internet
chưa ra đời chúng ta thấy rất khó hiểu. Ngày nay chúng ta hiểu được rất rõ ràng
chính là nhờ có vật chứng: internet. Một công thức đúng kèm theo cách thức, cơ
chế thực thi công thức đó được chứng minh rõ ràng thì chỉ vài động tác là nó
đến với những người quan tâm trong nhân loại.
Chúng ta may mắn
là chứng nhân giữa hai thời kỳ chưa có và có internet nên mới có niềm vui của
nhân chứng.
II/- Tình trạng của ĐĐTKPĐ.
1/- Gốc.
Đức Chí Tôn dạy
rằng: Muốn phá đạo không gì bằng phá pháp luật Đạo. Đức Chí Tôn thách thức Kim
Quang Sứ coi có phá nổi chánh giáo của Ngài hay không. Do vậy mà lập ĐĐTKPĐ
Thầy dạy lập thể pháp trước. Thể pháp là phần nổi của tảng băng. Cứ hễ phần nổi
còn thì biết chắc rằng phần chìm hãy còn. Hệ thống pháp luật của ĐĐTKPĐ mà Thầy
và các Đấng Thiêng Liêng dạy cho Hội Thánh lập ra chính là một trong các thể
pháp. Đạo Nghị Định thứ tám ngày 25-8-1934 định rõ:
Điều thứ nhứt: Những
chi-phái nào do bởi Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ làm gốc lập-thành mà không do nơi
mạng-lịnh Hội-Thánh, thì cả chúng-sanh chẳng đặng nhìn-nhận là của CHÍ-TÔN và
phải định-quyết là Bàng-Môn Tả-Đạo.
Đó là định nghĩa duy nhất thế nào là chi phái.
2/- Chi Phái Hội Đồng Chưởng Quản (1997).
Do chính sách
tôn giáo của chính phủ Việt Nam qua nghị quyết 297 (1977) nên Ngài Hồ Bảo Đạo
và Ngọc Đầu Sư xin ngưng cơ bút để bảo toàn giá trị thiên phong, không chịu để
cho phàm tục kiểm soát mối đạo Trời. Bảo tồn chánh giáo chơn truyền của đạo.
Năm 1978 chính
quyền ban hành Bản Án Cao Đài.
Ngày 13-12-1978
HĐND Tỉnh Tây Ninh ra quyết nghị.
Bản án và nghị
quyết là thủ phạm để nạn nhân là Hội Thánh ra Thông tri số 01 (12-02-1979) và
Đạo Lịnh 01/1979 (01-3-1979).
ĐL 01 lập ra Hội
Đồng Chưởng Quản CỦA Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ để điều hành đạo sự. (HĐCQ
không phải là Hội Thánh).
Đến năm 1997
HĐCQ tách mình ra khỏi mạng lịnh Hội Thánh để xin pháp nhân lập ra chi phái
mới. (Hội Thánh không cho phép).
Báo xa-lộ
Pháp-Luật số 36 ra ngày 17-08-2013 trang 16 cột 4 dòng 26 viết: “ …
Hiện nay, Cao-Đài Tây-Ninh được Nhà-Nước công-nhận là một trong 9 chi-phái
Cao-Đài hoạt-động hợp-pháp tại Việt-Nam.”
Chứng cứ rành
rành còn chối cái chi.
III/- Nhân sự ĐĐTKPĐ.
Kể từ ngày chi
phái 1997 ra đời thì nhân sự ĐĐTKPĐ bị chính quyền đàn áp mọi bề. Một trong
những điều tàn nhẫn nhứt chính quyền là giúp cho phái 1997 chiếm đoạt danh hiệu
và cơ ngơi của ĐĐTKPĐ rồi hành hung và bắt giam những người dám nói lên sự
thật.
Binh quí hồ tinh bất quí hồ đa. Môn đệ Cao Đài
trong nước cho dù bị đàn áp thì tiếng nói của chúng ta (nhờ có tnternet) nên đủ
mạnh thoát ra khỏi căn phòng âm vang đến với đồng đạo và hiền nhân quân tử yêu
chuộng hòa bình, công lý và tình thương trên thế giới. Chúng ta chỉ là những cá
nhân nhỏ bé, nhưng Thầy đã dùng nhiều cái nhỏ bé để làm thành chứng nhân vĩ đại
cho BỮU PHÁP NHÂN QUYỀN của ĐĐTKPĐ.
Đức tin là sự nhận thức về chân lý. Chúng ta có
nhận thức được chân lý ĐĐTKPĐ cực kỳ quí giá mới dám thể hiện đức tin bằng sự
đương đầu với tà quyền dường ấy.
B/- MỤC ĐÍCH; NỘI DUNG; THÀNH VIÊN.
Ngày 16-06-Giáp Ngọ (12-07-2014).
Sau khi hội ý,
bàn thảo và thành lập phái đoàn; Khối Nhơn Sanh quyết định ngày 16-06-Giáp Ngọ
(12-07-2014) khởi hành.
09 giờ các thành
viên họp mặt tại Hương Đạo Rạch Ông để lập chương trình cho chuyến đi.
I/- Mục đích chuyến đi.
Đây là chuyến
hành đạo miền Trung đầu tiên của Khối Nhơn Sanh (KNS) nên mục đích rất khiêm
nhượng.
./- Đến thăm
viếng đồng đạo còn theo chánh giáo chơn truyền để cùng nhau hiểu rằng cho dù
nền Đạo đang phải chịu thử thách nặng nề nhưng dưới lớp tro tàn hãy còn lớp
than hồng rực lửa. KNS đến với đồng đạo trong tinh thần Hòa Bình Chung Sống,
giử lửa cho nhau.
./- Thảo luận để
đồng đạo nhận ra thủ phạm gây ra cảnh khó khăn cho ĐĐTKPĐ là Bản Án Cao Đài.
Đạo Lịnh 01 chỉ là nạn nhân. Hiểu vậy thì người đạo không nên đem nạn nhân ra
phân tích, kích bác mà chung tay lo gỡ bỏ Bản Án để phục hồi cơ đạo. Đây cũng
là tiếng nói chung của đồng đạo quốc nội và hãi ngoại thể hiện qua Thỉnh Nguyện
Thư.
./- Nơi nào hiểu
và ký tên ủng hộ thì tốt. Chưa đồng thuận cũng tốt, thậm chí có bị nặng lời
cũng tốt. Thời gian là bạn thân thiết của lẽ phải, chúng ta luôn luôn tin tưởng
vào sự sáng suốt của đồng đạo.
II/- Nội dung phổ biến & thảo luận.
1/- Kinh sách đem theo.
Phái đoàn quyết
định chỉ đem theo những kinh sách có dấu kiểm duyệt của Hội Thánh. Như Thánh
Ngôn Hiệp Tuyển, Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo, Quan Hôn Tang Lễ, Phương Tu Đại
Đạo, Lời Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp... Đặc biệt là Thánh Tượng để tặng cho các
địa phương. (Phần lớn số kinh sách trên là do gia đình PTS Tiến chuẩn bị - hơn
sáu triệu đồng photo- hiệp cùng một số đồng đạo gởi tặng)
Phần tài liệu
chung của Khối Nhơn Sanh bao gồm: Nhận định và Lập trường Khối Nhơn Sanh, Lập
trường KNS về Đạo Lịnh 01. Tờ Yêu Cầu Chính Phủ Hủy bỏ Bản Án Cao Đài. Thỉnh
Nguyện Thư gởi Quốc Hội Mỹ ngày 16-07-2014. Đề Tài Tham Khảo về Đại Hội Nhơn
Sanh.
Tập thể nhất trí
với đề nghị của Hiền Tỷ Lễ Sanh Hương Muội phổ biến Đạo Tâm Thư số 15 (phù hợp
với lập trường, quan điểm KNS).
2/- Phương pháp giao tiếp.
./- Phái đoàn
trình bày ngắn gọn và đúng trọng tâm (kiệm lời).
./- Ghi nhận cho
hết ý kiến địa phương và hồi đáp đúng trọng tâm.
./- Tuyệt đối
không can dự vào nội bộ địa phương.
./- Khi địa
phương đề nghị giúp đở điều chi thì phải trả lời rõ ràng, tránh gây hiểu lầm.
Khả năng đến đâu hứa đến đó.
./- Phải nhớ
rằng trong khi trãi bước trong cõi ta bà, không phải ai cũng đồng thuận với
chúng ta cho nên phải sẳn sàng và vui chịu nghịch cảnh khi hành đạo (kể cả hàm
oan).
III/- Các thành viên phái đoàn Đức Tin.
Tập thể đã bầu
chọn như sau:
1/- Lễ Sanh Ngọc
Nghệ Thanh (CTTĐ). Trưởng đoàn.
2/- CTS Trần
Ngọc Điệp (Tây Ninh). Phó đoàn 1.
3/- CTS Nguyễn
Vinh Thành (Gò Công), Phó đoàn 2.
4/- CTS Trần
Ngọc Sương (Gò Công), Thư ký.
5/- CTS Nguyễn
Thị Hương (Củ Chi), Thủ bổn.
6/- CTS Võ Văn
Quang (Củ Chi), Thành viên.
7/- PTS Phạm Văn
Phúc (Dương Minh Châu), Thành viên.
8/- PTS Trần
Quốc Tiến (Rạch Ông), Thành viên.
9/- PTS Nguyễn
Thị Hồng (Tây Ninh), Thành viên.
10/- PTS Nguyễn
Xuân Mai (Ánh - Vĩnh Long), Thành viên.
11/- TS Đỗ Thanh
Phiên (Đồng Nai), Thành viên.
12/- TS Trần Thị
Vàng (Đồng Nai). Thành viên.
13/- TS Huỳnh
Thị Lượng (Tây Ninh), Thành viên.
14/- PTS Hoàng
Thị Hậu (Tân Biên). Thành viên.
IV/- Phương tiện & tài chánh.
1/- Phương tiện:
Thánh Thất Phú
Thành Đông (Gò Công) cho mượn xe ô tô 16 chổ ngồi hiệu Toyota. Biển số đăng ký 53M.
1938 nên mọi người bảo rằng đi xe Đạo Luật Mậu Dần. Lái xe PTS Trần Quốc Tiến.
2/- Tài chánh.
Trước giờ khởi
hành thủ bổn cho biết số hiện kim do các thành viên trong đoàn đóng góp và KNS
đóng góp khoản 8.000.000$ (tám triệu đồng)...
Một số đồng đạo
biết được chuyến đi hành đạo của KNS đã điện thoại thăm hỏi và đóng góp thêm.
Chúng tôi xin thành kính tri ân.
Xe khởi hành tại
Rạch Ông (Sai gon) lúc 11 giờ 20 phút.
@@@
Ngọc
Nghệ Thanh đàn anh dẫn lối,
Ánh
Hồng Quang Điệp Phúc Hậu Vàng,
Dâng
chánh lý Phiên Thành Sương Tiến,
Vui đường xa nhớ Lượng Hương Lương.
(CÒN TIẾP).